Truyện

Truyện (246)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Khoảnh khắc khó phai - Thanh Hà

Khoảnh khắc khó phai

Mỗi năm đến Tháng Tư là tâm trạng tôi cứ man mác nỗi tiếc thương. Những kỷ niệm từ 49 năm trước hiện về rõ nét dù lòng không muốn nhớ.

Không muốn nhớ bởi những ngày đen tối ấy chẳng những đã giáng tai ương cho cuộc sống của gia đình tôi và chính bản thân mà còn gieo tang tóc chia lìa cho hàng triệu người dân miền Nam Việt Nam yêu chuộng Tự Do nói chung.

 

Ngày 26 Tháng Tư 1975

Để đến trường Văn Khoa, tôi luôn phải đi ngang Đại Sứ Quán Mỹ. Từ mấy tuần qua, thấy người ta đứng sắp hàng rồng rắn trước cổng, mỗi ngày mỗi dài ra, mỗi nhiều thêm lên. Lúc đầu tôi thắc mắc không hiểu, sau mới biết là họ đến ghi tên xin đi Mỹ. Rồi đường phố thấp thoáng chỗ nầy chỗ nọ bóng dáng nhiều người mặc quân phục VNCH hơn thường lệ. Rồi số người từ miền Trung chạy loạn đổ xô vào, trong số đó có gia đình những người bạn học quê Qui Nhơn, Huế, Quảng Ngãi…

Tôi quyết định bỏ trường, ra xa cảng miền Tây mua vé xe đò về quê cách 250 km với mục đích kể cho ba má nghe những gì tôi chứng kiến cùng những gì dư luận bàn tán về cuộc chiến, định thuyết phục ba má tìm đường ra đi. Bởi chúng tôi sống ở một tỉnh có bờ biển lẫn sông rạch kinh ngòi chằng chịt nên việc ra đi lúc ấy rất dễ dàng như đi dạo chơi, chỉ cần đến bến tàu, xuống thuyền trả tiền cho tài công thuê họ chở đến nơi hạm đội của Mỹ chờ sẵn ngoài khơi gần đảo Phú Quốc là thoát hiểm họa.

Ngày 27 Tháng Tư 1975

Vì chị ba và em gái thứ năm vẫn còn ở lại Sài Gòn – hai người vương vấn người yêu nên còn nấn ná – má kêu chị hai sáng hôm sau nghỉ làm (chị là thư ký cho Ty Thông tin nơi ba tôi đảm trách), để đi Sài Gòn đón hai người và thu xếp đồ đạc về quê, không được nấn ná. Sáng 5 giờ chị hai ra đi, gần chiều đã thấy chị quay về một mình. Thì ra hôm qua chiếc xe đò chở tôi buổi sáng đi qua Cai Lậy vẫn còn an toàn thì đến trưa đã bị Cộng quân tấn công với đạn, pháo, mìn, súng… Người chết rất nhiều, đoạn đường bị chặn không thể qua lại. May mà chuyến xe tôi đi sớm, chứ không thì chiếc xe chở tôi có thể cũng là một trong những chiếc xe bị trúng đạn pháo.

Nhà tôi nằm ở ngoại ô quận cách tỉnh 7km. Mặt trước nhà là liên tỉnh lộ nối dài Long Xuyên, Cần Thơ, Vĩnh Long, Sài Gòn. Bên kia con đường là sân bay nhỏ dân sự lẫn quân sự chạy dài từ Cầu Hoằng ngút đến tận Ngã Ba. Nhà chúng tôi nằm giữa đoạn sân bay ấy. Xa hơn phạm vi phi trường là các đồng lúa xanh ngút ngàn của nhiều nông gia, trong số ấy có của ông bà Ngoại tôi.

Phía sau nhà là dòng sông hiền hoà mà chiều chiều khoảng 5 giờ, nhiều chiếc giang đỉnh chở khoảng chục người trên mỗi chiếc, có cả cố vấn Mỹ chạy ngang nhà vào tận các làng mạc xa xôi, cho đến tận sáng hôm sau mới trở về căn cứ. Thỉnh thoảng có chiếc bị bắn chìm, và người đi chiều hôm trước không bao giờ trở về sáng hôm sau.

Ba tôi ban ngày vẫn ra ty – ngoài tỉnh – làm việc bình thường. Trưa, tối về ăn cơm, nhưng bắt đầu từ Tháng Ba, mỗi tối ông vào ngủ trong dinh quận, cách nhà tôi gần 1 km. Từ sau Tết, bên kia sông, đoạn giữa Cầu Quây và mộ ông Hội Đồng Suông, một nơi khá hoang sơ, là căn cứ địa của “bọn họ”. Cứ vài tối là họ lén lén lút lút ra phát loa ra rả đòi tiêu diệt sĩ quan công chức VNCH, trong đó có tên ba tôi. Gần sáng thì họ thụt trốn đâu mất dạng.

Ngày 28 Tháng Tư 1975

Lần này đích thân Má đi Saigon để tìm hai con gái bị kẹt trên ấy. Cũng như chị hai, đến chiều lại quay về vì có trận đánh lớn, cắt giao thông hoàn toàn. Ba má lo lắng, nỗi bất an hằn rõ trên mặt. Lúc ấy chưa có điện thoại nên không sao liên lạc được. Má như ngồi trên đống lửa.

Ngày 29 Tháng Tư 1975

Má may mười bao vải nhỏ cho mười thành viên trong gia đình, gồm ông bà Ngoại, Ba Má, và sáu chị em tôi. Xếp vào mỗi bao mấy bộ quần áo cho từng người, vật dụng cần thiết, giấy tờ khai sinh, bằng cấp học lực, ít tiền… nói để khi cần thì bao của ai người ấy mang đi cho nhanh.

Cách nhà tôi hơn nửa cây số có căn cứ của quân chủng Hải Quân. Bình thường họ ra ngoài sinh hoạt những lúc không phải đi hành quân, trên các giang đỉnh siêu nhẹ lướt nhanh. Lúc còn học ở quê nhà, tôi thấy họ mỗi ngày. Bây giờ, họ túc trực ngày đêm trong doanh trại, không thấy xuất hiện ngoài đường phố nữa.

Ngày 30 Tháng Tư 1975

Khoảng nửa đêm ngày 29.04 rạng sáng 30, mọi người đang ngủ bỗng choàng thức bởi tiếng súng, xen tiếng đạn pháo liên hồi từ phía cánh đồng bên ngoài phi trường bắn tới tấp, vào chung quanh nhà chúng tôi và nhà hàng xóm. Ông bà Ngoại, Má kêu mấy chị em tôi mau ra khỏi mùng chạy núp vào góc kẹt của bồ lúa sau nhà bếp.

Bao nhiêu năm chiến tranh, chúng tôi thường xuyên thấy quân phục các quân chủng VNCH của họ hàng, thân thuộc, bạn hữu…, xe thiết giáp, xe jeep, GMC, trực thăng, chiến đấu cơ, chiến hạm, giang đỉnh…, nhưng đây là lần đầu tiên chúng tôi trong tâm điểm của trận chiến trực tiếp giữa hai phe đối lập. Nghe tiếng súng bắn gần bên tai như thế, bàng hoàng, kinh hãi không sao tả hết. Tôi kêu thầm trong đầu: Trời ơi, VC đã mò tới đây rồi sao? Họ có tìm giết chúng tôi – thuộc thành phần công chức – như họ đã làm trong trận Mậu Thân 1968 Huế không?

Trời sáng, đã thấy rõ mặt người. Lợi dụng thỉnh thoảng tiếng súng hơi lơi, Ngoại, Má và cậu em trai ra trước nhà, hé mở cánh cửa sổ quan sát. Nghe tiếng Má thảng thốt kêu nho nhỏ:

Trời ơi, có mấy ông đội nón cối nằm bên kia vệ đường bắn vào nhà dân kìa. Đóng cửa chặt lại, tìm chỗ núp cho mau.

Chúng tôi quá sợ hãi, chui trở lại vào cạnh bồ lúa. Nếu họ có bắn từ đàng trước vào thì đã có bồ lúa cao chất ngất che. Trời càng sáng rõ thì âm thanh lửa đạn càng dữ dội. Bây giờ chúng không phải chỉ đến từ phía cánh đồng mà mọi phía: Từ căn cứ Hải quân, từ dưới sông, khi các chiếc giang đỉnh bắn đáp trả.

Đến trưa thì tiếng súng, tiếng pháo lớn càng liên tu bất tận. Chúng tôi nằm dí một góc không dám cục cựa. Một tiếng nổ thật lớn ngay nhà dì ba kề bên, rồi nghe tiếng dì khóc nấc lên kinh hoàng, kêu cứu má tôi:

Trời ơi là trời, chị hai ơi, bé Mai Chi bị trúng thương chết rồi chị hai ơi. Con ơi là con ơi. Sao con bỏ ba má mà đi sớm vậy hả con ơi.

Dì ba là em họ dì với má tôi. Chồng dì là hạ sĩ quan đang làm nhiệm vụ tuyển mộ tân binh ở tỉnh. Sau, dì kể là một mảnh đạn cối bay lạc, văng miểng trúng vào ngực con bé 11 tuổi. Bé hộc lên một tiếng nhỏ rồi hồn lìa khỏi xác, trong miệng vẫn chưa kịp nuốt củ khoai lang dì nấu ăn tạm cho qua cơn đói. Còn dì thì trúng thương ngay chân và bụng, máu chảy lênh láng.

hế là dì cùng bốn con trai còn lại, từ 15, 13, 9, và 3 tuổi, chân thấp chân cao băng qua mảnh sân sau, mò mẫm qua nhà chúng tôi. Thêm mười mấy người hàng xóm ở gần cũng nhập chung. Thế là có hơn hai chục người dồn đống, kẹt bồ lúa không đủ chỗ nên chia nhau chui nằm dưới chiếc giường sắt kê cạnh. Má tôi xé áo băng tạm vết thương cho dì chứ không còn cách nào khác.

Ngày thường Mai Chi học chung, chơi chung với em gái út 10 tuổi của tôi. Giờ chứng kiến cái chết quá bất ngờ thương tâm bởi miểng đạn vô tình, và máu me đầy người của dì ba, em tôi khóc la thất thanh, khiến mọi người đều rúng động tâm can.

Tiếng súng nặng, nhẹ vẫn dồn dập không ngớt, ngoài đồng bắn vào, dưới sông trả đũa bắn lên, nhà dân ở giữa lãnh đủ. Linh cảm sự chẳng lành nếu cứ trốn trong hốc bồ lúa, Ngoại và hai người hàng xóm liều mình chạy xuống mé sông. Ngẫu nhiên có chiếc tàu nhỏ dùng chuyên chở hàng hoá, thực phẩm của ai neo đậu ngay bến nhà tôi, Ngoại bèn thúc giục mọi người dìu nhau nhảy xuống, nằm rạp dưới lòng tàu. Đạn lớn nhỏ thi nhau rớt chung quanh chiếc tàu, bắn nước văng tung toé cả vào mặt chúng tôi.

Thế rồi người lớn thay nhau dùng chèo, chống qua bên kia bờ, thoát ngoài tầm đạn giao tranh. Không ai bị trúng đạn. Đúng là phép lạ. Dì ba bị thương nặng không thể đi, má tôi và cậu em trai 15 tuổi dùng chiếc mền làm võng đặt dì lên, cột hai đầu mền vào chiếc dầm bơi làm đòn gánh lếch thếch nhấc dì đi theo con đường đê ruộng gập ghềnh, lần dò ra ngoài lộ lớn cách hơn hai cây số, chờ xe lam chở dì ra bịnh viện tỉnh.

Phần tôi thì ẵm cậu bé Tùng ba tuổi. Trời trưa nắng như đổ lửa trên đầu. Đoàn chúng tôi toàn đàn bà trẻ nít hơn hai chục người thất thểu lê bước. Tội nghiệp má và em trai, bởi dì ba vốn thân hình khá tròn trịa nên cứ đi được vài chục thước là phải dừng lại, ì ạch thở. Những người đàn bà trẻ đi cùng đều bồng bế trên tay con nhỏ nên không ai đỡ đần má và em tôi để cáng dì ba.

Khát nước cháy cổ, lo tránh đạn đâu có thời gian và tâm trí để mang theo nước, cạnh ruộng có vũng nước nhỏ đục ngầu. Có lẽ là vũng nước trâu nằm chăng? Mọi người mừng như bắt được vàng, bụm nước vào lòng bàn tay mà uống lấy uống để, dù nước ruộng có vị sình non! Hơn hai cây số nhưng phải mất từ trưa đến chiều mới ra được đường cái. Má tôi ngồi vật ra lề, lã đi vì mệt, chờ chiếc xe lam chở đoàn người chạy nạn ra tỉnh. Sau đó gia đình tôi tụ họp ở nhà bà-nội-nuôi. Ba tôi bị kẹt trong Ty Thông tin tỉnh từ mấy ngày nay, cùng đến đoàn tụ.

Nhưng cuộc đoàn tụ chỉ kéo dài thêm vài ngày. Chị ba và em gái thứ năm thu dọn quần áo về quê, chuyện học hành của chúng tôi hoàn toàn khép lại. Ba tôi ra trình diện, bên “may mắn thắng cuộc” hứa chỉ học tập vài hôm, nhưng vài hôm ấy biến thành bảy năm khổ sai nơi U Minh Thượng.

Khi trở về nhà, mới thấy góc vách chỗ chúng tôi ẩn nấp cạnh bồ lúa có nhiều lỗ thủng, còn chiếc giường sắt cháy còng queo, vạt lót giường bằng tre thì không còn chút dấu vết, chỉ thấy lớp bụi mờ đen nhẻm phủ mặt đất. Chúng tôi suýt mất mạng nếu không liều mình cùng nhau nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ sang sông. Cả nguyên ngày 30 Tháng Tư chạy giặc. Chiều tối hôm đó, ba tôi mới cho má con tôi hay là miền Nam đã mất!

 

Thanh Hà

Hồng Anh sưu tầm

 

 

Xem thêm...

Nhớ hoài những chuyện biển dâu…

Nhớ hoài những chuyện biển dâu…

Xem thêm...

Một Chuyện Tình - Yên Sơn

Một Chuyện Tình

ngày 19.04.22
 
 
Tôi quen nàng rất tình cờ, rất lạ và cũng rất thơ. Nàng còn trẻ so với tuổi tôi vàng úa. Tính tôi thích đùa, hay chọc phá trong khi nàng lại rất nghiêm trang. Có một lần tôi bị phang ngang vì hiểu lầm tôi trong một câu nói. Khi tôi bật cười chọc quê thì nàng gặn hỏi. Giải thích rõ ràng nàng mới chịu mình sai. Kể từ đó về sau, tôi hay chọc nàng với tên trâu lác. (Trâu lác thì luôn sớn sác khi nhảy mương vì sợ nước dính vào mình.)

Và đó là khởi điểm cho một cuộc hành trình. Một cuộc hành trình khá dài và có lắm điều không tiện nói. Điều có thể nói đó là nàng tài giỏi. Rất thông mình, hiểu biết hơn người. Ngoài nét đẹp ra, nàng còn có nụ cười, mỗi khi nở làm lòng tôi chới với. Đôi mắt long lanh nhưng sâu vời vợi, hớp hồn tôi khi mới gặp lần đầu.

Tôi đứng bên nầy cầu, nhìn sang bên kia, đã bao lần muốn bước. Sau bao lần nhìn sau ngó trước, mon men ra giữa cầu để chỉ… ca hát vu vơ; rồi đêm về nặn óc làm thơ; bởi tôi viết nàng hân hoan đón đọc, làm tôi nhớ thuở còn đi học, kẹp thư tình trong sách mượn của người ta. Dẫu bây giờ màu tóc đã sương pha, nhưng mảnh lực tình yêu làm tôi trẻ lại. Có lắm lúc lòng tôi ái ngại nhưng vẫn đứng bên cầu mơ ước viễn vông. Vắng tin nhau vài ngày lại ngóng lại trông. Nhìn con nước qua cầu mà lòng nôn nả. Bỗng thấy bị một cội cây rất lạ, lá xanh um che phủ cả tầm hồn.

Cho đến một chiều nắng tắt hoàng hôn, tôi đứng giữa cầu hát vang bài tình ca rất cũ. Nàng đứng nghe rồi ngập ngừng, do dự bước đến bên tôi cùng hát giữa trời chiều. Hai bóng ngả dài trên sóng nước liêu xiêu, quyện với ráng hồng từ chân mây phảng phất. Cứ như thế chúng tôi quên cõi thật, khi giật mình trăng ngả bóng nghiêng soi. Quay nhìn nhau, không ai nói một câu, lẳng lặng bước, mỗi người về một hướng. Trăng soi rọi ngập hồn tôi vui sướng. Nghe cả lời ru của gió thì thầm.

Cuộc tình nhẹ nhàng cứ thế rất nhiều năm. Chúng tôi vẫn đi vòng quanh ngang trái. Biết là chẳng bền lâu mãi mãi vì mỗi bên đã có sẵn một lối về. Cho đến một ngày lòng bỗng tái tê khi nhận biết duyên tình đã cạn. Chân muốn bước qua lằn ranh giới hạn nhưng tin yêu đã buộc chặt bước chân liều. Tôi quay về nghe tim đập buồn hiu. Cứ thoáng chốc lại quay đầu ngó lại. Trong tình yêu ai người khôn kẻ dại, chỉ biết riêng tôi vẫn tiếc nuối cuộc tình nầy.

 

Tháng 4/2022

 

Xem thêm...

Người Khách Đi Xe - Thảo Lan

Truyện ngắn của một Tháng Tư buồn 
Người Khách Đi Xe
Thảo Lan



Trung chạy xích lô cũng hơn ba năm nay. Thời buổi khó khăn, gốc là lính Quốc Gia nên chỉ có chạy xích lô là dễ dàng cho Trung kiếm tiền phụ giúp gia đình nhất. Trung cũng không đủ tiền vốn để mua một chiếc xích lô mà phải mướn xe chạy từng ngày. Thường Trung chạy từ sáng sớm đến tối mịt mới đem trả xe. Hôm nay cuốc xe cuối của Trung là đưa một người khách về một con hẻm ở gần Cổng xe lửa số 6. Con hẻm khá hẹp mà một bên là dãy nhà gạch còn một bên là khu nghĩa trang hoang vắng. Khi quay trở ra thì có một người đàn ông đứng ở ven đường vẫy tay gọi xe. Mặc dù đã mệt mỏi vì cả ngày chạy bao nhiêu cuốc xe rồi nhưng sẵn có khách gọi nên Trung cũng ghé lại hỏi:
– Đi về đâu vậy anh?
Người thanh niên cũng cỡ trạc tuổi Trung có gương mặt khắc khổ và hơi xanh xao dưới ánh đèn yếu ớt từ các ngôi nhà gần đó chiếu ra không đủ soi rõ mặt. Người thanh niên cất tiếng.
– Anh chở tôi ra xa cảng miền Tây được không?

Từ đây đến đó khá xa nhưng dù sao cũng tiện hướng đi về nhà Trung nên anh nhận lời. Sau khi hai bên đồng ý giá cả thì người thanh niên lên xe cho Trung chở. Trung ngạc nhiên vì người thanh niên tướng tá cũng cao ráo tuy có hơi gầy nhưng không ngờ lại nhẹ như vậy. Mặc dù đã là cuối ngày nhưng Trung vẫn đạp xe băng băng như không hề chở ai đằng trước. Suốt thời gian lên xe người khách không hề lên tiếng và cứ ngồi yên lặng gần như không cử động. Lúc này Trung cũng mệt nên cảm thấy như thế cũng may khỏi phải bắt chuyện với khách. Thật sự khi chạy những cuốc đường dài gặp khách vui vẻ nói chuyện rôm rả cũng khiến Trung cảm thấy con đường được rút ngắn đi nhiều. Tuy nhiên đôi khi gặp khách nhiều chuyện nói huyên thuyên nhiều quá thì Trung cũng không thích lắm.

Đến nơi người khách xuống xe trả tiền rồi bỏ đi. Đến lúc này Trung tự dưng thấy ớn lạnh trong người. Anh nghĩ có lẽ mình lao lực quá sức nên muốn cảm nên cố gắng đạp xe thật nhanh về trả xe cho chủ rồi về nhà ăn uống qua loa, tắm rửa rồi đi nằm. Ngày hôm sau, sau khi ngủ qua một giấc thì Trung cảm thấy khỏe khoắn như bình thường. Trước khi rời nhà để đi lấy xe, anh sực nhớ nên móc ví đưa gần hết số tiền chạy được ngày hôm qua cho mẹ để làm tiền chợ. Trung chỉ giữ lại một ít để dằn túi cũng như để phòng xa phải thối tiền lại cho khách.

Sáng chạy vài vòng các đường phố trên Sài Gòn Trung mới gặp được người khách mở hàng kêu anh chở vào Phú Nhuận. Khi móc tiền ra để thối lại cho khách Trung mới chợt nhận thấy trong mớ tiền trong ví của mình có một tờ tiền vàng mã. Trung ngạc nhiên lắm. Tối đó khi về nhà anh hỏi mẹ xem trong mớ tiền mình đưa ban sáng có thêm tờ tiền vàng mã nào không. Bao lâu nay tiền Trung đưa về thỉnh thoảng có ngày mẹ anh vẫn cất để dành chứ không đụng đến nếu trong nhà không thiếu hụt. Mỗi ngày mẹ Trung vẫn ngồi lê la vài tiếng ngoài chợ bán quần áo cũ để kiếm thêm chút đỉnh. Hơn nữa em gái Trung làm công nhân dệt nên cũng ít nhiều phụ giúp được gia đình. Tiền Trung chạy xích lô mẹ anh thường hay cất giữ để dành sau này có việc gì trọng đại, như cưới vợ cho anh chẳng hạn, thì còn có món để chi tiêu.

Khi nghe Trung hỏi lúc đó mẹ anh mới mở tủ ra kiểm lại chỗ tiền anh đưa hồi sáng. Bên trong mớ tiền đó cũng có vài tờ tiền vàng mã. Hai mẹ con thẫn thờ chưa hiểu chuyện gì thì Trung đã lên tiếng.
– Vậy là hôm qua có đứa nào nó lừa đưa tiền vàng mã cho con rồi. Thiệt tình cái thời buổi gì mà cứ lừa lọc người ta tùm lum. Riết rồi không ai dám tin ai nữa.

Mấy hôm sau trong một cuốc xe cuối ngày chở khách về xa cảng miền Tây, Trung gặp lại người khách hôm trước. Lúc đó Trung đang trên đường dự tính về trả xe thì có người thanh niên đứng dưới gốc cây sao lớn bên vệ đường vẫy. Trung tắp xe vô lề hỏi:

– Đi về đâu anh Hai?
– Cho tôi về đường Thiệu Trị khúc cổng xe lửa số 6.

Đến lúc này thì Trung mới nhận ra người khách mà anh chở cách đây mấy hôm từ khu cổng xe lửa số 6 về đây. Một phần người thanh niên ban đầu đứng dưới gốc cây lớn nên ánh đèn đường không chiếu tới. Mãi khi người thanh niên lên tiếng anh mới nhận ra cái giọng khàn khàn nhất là cũng vẫn bộ quần áo lính cũ sờn rách mà rất ít người dám mặc nguyên bộ vào thời đó. Như Trung cũng vẫn còn giữ vài bộ đồ lính ngày xưa của mình nhưng thường trong lúc đạp xích lô anh chỉ mặc hoặc quần hoặc áo chứ ít khi mặc nguyên bộ.


(Hình minh họa)
(Sáng 30/4/1975 - Lúc này, hầu hết các binh lính VNCH đã cởi bỏ hết quân phục và súng đạn. Nhưng khoảng 10 giờ 30, trên đường phố SàiGòn lại xuất hiện một người lính trẻ với hai tay hai khẩu M16 và đeo trên vai anh thêm hai khẩu M72... dưới những cặp mắt tò mò và kinh ngạc của người dân xung quanh và đi đường.

Sau đó, anh ấy đã tự sát gần cầu Trương Minh Giảng... Sau khi xả hết một băng đạn vào một chiếc xe Lam chở đầy quân cộng sản miền Bắc).


Cũng vẫn như lần trước khi lên xe người thanh niên cứ yên lặng không nói năng gì. Và cũng từa tựa lần trước, chở người khách này Trung cảm thấy nhẹ tênh như chở một đứa nhỏ. Đạp được một quãng Trung lên tiếng hỏi:
– Thấy bộ đồ anh mặc tui đoán anh cũng là lính mình ngày xưa. Tui cũng vậy. Dân Sư đoàn 18 nè. Còn anh đơn vị nào?

Mãi vài giây sau người thanh niên mới cất giọng khàn khàn:
– Tôi cũng Sư đoàn 18 thuộc Trung đoàn 43 của Đại Tá Hiếu.

Trung mừng quá nói huyên thuyên.

– Tui thuộc Trung đoàn 52 nè. Trời vậy là gặp chiến hữu mà không hay. À quên xin lỗi không hỏi anh cấp bậc gì để dễ xưng hô. Tui chỉ là hạ sĩ quèn thôi nên nhờ vậy giờ mới đạp xích lô chứ không thôi cũng đang mút mùa ở trại tù nào rồi.

Người thanh niên ậm ừ một lát rồi nói bâng quơ.
– Thôi chuyện qua rồi đừng nhắc nữa anh.

Trung bỗng cụt hứng không muốn hỏi han gì thêm nữa. Vừa đạp xe Trung vừa ngẫm nghĩ, “có khi nào anh chàng này ba xạo nói bừa không ta”, “hay cũng có thể anh ta sợ không tin tưởng mình”. Nghĩ như vậy Trung đỡ cảm thấy bực bội trong lòng như trước đây vài giây. Anh nghĩ thêm, “chắc không phải xạo rồi vì nếu không làm sao anh ta biết được Trung đoàn 43 của Đại Tá Hiếu chứ?”. Mặc dù không nằm dưới đơn vị của Đại tá Hiếu nhưng anh cũng biết tên các vị chỉ huy khác của sư đoàn.

Cả hai im lặng cho đến khi xe rẽ vô con hẻm nhỏ mà một bên là nhà và bên kia là nghĩa trang. Người thanh niên dơ tay làm hiệu cho Trung dừng lại. Anh bước xuống và dúi vào tay Trung một nắm tiền giấy. Trung tính trả lại vì anh muốn giúp đỡ cho người chiến hữu sát cánh trong lửa đạn cùng đơn vị với mình ngày xưa nhưng người thanh niên đã đi băng băng vào hướng nghĩa trang. Trung nhét tiền vô túi và hơi ngạc nhiên vì trước giờ cứ ngỡ nhà anh ta phải ở phía bên này thay vì đi sâu vô khu nghĩa trang tăm tối đó.

Về đến nhà, như mọi bữa Trung lấy tiền trong ví ra đưa cho mẹ. Khi mẹ anh chìa tay ra đón thì cả hai bỗng giật mình vì trong mớ tiền đó lại có vài tờ tiền vàng mã. Đến lúc này thì Trung bỗng cảm thấy lạnh xương sống khi nghĩ ngay đến người thanh niên vừa rồi. Hèn gì mà lần nào chở anh ta cũng nhẹ tênh. Trung kể đầu đuôi cho mẹ mình nghe về người khách mà anh đã chở hai lần giữa nghĩa trang và Xa cảng miền Tây. Mẹ anh trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi nói:
– Mẹ nghĩ hồn anh ta còn có điều gì khúc mắc nên chưa siêu thoát. Hơn nữa có thể anh ta và con cũng có một chút duyên nên mới hai lần cho con gặp mặt. Mẹ nghĩ có lẽ mộ anh ta nằm ở nghĩa trang đó. Khi nào rảnh mẹ con mình ghé đó xem sao. Con có nhớ mặt anh ta chứ.
– Hy vọng xem hình trên bia mộ thì con sẽ nhận ra chứ giờ bảo nhớ thì con cũng không dám chắc vì cả hai lần anh ta đều đón xe trong bóng tối và sau đó thì đi rất nhanh.

Ngày hôm sau, sau khi chạy được vài cuốc xe kiếm đủ sở hụi tiền mướn xe Trung quay về nhà chở mẹ đến khu nghĩa trang ở khu Cổng xe lửa số 6 để tìm môt cách hú họa. Nghĩa trang tuy nhỏ nhưng đi tìm kiếm ở từng ngôi mộ thì cũng không phải dễ dàng. Hơn nữa có những chỗ chật hẹp xe xích lô không vào được, Trung phải chờ bên ngoài để một mình mẹ anh đi vào tìm kiếm. Sau hơn một tiếng rà soát, hai mẹ con tính bỏ cuộc quay ra thì bỗng dưng ngay trước mặt Trung là một tấm bia không hình ảnh. Đó là lý do tại sao ban đầu hai mẹ con không để ý tới. Trên tấm bia ghi rõ:

Thiếu Úy Nguyễn Văn Ngọc
Mất ngày 30-4-1975


Tấm bia không ghi ngày sinh mà chỉ có ngày mất. Tự dưng Trung có linh tính đây chính là người lính cùng sư đoàn mà anh đã chở hai lần trước đây. Anh đón lấy bó nhang mẹ anh đem theo và đốt lên cắm xuống ngôi mộ và bắt đầu khấn.
– Xin lỗi Thiếu úy. Hai lần chạm mặt mà không biết Thiếu úy là cấp trên của em. Lòng thành chỉ có nén nhang này thắp cho Thiếu úy. Xin Thiếu úy cho phép em gọi Thiếu úy là ông thầy cho thân mật. Ông thầy có sống khôn thác thiêng xin báo cho thằng em này biết để có điều gì có thể làm được thì thằng em này sẽ làm cho ông thầy.

Trước khi ra về, Trung đốt một điếu thuốc và cắm xuống bát nhang của ngôi mộ rồi đứng nghiêm chào đúng phong cách một người lính chào cấp trên của mình. Mấy hôm sau đó Trung cố tình né không chạy xe về khu Cổng xe lửa số 6 cũng như Xa cảng miền Tây vào những khi tối trời vì cứ nghĩ nếu ông Thiếu úy đó ra đón xe nữa thì không biết Trung sẽ sử xự ra sao. Một mặt đã khấn trước mộ người ta là có điều gì thì sẵn sàng làm giúp. Một mặt cứ nghĩ đến nếu giáp mặt với hồn ma lần nữa thì Trung cứ thấy lạnh xương sống.

Chả mấy chốc mà Tết đã gần kề. Mặc dù khi ấy ai nấy đều nhem nhuốc khổ sở nhưng vẫn cố gắng tạo nên một cái không khí Tết cho vui vẻ. Chợ búa cũng nhộn nhịp hơn bình thuờng. Nhìn những bó hoa vạn thọ bày bán khắp nơi Trung bỗng nhớ đến ngôi mộ của Thiếu úy Ngọc. Anh ghé vào mua một bó cúc vạn thọ và bó nhang rồi đạp xe đến nghĩa trang. Từ xa Trung đã ngạc nhiên khi thấy trên mộ của thiếu úy Ngọc có ba nén hương còn nghi ngút khói và có cả đĩa trái cây. Nhìn quanh gần đó chỉ có một người đàn bà trạc tuổi mẹ Trung đang lom khom cắm nhang vào các ngôi mộ xung quanh. Trung lên tiếng hỏi.
– Thím Hai ơi. Có phải thím là người nhà của Thiếu úy Ngọc nằm ở đây không?

Người đàn bà đang chăm chú cắm nhang bỗng giật mình ngẩng lên nhìn Trung rồi trả lời:
– Không phải.

Rồi bà ta đổi qua nét mặt có vẻ mừng rỡ và hỏi lại Trung:

– Vậy cậu là người nhà của người nằm nơi đây hả?
– Dạ không phải.

Đến đây thì cả hai cùng chưng hửng ngượng ngập không biết nói gì thêm. Một lát sau Trung hỏi:
– Vậy có phải đĩa trái cây này của thím Hai không? Thím Hai không quen biết mà sao đem trái cây đến ngôi mộ này cúng vậy?

Người đàn bà nhìn bó cúc vạn thọ và bó nhang trên tay Trung rồi hỏi ngược lại:
– Còn cậu hình như cũng đem hương hoa đến viếng ngôi mộ này đúng không? Cậu quen biết ra sao với người mất mà lại làm vậy?

Đến đây Trung quyết định kể cho người đàn bà nghe về câu chuyện của mình mặc dù không biết người ta sẽ tin hay không. Người đàn bà trầm ngâm một lát rồi nói với Trung.
– Chuyện dài dòng lắm. Nhà tôi cũng gần đây thôi, cậu nếu rảnh ghé qua tôi sẽ kể đầu đuôi cho nghe.

Trung dạ rồi đốt vội ba nén hương, cắm bó vạn thọ xuống ngôi mộ rồi lễ cẩn thận. Trước khi đi anh cũng không quên đốt một điếu thuốc mời người Thiếu úy dưới mồ.

Sẵn xe xích lô Trung chở người đàn bà về nhà chỉ cách đó chừng trăm thước. Tại đây anh được người đàn bà đưa cho tấm thẻ bài mang tên Nguyễn Văn Ngọc và kể cho nghe câu chuyện bi tráng của những giây phút cuối đời của người lính này. Theo người đàn bà thì trưa ngày 30 tháng 4 Thiếu úy Ngọc theo dòng người chạy loạn đi ngang qua khu nhà bà. Đến đây có lẽ do quá mệt mỏi và thất vọng khi nghe tin đã có lệnh buông súng đầu hàng, Thiếu úy Ngọc đã tự sát bằng một phát đạn vào thái dương. Giấy tờ tùy thân trên người không có nên không ai có thể biết để liên lạc với gia đình của người mất. Trong lúc hỗn loạn đó, vợ chồng bà cùng vài người hàng xóm đã đứng ra chôn cất cho anh ta ở ngay khu nghĩa trang gần nhà. Bia mộ thì viết dựa theo tên trên tấm thẻ bài và cấp bậc căn cứ vào bông mai trên cổ áo của bộ quân phục anh mặc lúc đó. Từ đó vợ chồng bà cùng những người hàng xóm năm xưa vẫn thuờng xuyên ghé thăm và chăm sóc cho ngôi mộ này. Sau cùng người đàn bà nói:

– Tôi nghĩ cậu và anh ta có duyên với nhau nên anh ta mới xui khiến để cậu gặp hai lần. Thôi tôi giao cho cậu tấm thẻ bài này. Cậu ráng giúp tìm xem gia đình anh ta ở đâu để báo tin cho người ta biết.

Trung nhận tấm thẻ bài từ tay người đàn bà và tự nhủ trong lòng sẽ cố gắng giúp người Thiếu úy quá cố tìm ra người thân của anh ta để báo tin. Dựa vào hai lần đón xe, một đi từ nghĩa trang đến xa cảng miền Tây và một đi theo hướng ngược lại Trung đoán có lẽ anh ta có người thân ở quanh khu đó. Khổ nỗi xa cảng miền Tây thì rộng mênh mông bát ngát biết đâu mà tìm. Suy nghĩ một lát Trung bỗng nhớ ra cả hai lần đưa và đón người khách đi xe luôn đứng ở dưới gốc cây sao lớn trước một ngõ hẻm. Như thế có lẽ nhà người thân anh ta chỉ ở quanh quẩn đâu đó. Trung đạp xe ngay đến đó và bắt đầu gõ cửa từng căn nhà trong con hẻm để hỏi thăm về tung tích người Thiếu úy tên Ngọc. Những căn nhà đầu tiên anh hỏi thăm đều là những gia đình mới dọn về sau này nên không ai có thể cho anh thêm thông tin gì. Đến căn nhà ở quãng giữa con hẻm có một người thiếu nữ trạc tuổi Trung đã cho anh một chi tiết quan trọng.

– Anh hỏi thăm thử căn nhà có trồng cây bông giấy trước sân đó xem. Ngày xưa tôi biết gia đình đó có một người con trai cũng cỡ tuổi tôi làm sĩ quan nhưng sau ngày 30 tháng 4 thì không thấy nữa. Hàng xóm đoán là có thể anh ta đã di tản hoặc trốn cải tạo ở đâu đó nên không ai dám hỏi.

Trung cám ơn cô ta rồi đến thẳng căn nhà có cây bông giấy bấm chuông. Một người đàn bà lớn tuổi đi ra. Trung cất tiếng:
– Dạ chào bác. Con kiếm nhà anh Nguyễn Văn Ngọc.

Trung tính nói thêm “ngày xưa là sĩ quan Sư đoàn 18” nhưng anh chợt dừng lại vì vào thời điểm đó ai cũng sợ liên lụy, Trung không muốn chủ nhà nghi ngại. Người đàn bà ngần ngừ một lát rồi hỏi lại:
– Cậu quen sao với thằng Ngọc nhà tôi?

Đến đây thì Trung không còn lo ngại nữa nên trả lời người đàn bà.

– Dạ cháu là lính cùng Sư đoàn 18 với ảnh.
– Cậu vào nhà chơi uống miếng nước cái đã.

Trung bước vào nhà và để ý ngay đến cái bàn thờ ở nhà trong mà trên đó có treo bức hình chân dung một người sĩ quan có khuôn mặt khắc khổ. Không thể lẫn vào đâu được, chính là người khách đi xe của anh trước đây. Người đàn bà rót nước trà mời Trung rồi lên tiếng.

– Cậu có tin tức gì của con tôi không? Cậu thấy đó, tôi lập bàn thờ cho nó vì tin rằng nó đã mất. Lần cuối tôi được biết tin tức về nó là khi đơn vị của nó đóng ở Xuân Lộc. Lúc ấy qua tin tức thì trận đánh ở đó khốc liệt lắm. Sau đó không còn tin tức gì. Vợ chồng tôi không biết nó bị bắt, bị tử trận, hay đã trốn thoát được ở nơi nào đó. Đến đêm ngày 30 tháng 4 tôi bỗng nằm mơ thấy nó mặt mũi bê bết máu. Giấc mơ chỉ thoáng qua thật nhanh và tôi chưa kịp hỏi han thì đã giật mình tỉnh dậy. Sau đó không có tin tức gì của nó nữa và tôi cũng không còn mơ thấy nó lần nào. Vợ chồng tôi cũng đi dò hỏi ở nhà những người bạn cũ của nó thì không ai hay biết gì. Bạn thân trong đơn vị của nó thì không ai ở Sài Gòn. Sau một thời gian bặt tin tức và căn cứ theo giấc mơ ngắn ngủi, chúng tôi đã lập bàn thờ cho nó và lấy ngày 30 tháng 4 làm ngày giỗ. Tôi mong là cậu có thể cho chúng tôi biết được tin tức của nó.

Đến đây thì Trung lần lượt kể cho người đàn bà nghe về hai lần có duyên được gặp mặt Thiếu úy Ngọc. Anh kể cho bà ta nghe về những người tốt bụng đã chôn cất Thiếu úy Ngọc tử tế và vẫn thường xuyên chăm sóc mộ phần anh cho đến tận bây giờ. Cuối cùng anh móc trong túi ra tấm thẻ bài như một kỷ vật để trao lại cho người mẹ đau khổ nhưng hạnh phúc vì cuối cùng cũng biết được con mình bấy lâu nay vẫn được hương khói và mồ yên mả đẹp. Sau đó Trung đạp xe chở mẹ Ngọc đến mộ phần của anh và sau đó ghé thăm nhà của những người ngày xưa đã chôn cất Ngọc. Những cuộc gặp gỡ tràn ngập nước mắt nhưng đó là những giọt nước mắt hạnh phúc cho một cái kết phần nào có hậu. Trung đã đứng trước mộ phần Thiếu úy Ngọc và khấn thầm trong miệng. “Em đã làm được việc tìm ra gia đình của ông thầy. Từ đây mong ông thầy yên nghỉ”.

Khi Trung chở mẹ Ngọc về, người đàn bà đã giữ anh ở lại ăn bữa tối. Hôm đó cũng là ngày tiễn ông Táo về trời. Ở nhà người chị gái của Thiếu úy Ngọc đã chuẩn bị mâm cơm cúng tươm tất. Sau bữa cơm Trung cám ơn và cáo từ gia đình Ngọc để ra về. Khi đạp xe ra khỏi cổng con hẻm bên gốc cây sao, Trung bỗng giật mình khi thấy người đón xe xích lô hôm trước, Thiếu úy Ngọc, đang đứng giơ tay lên chào mình. Đang đà xe chạy nên Trung không kịp dừng, anh chỉ kịp ngoái đầu lại thì chỉ còn thấy gốc cây sao trống trơn. Lật đật thắng xe lại, Trung đứng vội xuống đất sửa quần áo cho chỉnh tề rồi đứng nghiêm hướng về gốc cây sao chào theo đúng phong cách cấp dưới chào cấp trên trước khi leo lại lên xe để đạp về nhà.

Thảo Lan
 
Nam Mai sưu tầm
Xem thêm...
Theo dõi RSS này