NHỮNG NGÔI TRƯỜNG TRUNG HỌC TIÊU BIỂU CỦA MIỀN NAM TRƯỚC 1975
Những Ngôi Trường Trung Học Tiêu Biểu Của Miền Nam Trước Năm 1975 (Phần 1)
- GS Huỳnh Công Ân
Chỉ tồn tại có 21 năm, từ di sản của nền giáo dục thuộc địa của Pháp chế độ Việt Nam Cộng Hoà đã khai sinh một nền giáo dục Dân tộc, Nhân bản và Khai phóng mà giá trị đến ngày nay không ai có thể phủ nhận được. Là một người từng ở trong ngành giáo dục của miền Nam, nhìn thấy sự vong thân của hệ thống trường học xà hội chủ nghĩa ngày nay ở Việt Nam, tôi không thể nào không luyến tiếc những ngôi trường của miền Nam trước 1975 đã đi đúng ba mục tiêu trên. Trong phạm vi bài này xin chỉ nhắc đến một số trường Trung Học tiêu biểu ở các đô thị lớn như Sài Gòn, Huế, Cần Thơ, Mỹ Tho. tuy nhiên các trường Trung Học ở các địa phương khác cũng hoàn thành nhiệm vụ không thua kém các trường được nêu tên.
Phần 1: Những ngôi trường hậu thân của các trường thuộc địa Pháp để lại:
- Trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho
Đây là ngôi trường Trung Học đầu tiên có tên là Collège de Mytho dành cho con em người bản xứ (người Việt Nam) mà chính quyền thuộc địa Nam Kỳ ra nghị định ngày 17/3/1879 và thành lập ngày 14/6/1880 chỉ sau Collège Chasseloup Laubat dành cho con em người Pháp hay người có quốc tịch Pháp. Chính Thống Đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ là ông Le Myre de Vilers cho thành lập trường này (vì vậy sau nầy Collège de Mytho đổi tên là Collège Le Myre de Vilers).
Collège de Mỹ Tho hoạt động được 10 năm, đến ngày 11 tháng 12 năm 1889, vì thiếu ngân sách nên Thống Đốc Nam Kỳ ra lệnh đóng cửa hệ Trung Học, còn hệ Tiểu Học vẫn tiếp tục, vì thế một số học trò Trung Học phải lên Sài Gòn học ở trường Collège D'Adran. Ðến năm 1894, Collège D'Adran ngưng hoạt động nên Thống Ðốc Nam Kỳ phải mở lại trường Collège de Mỹ Tho để thu nhận học trò Trung Học Nam Kỳ Lục tỉnh và quyết định dùng ngân sách của trường Collège D’Adran để mở lại Collège de Mỹ Tho.
Ngày 2 tháng 12 năm 1942, trường đổi tên là Collège Le Myre de Vilers. Năm 1953, Tổng Trưởng Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa là Nguyễn Thành Giung ký Nghị định 179-NÐ ngày 22 Tháng 3 năm 1953 đổi tên trường thành trường Trung Học Nguyễn Ðình Chiểu tới nay.
Hiệu Trưởng từ khi thành lập đến năm 1975:
- 1882: André, Alfred (là giáo sư trường tỉnh lỵ)
- 1885: Roucoules, Émile-Joseph
- 1887: Carlier, Pierre-Joseph
- 1888: Ferru, Louis
- 1889- 1895: trường ngưng họat động vì thiếu ngân sách
- 1896-1904: không rõ
- 1905: Potier, Jean-Rodolphe
- 1912: M. Ourgaud, Edmond François Léon
- 1915: Sentenac, Jean-François
- 1917: Petit, Jean-Pierre Auguste
- 1924: Lafuste, Jean-François Siméon
- 1925: Madec, Eugène
- 1928: Ourgaud, Edmond François Léon
- 1932: Carricaburu, Jean
- 1934: Jalat, Auguste
- 1942: Nguyễn Thành Giung
- 1945: Nguyễn Văn Cang, Lê Văn Kim, De LaGoutte
- 1946: Henri Truchet
- 1948: Hồ Văn Trực (HT), Đinh Căng Nguyên (GH), Trần Văn Vạng (TGT)
- 1952: Dương Văn Dỏi (HT), Đinh Căng Nguyên (GH), Trần Văn Vạng (TGT)
- 1955: Phạm Văn Lược (HT), Võ Quang Định (GH), Lê Văn Chí (TGT)
- 1961: Lê Ngọc Toản (HT), Lâm Văn Trân (GH), Lê Văn Chí (TGT)
- 1964: Trần Thanh Thủy (HT), Lâm Văn Trân (GH), Trương Công Sâm (TGT)
- 1966: Phan Văn Huấn (HT), Lâm Văn Bé (GH), Lê Chí Nhơn (TGT)
- 1970: Lâm Văn Bé (HT), Trẩn Quang Minh (GH), Nguyễn Văn Miêng (TGT)
- 1973: Lê Kim Hải (HT), Từ Hữu Đán (GH), Nguyễn Văn Miêng (TGT)
Trường Nguyễn Đình Chiểu dưới thời chế độ VNCH có những vị thầy nổi tiếng như: thầy Nguyễn Vỹ (1912-1971) là nhà văn, nhà thơ, nhà báo và chủ biên nguyệt san Phổ Thông (giống như tạp chí Reader’s Digest), thầy Phạm Văn Lược (Hiệu Trưởng) sau làm Hiệu Trưởng trường Pétrus Ký và Tổng Giám Đốc Nha Trung Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục, thầy Lê Văn Ất sau dạy trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn, thầy Trần Văn Thử sau làm Hiệu Trưởng trường Pétrus Ký, thầy Phạm Mạnh Cương nhạc sĩ, thầy Tô Văn Lai Giám Đốc sáng lập trung tâm ca nhạc Thuý Nga ở hải ngoại…
Trường này cũng đào tạo các học sinh thành đạt.
Thế hệ trước có những nhân vật nổi tiếng như:
- Trần Hữu Thế, cựu Tổng Trưởng Giáo Dục thời Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam.
- Nguyễn Thành Giung, Hiệu Trưởng trường niên khóa 1942, Tổng Trưởng Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1952.
- Nguyễn Văn Trường, Giáo Sư, nguyên Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa.
- Ngô Quang Trưởng, (1929-2007), cựu Trung Tướng, cựu Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và Vùng 1 Chiến Thuật Việt Nam Cộng Hòa.
- Trần Văn Hương (1902 - 1982), Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà.
- Dương Văn Minh (1916 - 2001): Đại Tướng quân đội VNCH, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa
Thế hệ sau có:
Lê Tấn Lộc làm Hiệu Trưởng trường Trịnh Hoài Đức, Bình Dương rồi làm Trưởng Khu 3 Học Chánh, Lâm Võ Huỳnh là Giám Đốc Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng, Sài Gòn, Lâm Văn Bé Hiệu Trưởng Nguyễn Đình Chiểu sau là Chánh Sở Học Chánh Định Tường, Nguyễn Tấn Phát, cựu Phó Tỉnh Trưởng Vĩnh Bình (Trà Vinh), Ca Sĩ, Bác Sĩ Trung Chỉnh…
Năm 1957, Bộ Giáo Dục VNCH tách riêng các nữ sinh ra khỏi trường Nguyễn Đình Chiểu để thành lập trường nữ Trung Học Lê Ngọc Hân.
- Trường Quốc Học, Huế
Trường Quốc Học Huế thành lập theo chỉ dụ của Vua Thành Thái giao cho ông Ngô Đình Khả làm Trưởng Giáo và được Toàn Quyền Đông Dương ký quyết định ngày 18 tháng 11 năm 1896. Trường đã đổi tên qua nhiều thời kỳ: École Primaire Supérieure (tức Trường Cao Đẳng Tiểu Học) nhưng thường gọi là Quốc Học (1896-1936), Trường Trung Học Khải Định (1936-1954), Trường Trung Học Ngô Đình Diệm (1955-1956), và được trở về với tên gốc vào năm 1956 cho đến nay. Tên lúc mới thành lập là "Pháp Tự Quốc Học Trường Môn", đến nay vẫn còn bảng ghi tên đó được lưu tại nhà lưu niệm của trường. Quốc Học là trường Trung Học Đệ Nhất Cấp đầu tiên ở Huế. Ngay từ lúc sáng lập, giáo trình được dạy bằng tiếng Việt cùng với tiếng Pháp.[2] Quốc Học được xây dựng trên nền của Dinh Thủy Sư (nơi huấn luyện binh lính đường thủy của quân đội triều Nguyễn), ban đầu trường được xây dựng theo kiểu cũ, nhà tranh vách đất, tổng cộng có ba tòa nhà. Địa điểm trường của nằm xoay ra đường Jules Ferry (sau năm 1955 là đường Lê Lợi). Công trình kiến trúc được xây dựng theo kiểu Pháp vào đầu thế kỷ XX.
Pháp Tự Quốc Học Đường (1896-1915): Lúc mới lập, trường có tên là Pháp Tự Quốc Học Đường với mục đích giảng dạy tiếng Pháp, chữ Quốc ngữ và chữ Nho ở bậc Tiểu Học. Trưởng Giáo đầu tiên tức Hiệu Trưởng là Ngô Đình Khả; Phụ Tá Trưởng Giáo là Nguyễn Văn Mại.
Collège Quốc học (1915-1936): Khi chuyển thành trường Trung Học với bốn lớp Đệ Thất (lớp 6), Đệ Lục (lớp 7), Đệ Ngũ (lớp 8), và Đệ Tứ (lớp 9) thì trường cũng đổi tên thành Collège Quốc Học. Cũng vào thời điểm đó những tòa nhà dùng làm trường sở được xây cất lại bằng gạch ngói.
Lycée Khải Định (1936-1955): Năm 1936, trường mở rộng và thêm các lớp Đệ Tam (lớp 10), Đệ Nhị (lớp 11), và Đệ Nhất (lớp 12) dưới tên Lycée Khải Định
Trường Trung Học Ngô Đình Diệm (1955-1956): Sang thời Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, trường mang tên Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhưng chỉ được một năm thì đổi lại tên cũ là Quốc Học nhân kỷ niệm 60 năm thành lập trường.
Trường Quốc Học đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước như ông: Ngô Đình Diệm, Tổng Thống thời Đệ Nhất VNCH, Phạm Văn Lộc Giám Mục giáo phận Kontum, Bác Sĩ Tôn Thất Tùng, các nhà thơ, nhà văn Xuân Diệu, Lưu Trọng Lưu, Huy Cận, Tế Hanh, Thanh Tịnh…, các nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, Trần Hoàn
- Trường Nữ Trung Học Gia Long, Sài Gòn
Năm 1913, ngôi trường dành riêng cho nữ sinh được khởi công trên khu đất rộng đường Legrand de la Liraye (nay là Điện Biên Phủ, quận 3), vật liệu xây dựng được đưa từ Pháp qua.
Sau hai năm xây dựng, trường được khánh thành và mở khóa khai giảng đầu tiên với 42 nữ sinh. Trong buổi lễ, Toàn Quyền Đông Dương Doumer và Thống Đốc Nam Kỳ Courbeil chọn đồng phục là áo dài màu tím cho nữ sinh. Sở dĩ màu tím được chọn bởi đây là biểu tượng cho đức tính đoan trang, kín đáo và khiêm nhường của phụ nữ Việt. Từ đó, trường có tên Nữ Sinh Áo Tím nhưng tên chính thức là Collège de Jeunes Filles Indigèges (1915).
Ban đầu trường dạy cấp Tiểu Học, từ lớp Đồng Ấu đến Cao Đẳng. Học sinh phần lớn là con nhà giàu ở Sài Gòn, dần dần có thêm nhiều em ở các tỉnh lên học nên trường mở thêm nội trú.
Mùa hè năm 1940, quân đội Nhật chiếm đóng cơ sở trường rồi sau đó đến quân đội Anh, trường dời về Tiểu Học Ðồ Chiểu tại vùng Tân Ðịnh. Cũng trong năm này, trường đổi tên: Collège Gia Long, rồi Lycée Gia Long.
Niên khóa 1950-1951, Cô Nguyễn Thị Châu, cựu nữ sinh Áo Tím, được bổ nhiệm làm vị Hiệu Trưởng người Việt Nam đầu tiên của trường. Kể từ năm 1952, hệ thống giáo dục bắt đầu thay đổi và chương trình Pháp được đổi dần qua chương trình Việt. Trong hệ thống giáo dục mới, Pháp và Anh ngữ là những ngoại ngữ được giảng dạy và là môn học bắt buộc cho các nữ sinh trường Gia Long.
Từ năm 1953, khi tiếng Việt được dùng trong mọi cơ sở của người Việt Nam, trường đã được đổi tên là trường Nữ Trung Học Gia Long. Đồng phục áo dài tím được thay thế bằng chiếc áo trắng với phù hiệu của trường - hoa mai vàng. Chương trình giáo dục bằng tiếng Pháp cũng được hoàn toàn đổi sang tiếng Việt.
Danh Sách Các Vị Cựu Hiệu Trưởng
Sau đây là danh sách các vị Cựu Hiệu Trưởng từ lúc sáng lập trường đến năm 1975:
Cô Lagrange, Cô Lorenzi, Cô Pascalini, Cô Saint Marty, Cô Fourgeront, Cô Malleret, Cô Dubois, Cô Nguyễn Thị Châu, Cô Huỳnh Hữu Hội, Cô Nguyễn Thu Ba, Cô Trần Thị Khuê, Cô Phạm Văn Tất, Cô Trần Thị Tỵ.
- Trường Trung Học Phan Thanh Giản, Cần Thơ
Trường Trung Học Phan Thanh Giản, tiền thân là Collège de Cần Thơ là một trường Trung Học tại Cần Thơ. Thành lập năm 1917, trường là một trong các cơ sở giáo dục lâu đời nhất Cần Thơ với tên gọi Collège de Cần Thơ.
Ngày 17 tháng 3 năm 1879, Collège de Mỹ Tho (nay là trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho) được thành lập. Vì số học sinh quá đông, nên đến năm 1917, trường Mỹ Tho mở một chi nhánh ở Cần Thơ lấy tên là Collège de Cần Thơ.
Bắt đầu từ tháng 8 năm 1945 trường chính thức lấy tên là trường Trung Học Phan Thanh Giản. Giai đoạn 1956-1975 là giai đoạn có số lớp học cao nhất trong lịch sử của trường, gồm 112 lớp Đệ Nhất Cấp và Đệ Nhị Cấp với hai môn sinh ngữ Anh văn và Pháp văn. Đến niên học 1963-1964, khu trường Đệ Nhất Cấp Nam chuyển sang khu trường Phan Thanh Giản cũ để giao trường mới (dùng từ năm 1942, khi trường cũ bị sung công) lại và Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa thành lập trường Nữ Trung Học Đoàn Thị Điểm, từ đó trường Phan Thanh Giản là trường chỉ còn có học sinh nam.
Danh sách Hiệu Trưởng qua các thời kỳ:
1921-1924: Ông Paul Espelette
1924-1925: Ông Louis Reybouder
1926-1926: Ông Louis Boulliard
1927-1929: Ông Pierre Manière
1930-1930: Ông C. Cadilion
1931-1931: Ông A. Bizot
1931-1934: Ông Charles Paquier
1934-1935: Ông Gabriel Jalat
1935-1936: Ông Charles Paquier
1936-1937: Ông V. Vincenti
1937-1944: Ông P. de Fautereauvassel
1944-1945: Ông Maurice Lamarre
1946-1946: Ông Nguyễn Bá
1947-1947: Ông Trương Vĩnh Khánh
1947-1949: Ông Nguyễn Bá Cường
1950-1951: Ông Dương Văn Dỏi
1952-1957: Ông Nguyễn Băng Tuyết
1957-1957: Ông Bửu Trí
1957-1962: Ông Nguyễn Văn Kính
1962-1964: Ông Lưu Khôn
1964-1967: Ông Phạm Văn Đàm
1967-1970: Ông Nguyễn Trung Quân
1970-1971: Ông Phạm Duy Khiêm
1971-1973: Ông Trương Quang Minh
1973-1975: Ông Võ Văn Trí
Các nhân vật nổi tiếng xuất thân trường này:
- Nguyễn Phan Long Luật Sư, Thủ Tướng Quốc Gia Việt Nam (1950)
- Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ, nhà Thực Vật Học, Bộ Trưởng Giáo Dục
- Nguyễn Bá Cẩn, Chủ Tịch Quốc Hội, Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa
- Sơn Nam, nhà văn
- Trường nữ Trung Học Đồng Khánh, Huế
Trường nữ sinh Đồng Khánh là trường dành cho nữ sinh duy nhất ở miền Trung. Trường đặt tại Huế, miền đất của nét trữ tình và lãng mạn.
Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi trường này diễn ra vào ngày 15 tháng 7 năm 1917, với sự hiện diện của Vua Khải Định, Toàn Quyền Đông Dương Albert Sarraaut, Khâm Sứ Trung Kỳ J.E. Charles, quyền Khâm Sứ Bắc Kỳ J.Le Galler, các hoàng thân, các vị Thượng Thư và một số quan chức cao cấp người Pháp tại Đông Dương.
Trong buổi lễ này, Vua Khải Định đã cho đặt xuống móng ngôi trường một số hiện vật để làm kỷ niệm, gồm một cái hộp kim loại chứa 10 đồng Khải Định thông bảo và hai tờ giấy ghi biên bản của buổi lễ bằng tiếng Pháp. Dưới sự điều khiển của nhà thầu Leroy, gần hai năm sau, ngôi trường khánh thành.
Đây là ngôi trường nữ đầu tiên và duy nhất dành cho nữ sinh cả 13 tỉnh Trung Kỳ bấy giờ đến học. Theo thời gian, trường được mang nhiều tên gọi khác nhau:
– Từ 1919 – 1954, trường mang tên Cao Đẳng Tiểu Học Đồng Khánh
– Từ 1955-1975, trường mang tên Trường Nữ Trung Học Đồng Khánh gồm hai cấp: Đệ Nhất Cấp và Đệ Nhị Cấp.
Nhắc đến trường Đồng Khánh là gợi lại sự trẻ trung, duyên dáng đáng yêu. Hôm nay nhìn lại lịch sử, trường đã ngót hơn 80 niên khóa. Bà Yvonne Lebris – người Hiệu Trưởng đầu tiên (1917) và bà Martin – người Hiệu Trưởng Pháp cuối cùng (1945). Từ ngày được bàn giao cho chính quyền Việt Nam, trường Đồng Khánh đã được các vị nữ Hiệu Trưởng kế tiếp nhau điều hành như sau: Bà Võ Thị Thể, bà Hồ Thị Thanh, bà Nguyễn Đình Chi, bà Nguyễn Thị Quýt, bà Nguyễn Thị Tiết, bà Đặng Tống Tịnh Nhơn, bà Tôn Nữ Thanh Cầm, bà Thân Thị Giáng Châu, bà Lê Thị Tường Loan, bà Phan Thị Bích Đào.
- Trường Trung Học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn
Sau sự ra đời của trường Collège Chasseloup-Laubat (năm 1874) và trường Collège de Jeunes Filles Indigèges (1915), chính quyền thuộc địa Nam Kỳ mở thêm trường bậc Trung Học thứ 3 tại Sài Gòn.
Năm 1925, Kiến Trúc Sư Hebrard de Villeneuve được giao nhiệm vụ vẽ đồ họa xây cất cho ngôi trường mới tại Chợ Quán.
Ngày 28 tháng 11 năm 1927, Toàn Quyền Đông Dương Alexandre Varenne ra nghị định thiết lập tại Chợ Quán một phân hiệu tạm thời của Collège Chasseloup Laubat dành cho học sinh người bản xứ lấy tên là Collège de Cochinchine. Phân hiệu này được đặt dưới sự điều hành của Ban Giám Đốc Trường Chasseloup Laubat và một Giáo Sư phụ trách Tổng Giám Thị của phân hiệu.
Năm 1928, khi các khu trường mới xây dựng xong, ngày 11 tháng 8 năm 1928, Toàn Quyền Đông Dương tạm quyền René Robin ký nghị định số 3116 gồm 6 điều thành lập tại Chợ Quán, kể từ kỳ tựu trường 1928-1929 một trường Cao Đẳng Tiểu Học Pháp bản xứ, chuyển giao phân hiệu tạm thời với trên 200 học sinh của Collège Chasseloup Laubat nói trên vào trường này, có sát nhập một hệ Trung Học Đệ Nhị Cấp bản xứ (Lycée). Nhân dịp khánh thành tượng đồng của nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký, Thống Đốc Nam Kỳ Blanchard de la Brosse chính thức đặt tên trường là Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký. Do đó, trường còn có tên gọi là Petrus Ký, và tên này được sử dụng đến 1975.
Năm 1940, Câu Lạc Bộ học sinh trường Pétrus Ký được thành lập. Câu Lạc Bộ đã tổ chức các hoạt động như văn nghệ, thể thao, cắm trại, với những sinh hoạt rất phong phú, tập hợp được đông đảo học sinh của trường và nhiều trường khác. Cũng tại đây, Lưu Hữu Phước và Mai Văn Bộ viết bài hát La Marche des Étudiants, tiền thân của bài Tiếng Gọi Thanh Niên và Tiếng Gọi Công Dân, Quốc Ca của Việt Nam Cộng Hoà.
Năm 1942, trường di chuyển về trường sở Sư Phạm Sài Gòn vì chiến cuộc nhưng không lâu sau lại mở cửa dạy học vào năm ấy tại trường sở cũ. Nhưng đến năm 1945, trường sở bị trưng dụng làm doanh trại của quân đội Nhật. Trường phải dời về khu Tiểu Học Tân Định và sau đó ngưng hoạt động.
Ngày 1 tháng 4 năm 1946, sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, trường mở cửa dạy lại trong Chủng Viện đường Lucien Mossard và đến năm 1947, trở lại hoạt động nơi trường sở hiện tại.
Năm 1951 Ông Phạm Văn Còn, một viên chức cao cấp của xã Tây, được ân thưởng Légion d’honneur cấp Officier, được cử làm Hiệu Trưởng của trường thay thế Thầy Lê Văn Kiêm. Ngoài công ơn đem trật tự cho trường Ông Phạm Văn Còn chỉnh trang trường sở như xây dựng cổng trường, dựng hàng rào gạch thay thế hàng rào bông bụp ở trước trường, xây nhà để xe đạp cho học sinh.
Cũng vào năm 1951 Thầy Ưng Thiều, Giáo Sư Hán văn, trong buổi học về thơ Đường, thầy có làm bài thơ tứ tuyệt sau đây:
“Trường tôi ở tại lối Nancy,
Trung học đường kia có bảng ghi.
Mượn hiệu người xưa Trương Vĩnh Ký,
Lẫy lừng danh tiếng đã bao thì”.
Trung học đường kia có bảng ghi.
Mượn hiệu người xưa Trương Vĩnh Ký,
Lẫy lừng danh tiếng đã bao thì”.
Thầy Ưng Thiều còn đặt hai câu đối để chỉ rõ đạo đức học tập và trí dục cho học sinh, được Ông Hiệu Trưởng Phạm Văn Còn chọn khắc trước cổng trường như sau:
“Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt
Tây Âu khoa học yếu minh tâm”
Tây Âu khoa học yếu minh tâm”
Sau hiệp định Genève từ tháng 5 năm 1954 trường Pétrus Ký bị trưng dụng cho di dân miền Bắc đến tạm trú. Đến tháng 10 năm 1954 trường mới được trả lại để khai giảng năm học mới và bắt đầu học chương trình Việt từ lớp Đệ Thất, các lớp học theo chương trình Pháp trước đây vẫn tiếp tục học theo cuốn chiếu và kỳ thi Tú Tài I và Tú Tài toàn phần Pháp vẫn tồn tại đến năm 1960. Bên cạnh trường Petrus Ký ở trong sân vận động Lam Sơn, một dãy nhà tre lá cất tạm cho học sinh trường Chu Văn An ở Hà Nội chuyển vào học.
Ngày 30 tháng 3 năm 1955, xung đột giữa quân chính phủ và lực lượng Bình Xuyên nổ ra. Công an xung phong của Bình Xuyên vào đóng tại trường Pétrus Ký. Đến ngày 30 tháng 4 năm 1955, quân chính phủ đánh bật được quân Bình Xuyên ra khỏi trường Pétrus Ký và các điểm khác.
Năm 1961, trường được hợp thức hóa để trở thành trường Trung Học Đệ Nhị Cấp theo hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa.
Danh sách các Hiệu Trưởng qua các thời kỳ:
1927-1929: Sainte Luce Banchelin
1929-1931: Paul Valencot
1931-1933: Andre Neveu
1933-1938: Paul Valencot
1938-1944: Le Jeannic
1944-1847: Taillade
1947-1951: Lê Văn Khiêm
1951-1955: Phạm Văn Còn
1955-1957: Phạm Văn Kính
1957-1958: Nguyễn Văn Thơ
1958-1960: Nguyễn Văn Trương
1960-1963: Phạm Văn Lược
1963-1964: Nguyễn Thanh Liêm
1964-1966: Trần Ngọc Thái
1966-1969: Trần Văn Thử
1969-1971: Trần Ngọc Thái
1971-1971: Trần Văn Nhơn
1971-1973: Bùi Vĩnh Lập
1973-1975: Nguyễn Minh Đức
Trường Pétrus Ký qua nhiều thời kỳ từ khi nước ta còn là thuộc địa của Pháp đến chế độ Việt Nam Cộng Hoà đã đào tạo những nhân tài cho đất nước: Trần Văn Lắm Ngoại Trưởng, Trần Ngươn Phiêu Tổng Trưởng Xã Hội Việt Nam Cộng Hoà, Giáo Sư Trần Văn Khuê Tiến Sĩ Âm Nhạc, Giáo Sư Lưu Khôn dạy Hán Nôm ở Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh.. của thế hệ trước và rất nhiều quân, cán, chính, trí thức và nghệ sĩ danh tiếng của chế độ Việt Nam Cộng Hoà.
GS Huỳnh Công Ân
Tài liệu tham khảo:
Collège de Mytho: Trường trung học đầu tiên ở Nam kỳ. Lâm Văn Bé (Đăng trong trang nhà namkyluctirnh.org)
Wikipedia tiếng Việt
Nhìn lại các trường nữ trung học nổi tiếng của miền Nam trước năm 1975 (nhacxua.vn)
LƯỢC SỬ TRƯỜNG TRUNG HỌC LÊ NGỌC HÂN Hoài Văn(http://banhoc12c6mytho.blogspot.com)
Bốn ngôi trường 100 tuổi ở Sài Gòn (vnexpress.vn)
Hội ái hứu cựu nữ sinh Gia Long Bắc California (gialong.org)Trang nhà Khám phá Huế (vísithue.com)
Hội ái hữu Pétrus Trương Vĩnh Ký Úc Châu (petruskyaus.net)
Những Ngôi Trường Trung Học Tiêu Biểu Của Miền Nam Trước Năm 1975 (Phần 2) - GS Huỳnh Công Ân
Chỉ tồn tại có 21 năm, từ di sản của nền giáo dục thuộc địa của Pháp chế độ Việt Nam Cộng Hoà đã khai sinh một nền giáo dục Dân tộc, Nhân bản và Khai phóng mà giá trị đến ngày nay không ai có thể phủ nhận được. Là một người từng ở trong ngành giáo dục của miền Nam, nhìn thấy sự vong thân của hệ thống trường học xà hội chủ nghĩa ngày nay ở Việt Nam, tôi không thể nào không luyến tiếc những ngôi trường của miền Nam trước 1975 đã đi đúng ba mục tiêu trên. Trong phạm vi bài này xin chỉ nhắc đến một số trường Trung Học tiêu biểu ở các đô thị lớn như Sài Gòn, Huế, Cần Thơ, Mỹ Tho. Tuy nhiên các trường Trung Học ở các địa phương khác cũng hoàn thành nhiệm vụ không thua kém các trường được nêu tên.
Phần 2: Những ngôi trường di cư từ miền Bắc năm 1954
- Trường Trung Học Chu Văn An, Sài Gòn
Người ta thường nói tiền thân của trường Chu Văn An là trường Bưởi. Thực ra tên Bưởi không phải là tên chính thức. Tên chính thức của trường Bưởi lúc đầu là Collège des Interprètes. Nhưng chẳng bao lâu thì trường được đổi tên là Collège du Protectorat rồi tới năm 1930, trường lại được đổi tên lần nữa thành Lycée du Protectorat.
*
Trường này do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập với mục đích đào tạo Thông Ngôn (Thông Dịch Viên), Phán Sự (Thư Ký Hành Chánh) cho chính quyền bảo hộ. Trường được xây cất vào năm 1907 trên một khu đất rộng hơn 10 mẫu tây thuộc làng Thụy Khê, huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hànội), nằm dọc theo Hồ Tây từ gần đền Quan Thánh tới gần Ô Cầu Giấy thuộc làng Yên Thái còn gọi là làng Bưởi, nên dân Hànội, Hà Đông thường gọi là trường Bưởi cho tiện.
Trường khai giảng niên khóa đầu tiên vào năm 1908 đủ cả bốn lớp, từ Première Année tới Quatrième Année (tức từ lớp 6 đến lớp 9), đúng nghĩa là một trường Thành Chung (Grand Collège, thời Việt Nam Cộng Hòa gọi là trường Trung Học Đệ Nhứt Cấp). Vị Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Bưởi là Giáo Sư người Pháp tên Cyprien Mus. Các Hiệu Trưởng kế tiếp là các Giáo Sư Donnadieu, Giáo Sư Lomberger, Giáo Sư Pouget, Giáo Sư Autigeon, Giáo Sư Houlié, Giáo Sư Perruca và Giáo Sư Farchil. Nhưng cũng trong năm này (1908) trường Collège Jules Ferry ở Nam Định đóng cửa, nên tất cả các học sinh của trường này được chuyển lên trường Bưởi. Do đó trường Bưởi trở thành một trường Trung Tiểu Học, gồm cả hai cấp: cấp Tiểu Học (Petit Collège) từ lớp Tư (Cours Préparatoire) đến lớp Nhất (Cours Supérieur) và cấp Trung Học (Grand Collège) còn gọi là Cao Đẳng Tiểu Học (Enseignement Primaire Supérieur), sau này, thời Việt Nam Cộng Hòa được gọi là Trung Học Đệ Nhứt Cấp.
Tới năm 1926, cấp Tiểu Học được bãi bỏ, thay thế vào đó cấp Tú Tài Bản Xứ (Baccalauréat d’Enseignement Secondaire Local); do đó trường được đổi thành Lycée du Protectorat. Theo cụ Đinh Bá Hoàn, cựu học sinh trường Bưởi, thì từ niên khóa 1924-1925, chương trình học được kéo dài thêm 3 năm nữa, tổng cộng là 7 năm và các môn học không những cũng đầy đủ như ban Tú Tài của Pháp mà còn thêm cả phần học về văn hóa Á Đông nữa, nhưng mãi tới năm 1930 trường mới thực sự được đổi tên thành Lycée du Protectorat.
Năm 1943, quân đội Nhật tiến vào Đông Dương, tình hình trở nên nghiêm trọng. Để tránh bom đạn của máy bay Đồng Minh đánh phá các căn cứ quân sự của Nhật, trường Bưởi đã phải chia ra làm ba nhóm di tản đi ba nơi khác nhau còn trường thì bị binh lính Pháp chiếm làm chỗ đóng quân:
Nhóm 1: Ban Cao Đẳng Tiểu Học (Enseignement Primaire Supérieur) di chuyển vào Phúc Nhạc thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Nhóm 2: Ban Tú Tài (Baccalauréat) di chuyển vào Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Nhóm 3: Ban Classique Latin nhập vào trường Lycée Albert Sarraut, di chuyển về Chợ Trâu, thuộc thị xã Hà Đông. Chính vì sự sát nhập này mà nhiều cựu học sinh Bưởi chỉ nhớ tới nhóm 1 và 2 mà thôi.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, Ngày 12 tháng 5 năm 1945, Bộ Trưởng bộ Mỹ Nghệ là Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn ký nghị định đổi tên trường Lycée du Protectorat thành trường Trung Học Chu văn An, tên của một danh sư đời Trần, người đã dám dâng sớ xin chém đầu bảy tên nịnh thần gian ác, hại dân hại nước, và vị Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Chu Văn An là Giáo Sư Hoàng Cơ Nghị (lúc này trường còn đang ở Sầm Sơn Thanh Hóa).
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách Mạng Mùa Thu bùng nổ, Việt Minh nổi lên cướp chính quyền, trường được di chuyển về thị xã Hà Đông và Giáo Sư Nguyễn Gia Tường được đề cử làm Hiệu Trưởng để thay thế Giáo Sư Hoàng Cơ Nghị vào ngày 1 tháng 10 năm 1945 còn Giám Học là thầy Nguyễn Văn Chính. Cũng trong tháng này, niên khóa đầu tiên mang danh trường Chu Văn An đã được khai giảng. Được ít lâu, trường lại di chuyển về chùa Láng trên đường Hà Nội đi Hà Đông, rồi về Đông Dương Học Xá ở Bạch Mai, gần Hà Nội.
Tới năm 1946, trường lại rời về trường nữ Trung Học cũ cuả Pháp (Collège des Jeunes Filles) ở đường Félix Faure, kế bên nhà thờ Cửa Bắc, gần vườn hoa Canh Nông ở Hà Nội và vị Giáo Sư Quốc Văn nổi tiếng thời bấy giờ là Giáo Sư Dương Quảng Hàm được cử lên làm Hiệu Trưởng để thay thế Giáo Sư Nguyễn Gia Tường vào ngày 14 tháng 12 năm 1945, còn Giám Học là thầy Nguyễn Đình Phong. Nhưng cũng chẳng được bao lâu thì ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Các cơ quan đầu não quan trọng đều được chính phủ Việt Minh di tản ra hậu phương hoặc lên mạn ngược, còn các cơ quan khác không quan trọng đều đương nhiên bị giải tán. Trường Chu Văn An không phải là cơ quan quan trọng nên cũng nằm chung trong số phận này.
Đêm 26 tháng 12 năm 1946, Giáo Sư Hiệu Trưởng Dương Quảng Hàm bị đạn lạc chết trên đường tản cư, khi đang lội qua sông. Xác Giáo Sư không biết trôi giạt nơi đâu!. Theo Cố Nhân, tác giả bài “Chu Văn An những ngày xưa cũ” đăng trên Đặc San Chu Văn An miền Đông Hoa Kỳ, xuân 1991, thì Giáo Sư Dương Quảng Hàm đã bị nạn chết ngay đêm đầu tiên cuộc chiến Việt Pháp bùng nổ tức đêm 19 tháng 12 năm 1946 và xác của ông có thể đã được vùi chôn trong ngôi mộ tập thể ở cạnh Tòa Án Hà Nội trên đường Lý Thường Kiệt,
Năm 1947, Hoàng Đế Bảo Đại hồi loan và chính phủ Quốc Gia được thành lập, nhưng mãi tới ngày 26 tháng 1 năm 1948 trường Chu Văn An mới được tái lập và hoạt động trở lại. Trường sở được đặt tại trường nữ Trung Học Thanh Quan, tục gọi là trường Hàng Cót tức trường R. Brieux cũ và Giáo Sư Sử Địa Mai Văn Phương được cử giữ chức Hiệu Trưởng vào tháng 2 năm 1948, Giám Học là thầy Đỗ Văn Hoán.
Niên khóa 1949-1950, trường lại một lần nữa được đổi về trường nữ Trung Học Đồng Khánh nằm trên đường Đồng Khánh, nay gọi là Phố Hàng Bài Hà Nội và vị Hiệu Trưởng lần này là Giám Đốc Học Chính Bắc Việt Đỗ Văn Hoán kiêm nhiệm, Giám Học là thầy Phan Đình Hoan nhưng cũng không được bao lâu thì trường lại chia đôi: một nửa số học sinh (đa số có nhà cư ngụ ở mạn Bắc Hà Nội) di chuyển cùng với tên trường về trường Giáo Sinh Sư Phạm hay Sư Phạm Tiểu Học (College Đỗ Hữu Vị?), nơi đào tạo các giáo viên bậc Tiểu Học, tại đường Đỗ Hữu Vị gần cửa Bắc và vị Hiệu Trưởng lần này là Giáo Sư Phạm Xuân Độ. Còn nửa số học sinh ở lại (đa số có nhà cư ngụ ở mạn Nam Hà Nội) và trường được đổi tên thành trường Trung Học Nguyễn Trãi.
Tới niên khóa 1950-1951, Giáo Sư Vũ Ngô Xán lên làm Hiệu Trưởng, Giám Học là thầy Vũ Đức Thận. Cũng trong thời gian này, Hiệu Đoàn kỳ với ngọn lửa màu đỏ trên nền xanh da trời và Hiệu Đoàn ca với bản hùng ca Chu Văn An Hành Khúc do Giáo Sư Nhạc Sĩ Thẩm Oánh sáng tác ra đời.
Tới ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, trường Chu Văn An cũng cùng chung số phận, một nửa theo lệnh của Bộ Quốc Gia Giáo Dục di cư vào Nam, trong đó có Giáo Sư Hiệu Trưởng Vũ Ngô Xán, Giám Học Vũ Đức Thận và hầu hết các Giáo Sư nổi tiếng như Hoàng Cơ Nghị, Đào Văn Dương, Bạch Văn Ngà, Lê Văn Lâm, Nguyễn Sĩ Tế, Vũ Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, Lê Ngọc Huỳnh, Bùi Đình Tấn, Trần Đình Ý…
Khi di cư vào Nam, vì chưa có trường sở riêng, trường Chu Văn An phải học nhờ trường Pétrus Ký. Trường Pétrus Ký học buổi sáng, trường Chu Văn An học buổi chiều.
Tới niên khóa 1955-1956, nhờ sự vận động của Bộ Giáo Dục nên trường được cấp cho một building hai tầng lầu ngay đằng sau trường Pétrus Ký, nhưng cổng vào nằm trên đường Trần Bình Trọng. Building này nguyên trước là ký túc xá của học sinh Pétrus Ký, sau bị Công An Xung Phong của Bình Xuyên chiếm làm trụ sở nhưng đã bỏ chạy sau biến cố Bình Xuyên 1955. Giáo Sư Vũ Ngô Xán tiếp tục làm Hiệu Trưởng đến niên khóa 1956-1957 thì Giáo Sư Trần Văn Việt, nguyên Hiệu Trưởng trường Nguyễn Trãi sang thay thế. Giám Học là thầy Nguyễn Hữu Văn. Đầu niên khóa 1957-1958, trường được nới rộng sang khu nhà in Caravelle cũ (còn gọi là khu chuồng ngựa), cạnh sân vận động trên đường Trần Bình Trọng.
Niên khóa 1961-1962, trường Chu Văn An mới thực sự có trường sở mới tọa lạc tại góc đường Minh Mạng – Triệu Đà nhưng cũng chỉ mới di chuyển được các lớp Đệ Nhất Cấp. Sang niên khóa 1962-1963, trường mới hoàn toàn rời bỏ trường cũ để di chuyển về trường mới. Tới niên khóa 1963-1964 thầy Giám Học Nguyễn Hữu Văn lên làm Hiệu Trưởng rồi kế tiếp là các Giáo Sư Đàm Xuân Thiều, Bùi Đình Tấn, Dương Minh Kính và Nguyễn Xuân Quế.
Kể từ ngày trường Bưởi được đổi tên thành trường Chu Văn An, 1945 cho tới ngày trường Chu Văn An Saigon bị giải thể, 1978, tổng cộng là 42 năm, trải qua 14 đời Hiệu Trưởng:
1945-1946: GS Hoàng Cơ Nghị, GS Nguyễn Gia Tường,.GS Dương Quảng Hàm, .GS Trần Văn Khang
1946-1948: Tản cư
1948-1949: GS Mai Văn Phương,
1949-1950: GS Đỗ Văn Hoán
1950-1951: GS Phạm Xuân Độ
1951-1957: GS Vũ Ngô Xán
1957-1959: GS Trần Văn Việt
1959-1963: GS Nguyễn Hữu Văn
1963-1964: GS Đàm Xuân Thiều
1964-1965: GS Bùi Đình Tấn
1965-1968: GS Dương Minh Kính
1968-1975: GS Nguyễn Xuân Quế.
Suốt chiều dài lịch sử gần một thế kỷ, từ 1905, ngày trường Bưởi được thành lập, đến 1978, ngày trường Chu Văn An Saigon bị giải thể, trường Bưởi-CVA đã sản xuất không biết bao nhiêu nhân tài cho đất nước, cho mọi ngành nhất là trong lãnh vực văn học và giáo dục.
Những chức vụ lãnh đạo cao nhất nhì của đất nước như Thủ Tướng thì có Giáo Sư Trần Trọng Kim, Bác Sĩ Phan Huy Quát v.v… Chức vụ Thủ Hiến thì có ông Nguyễn Hữu Trí. Chức vụ Tổng Bộ Trưởng thì có cụ Phạm Quỳnh, cụ Cung Đình Quỳ, Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Thạc Sĩ Phạm Duy Khiêm, Luật Sư Phan Anh, Luật Sư Trần Văn Tuyên, Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, Giáo Sư Vũ Quốc Thông, ông Nguyễn Lương, Bác Sĩ Trần Ngọc Ninh, Bác Sĩ Nguyễn Tấn Hồng, Luật Sư Vương Văn Bắc v.v… Chức vụ Khoa Trưởng các trường Đại Học thì có Giáo Sư Nguyễn Chung Tú, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm, Giáo Sư Đặng Văn Chiếu, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc, Giáo Sư Nguyễn Cao Hách, Giáo Sư Nguyễn Đình Hòa v.v…
Trong lãnh vực khoa học chúng ta có Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, Kỹ Sư Nguyễn Mạnh Tiến v.v…
Trong giới quân nhân, nhiều người đã lên tới cấp Tướng như Phan Phụng Tiên, Lê Nguyên Khang, Phan Trọng Chinh, Bùi Thế Lân, Hoàng Cơ Minh v.v…và nhiều người đã bỏ mình ngoài chiến trường như Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Bác Sĩ Nghiêm Sĩ Tuấn v,v… để bảo vệ miền Nam tự do hoặc quyết chết vinh chứ không chịu sống nhục dưới chế độ Cộng Sản như Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn v.v…vào ngày 30/4/1975.
Tôi từng học lớp Đệ Nhứt B6, niên khoá 1961-1962, lúc thầy Trần Văn Việt là Hiệu Trưởng và thầy Nguyễn Văn Kỷ Cương làm Giám Học.
- Trường nữ Trung Học Trưng Vương, Sài Gòn.
Trường nữ Trung Học Trưng Vương Sài Gòn là một trong các trường Trung Học công lập danh tiếng, dành riêng cho nữ học sinh, tọa lạc trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, đối diện Thảo Cầm Viên Sài gòn.
Trường Trưng Vương, hậu thân của ngôi trường tại Hà Nội, được thiết lập khi một số Giáo Sư học sinh trường Trưng Vương Hà Nội di cư vào Sài gòn, sau Hiệp định Genève chia đôi đất nước năm 1954.
Năm 1917, theo Nghị định 2229, ký ngày 10/11/1917, chính quyền Pháp mở Cơ sở giáo dục Nữ sinh Việt Nam (Institution de Jeunes Filles Annamites) với hai bậc học Tiểu Học và Cao Đẳng Tiểu Học. Nữ sinh được học các môn chính là chữ Quốc ngữ, tiếng Pháp, số học, địa lý, luân lý, phép xã giao, vệ sinh với các cô giáo người Pháp, còn các môn học nữ công gia chánh như quản lý gia đình, may vá, thêu, nấu ăn… với các cô giáo người Việt. Trường nhận học sinh gái bắt đầu từ 8 tuổi. Việc mở các trường nữ học đòi hỏi phải tuyển giáo viên là nữ để dạy môn tiếng Việt và vệ sinh phụ nữ. Ở Bắc kỳ, nữ giáo viên người Pháp không biết tiếng Việt nên rất khó khăn trong việc chuyển tải kiến thức và nữ giáo viên người Việt thiếu rất nhiều. Thời gian đầu chỉ có ít nữ giáo viên người Pháp và tuyển được một vài cô tốt nghiệp Trường Tiểu học Hàng Cót. Vì những khó khăn về giáo viên, năm 1917, chính quyền Pháp cho mở Cơ sở Đào tạo giáo viên nữ người Việt (École normale d’Institutrices annamites), cơ sở này ban đầu hoạt động song song như một cơ sở phụ trợ cho Cơ sở giáo dục nữ sinh người Việt. Về trường, lớp, năm 1918, chính quyền Pháp cho xây dựng khu trường học nằm trên phố Félix Faure dành cho Cơ sở Giáo dục nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo nữ giáo viên người Việt của Trường Cao Đẳng Tiểu Học nữ sinh bản xứ. Trong suốt khoảng chục năm, số học sinh các trường Pháp và trường bản xứ tăng lên, nhu cầu học sinh nội trú cũng tăng, khiến chính quyền Pháp ở Hà Nội cũng phải cho xây dựng, sửa chữa, mở rộng nhiều trường, lớp, phòng ăn, phòng ngủ đáp ứng nhu cầu của cha mẹ học sinh.
Giữa tháng 8 năm 1928, công trình xây dựng và mở rộng ngôi trường này hoàn thành, được bàn giao cho nhà trường để kịp khai giảng ngày 11 tháng 9. Ngay năm học này, các trường Pháp và bản xứ có sự hoán đổi. Trường Cao Đẳng Nữ sinh Pháp rời chuyển từ phố Hai Bà Trưng về phố Félix Faure.
Trường Trung Học Paul Bert (hay Cao Đẳng Tiểu Học Nam sinh Pháp) rời chuyển từ phố Hàng Bài về ăn, ở, học thế chỗ Trường Cao đẳng nữ sinh Pháp ở phố Hai Bà Trưng. Toàn bộ ngôi trường Paul Bert vừa được xây thêm, mở rộng dành riêng cho Trường Cao Đẳng Tiểu Học nữ sinh người Việt gồm Cơ sở Giáo dục Nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo giáo viên Nữ người Việt chuyển từ phố Félix Faure về phố Hàng Bài, theo dự án kiện toàn và chuyển đổi trường, lớp do Nha Học chính Đông Dương tại Hà Nội báo cáo và lập ngày 31 tháng 12 năm 1925.
Năm 1943, Trường nữ Trung học Đồng Khánh sơ tán về Hưng Yên. Đến tháng 10/1945, trường dọn về khu học Hoàng Mai, khu Đại lý Hà Nội. Ngày 14/2/1946, Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Vũ Đình Hòe ra Nghị định, số 85 đổi tên những trường Trung Học tại Bắc Bộ. Theo đó, Trường Nữ Trung Học Hà Nội đổi tên gọi là Trường Trung Học Hai Bà Trưng.
Đến đầu năm 1948, Cơ sở trường Hàng Bài vẫn chưa được dùng lại làm trường học. Trường Nữ Trung Học phải chuyển đến phố Hàng Than và đến cuối năm, trường chuyển về cơ sở số 9 phố Hai Bà Trưng. Năm ấy cũng là một mốc thời gian quan trọng, đánh dấu một lần đổi tên mới là Trường Nữ Trung Học Trưng Vương.
- Ban Giám Đốc đầu tiên ở miền Nam gồm có: bà Hiệu Trưởng Tăng Xuân An, bà Giám Học Nguyễn Thị Phú.
Năm học đầu, trường phải học nhờ cơ sở của trường Gia Long (khóa buổi chiều). Đến năm 1957, trường Trưng Vương dời về số 3 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, nguyên trước đó là bệnh viện của quân đội Pháp mang tên là Quân Y Viện Coste, đối diện Sở Thú Sài Gòn và cạnh trường Trung Học Võ Truờng Toản.
- Trường Trung Học Nguyễn Trãi, Sài Gòn
Trường Trung Học Nguyễn Trãi được thành lập từ sự phân chia ra làm hai phần của trường Trung Học Chu Văn An Hà Nội vào khoảng năm 1950: Một nửa số học sinh (đa số có nhà cư ngụ ở mạn Bắc Hà Nội) di chuyển cùng với tên trường Chu Văn An về trường Giáo Sinh Sư Phạm hay Sư Phạm Tiểu Học (Collège Đỗ Hữu Vị?) Cửa Bắc, góc phố Đỗ Hữu Vị và Quan Thánh, nơi đào tạo các giáo viên bậc Tiểu Học, tại đường Đỗ Hữu Vị. Còn nửa số học sinh ở lại trường nữ Trung Học Đồng Khánh, gần Hồ Hoàn Kiếm và trường Trưng Vương, (đa số có nhà cư ngụ ở mạn Nam Hà Nội) và trường được đổi tên thành trường Trung Học Nguyễn Trãi, lấy theo tên của một anh hùng dân tộc trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và tác giả của Bình Ngô Đại Cáo.
Năm học 1950 – 1951, trường Trung Học Nguyễn Trãi sử dụng cơ sở của trường nữ Trung Học Đồng Khánh (Trường Trưng Vương) trên phố Hàng Bài- Hà Nội.
Sau hiệp định Genève chia đôi đất nước, miền Bắc vĩ tuyến 17 thuộc quyền nhà nước Cộng Sản, miền Nam vĩ tuyến 17 thuộc chính quyền quốc gia của đức Quốc Trưởng Bảo Đại, do Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đặc mệnh, toàn quyền.
Trường Nguyễn Trãi từ Hà Nội cũng theo đoàn người di cư vào Sàigòn nhưng không có trường sở riêng để thiết lập lại, đành phải học nhờ tại một trường Nam Tiểu Học, một mặt giáp với rạp Đại Nam, ba mặt kia nhìn ra ba đường: Nguyễn Thái Học (trước đó là đường chợ Cầu Muối), Trần Hưng Đạo trước đó là (đường Galliéni) và Hồ Văn Ngà cây cao bóng mát. (Trường này theo tài liệu tên là trường nam Tiểu Học Trương Minh Ký).
Hai năm sau (1956) trường Nguyễn Trãi lại di chuyển về học nhờ trường Tiểu Học Phan Đình Phùng tại số 94, đường Phan Đình Phùng, Sàigon. Sau này, trường đổi tên là Nam Tiểu Học Lê Văn Duyệt.
Đến năm 1964, một cơ sở mới cho trường Nguyễn Trãi được khởi công xây dựng bên Kho Năm Khánh Hội tại quận Tư, Sàigòn và trở thành là trường Trung Học có Đệ Nhị Cấp duy nhất ở quận Tư. Niên khóa 1963-1964, trường Nguyễn Trãi mới này, có lớp Đệ Nhất đầu tiên nhưng chỉ có ban B (ban Toán) thôi. Thầy Tạ Quang Khôi làm Hiệu Trưởng trường mới.
Từ niên học 1971-1972, trường bắt đầu thu nhận thêm nữ sinh và có đủ học sinh Đệ Nhất và Đệ Nhị Cấp. Đây là trường Trung Học công lập đầu tiên tại Sàigòn có nam sinh và nữ sinh học chung. Đó là điểm son của trường Trung Học công lập Nguyễn Trãi.
Từ mái trường này, nhiều tên tuổi đã đi vào công chúng như các nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Võ Tá Hân, Đức Huy…
Tôi hình như có duyên với trường Nguyễn Trãi. Năm 1963, mới 19 tuổi đang học năm thứ hai trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, tôi được thầy Tước dẫn đi dạy thực tập 1 giờ Toán đầu tiên ở trường Trung Học Nguyễn Trãi lúc trường còn ở Phan Đình Phùng. 14 năm sau, 1977 sau khi đi tù cải tạo về tôi lại về trường Nguyễn Trãi dạy lại khi trường đã ở Khánh Hội, quận 4, Sài Gòn.
Cũng cần kể thêm hai trường Trung Học di cư khác là trường Trung Học Hồ Ngọc Cẩn và Trung Học Trần Lục.
Trường Hồ Ngọc Cẩn (lấy tên vị Giám Mục địa phận Bùi Chu) được tòa Giám Mục Bùi Chu cho thành lập từ năm 1950 do Linh Mục Trần Đức Huynh làm Hiệu Trưởng và năm 1954 di cư vào Nam, hai năm sau được công lập hóa và lấy cơ sở một trường Tiểu Học ở Gia Định làm trường sở tồn tại đến 30/4/1975.
Trường Trần Lục thành lập năm 1950, vị Hiệu Trưởng đầu tiên là Linh Mục Trần Văn Kiệm, tại Phát Diệm, di cư vào Nam năm 1954, được công lập hóa, ban đầu tạm trú tại trường Tiểu Học Đồ Chiểu, Tân Định, năm 1971 dời về Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa quận 10 và đổi tên là trường Nguyễn Du.
GS Huỳnh Công Ân
Tài liệu tham khảo:
Facebook Công Giáo:Đạo vào Đời
flickr.com manhhai
(còn tiếp)
Những Ngôi Trường Trung Học Tiêu Biểu Của Miền Nam Trước Năm 1975 (Phần 3) - GS Huỳnh Công Ân
Chỉ tồn tại có 21 năm, từ di sản của nền giáo dục thuộc địa của Pháp chế độ Việt Nam Cộng Hoà đã khai sinh một nền giáo dục Dân tộc, Nhân bản và Khai phóng mà giá trị đến ngày nay không ai có thể phủ nhận được. Là một người từng ở trong ngành giáo dục của miền Nam, nhìn thấy sự vong thân của hệ thống trường học xà hội chủ nghĩa ngày nay ở Việt Nam, tôi không thể nào không luyến tiếc những ngôi trường của miền Nam trước 1975 đã đi đúng ba mục tiêu trên. Trong phạm vi bài này xin chỉ nhắc đến một số trường Trung Học tiêu biểu ở các đô thị lớn như Sài Gòn, Huế, Cần Thơ, Mỹ Tho. Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, Tuy nhiên các trường Trung Học ở các địa phương khác cũng hoàn thành nhiệm vụ không thua kém các trường được nêu tên.
Phần 3: Những trường chương trình Pháp giao lại cho Việt Nam (Các trung tâm giáo dục)
Hệ thống Trung tâm giáo dục (TTGD) của miền Nam trước năm 1975 gồm có năm cơ sở trên toàn quốc. Về mặt hành chính, tất cả các TTGD đều trực thuộc Bộ Giáo Đục quản lý mà không chịu sự điều khiển của các ty giáo dục địa phương. Các TTGD này trước kia là trường theo chương trình Pháp, do Bộ Giáo Dục Pháp điều hành, được chuyển giao cho Bộ Giáo Dục Việt Nam vào năm 1967, gồm có:
1) TTGD Nguyễn Hiền ở Ðà Nẵng, trước kia là Lycée Blaise Pascal
2) TTGD Hàn Thuyên ở Nha Trang, trước kia là Collège Français de Nha Trang
3) TTGD Lê Quý Ðôn ở Sài Gòn, trước kia là trường Jean Jacques Rousseau
4) TTGD Hồng Bàng ở Chợ Lớn, trước kia là École francaise de Cholon
5) TTGD Hùng Vương Ðà Lạt, trước kia là Lycée Yersin
- Trung Tâm Giáo Dục Lê Quý Đôn, quận 3, Sài Gòn
Trường được khởi công năm 1874 và hoàn tất năm 1877, giảng dạy từ Tiểu Học đến Tú Tài theo chương trình Pháp. Ngày đầu thành lập, trường có tên Collège Indigène (trung học bản xứ), không lâu sau được đổi tên thành Collège Chasseloup Laubat, theo tên Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại (còn gọi là Bộ Thuộc địa) lúc bấy giờ là Francois Marquis de Chasseloup Laubat (1754-1833).
Ban đầu, trường chỉ nhận các học sinh người Pháp, đến đầu thế kỷ 20 thì mở rộng để nhận thêm học sinh người Việt, tuy nhiên phải có quốc tịch Pháp. Trường chia thành hai khu riêng biệt: khu dành cho học sinh Pháp, gọi là Quartier Européen và khu học trò Việt gọi là khu bản xứ, nhưng hai nơi đều học chung chương trình Pháp và thi Tú Tài Pháp.
Năm 1954 Trường tiếp tục đổi tên một lần nữa thành Jean Jacques Rousseau (tên một nhà trí thức Pháp trong phong trào "Ánh Sáng" thế kỷ XVIII) nhằm tránh gợi nhớ thời thuộc địa, nhưng vẫn do người Pháp quản lý, chủ yếu dạy học sinh người Việt.
Tới năm 1967, trường được giao trả cho người Việt và đổi tên là Trung Tâm Giáo Dục Lê Quý Đôn, học từ lớp 1 đến lớp 12.
Hiệu Trưởng đầu tiên của Trung Tâm là thầy Phan Văn Huấn.
Những học sinh nổi tiếng của thế hệ trước: ông Hoàng của Lào Phetsarath (1890-1959) ông Hoàng của Cao Miên Sihanouk, Nữ Sĩ Marguerite Duras (1914-1996) tác giả tiểu thuyết Amant, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, Học Giả Vương Hồng Sển, Kỹ Sư Lưu Văn Lang, Học Giả Trần Văn Ân, Đại Tướng Dương Văn Minh, Trung Tướng Trần Văn Đôn, Hoàng Tử Vĩnh San con Vua Duy Tân…
Những học sinh nổi tiếng thế hệ sau: nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ca sĩ Elvis Phương, nhạc sĩ Lê Hựu Hà, kịch sĩ Hồng Vân…
- Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng, quận 5, Sài Gòn
Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng được người Pháp xây dựng từ năm 1933 làm trường học nội trú cho trẻ em là con của những người Pháp đến Việt Nam làm việc và lập gia đình với người bản xứ.
Sau đó, trường trở thành một chi nhánh của Trường Jean - Jacques Rousseau tại Chợ Lớn. Đến năm 1967, người Pháp giao trường lại cho Chính phủ Việt Nam lúc bấy giờ thành lập Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng.
TTGD Hồng Bàng được quản lý bởi Ban Giám Đốc cùng các Giáo Sư và Giáo Viên người Viêt phụ trách dạy Việt ngữ và các Giáo Viên và Giáo Sư người Pháp do Trung Tâm Văn Hóa Pháp cung cấp, dạy Pháp ngữ.
Giám Đốc đầu tiên là Ông Nguyễn Khánh Hải, sau đó lần lượt thay đổi các Giám Đốc Nguyễn Ngọc Quang, Từ Chấn Sâm và Lâm Võ Huỳnh là vị Giám Đốc cuối cùng cho đến ngày 30/4/75.
Đầu năm học 74-75, tôi đang dạy trường Ngô Quyền ở Biên Hoà thì anh Lâm Võ Huỳnh, Giám Đốc Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng ở quận 5, Chợ Lớn gặp tôi hỏi tôi có muốn về dạy ở trường anh không? Gần mười năm dạy từ miền Tây đến miền Đông, đây là cơ hội để tôi dạy gần nhà. Tôi nhận lời. Anh nói tạm thời tôi dạy một số giờ Toán lớp 12 của một đồng nghiệp môn Toán ở trường anh đã lên đường tu nghiệp ở Pháp, rồi anh sẽ làm thủ tục cho tôi thuyên chuyển về đó.
Tới khoảng giữa niên học tôi mới nhận được Sự Vụ Lệnh thuyên chuyển về Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng. Ngoài lớp 12 duy nhất của trường, tôi phụ trách Toán cho lớp 10 và 11. Lớp 12 của trường chỉ vỏn vẹn có mười mấy em, toàn là con những nhà tai mắt ở thủ đô.
- Trung Tâm Giáo Dục Nguyễn Hiền, Đà Nẵng
Khi TTGD NH được thành lập, vị Giám Đốc đầu tiên là Cô Nguyễn Thị Liêu, có thêm thầy Phục (?) làm phụ tá. Từ 1973 – 1975, Giám Đốc là thầy Sanh (?) thay thế cô Liêu nghỉ hưu. Ngoài ra còn có các Ban Giảng Huấn, Giám Thị và nhân viên Văn Phòng.
Tương tự các TTGD khác, TTGD Nguyễn Hiền Đà Nẵng có một chương trình giảng dạy đặc biệt, trong đó học sinh phải thi tuyển vào ngay từ lớp 1 và được học miễn phí đến lớp 12. Học sinh được dạy hoàn toàn bằng chương trình Việt ngữ, nhưng song song đó Pháp ngữ được dạy ngay từ lớp 1 với những Giáo Sư được chính phủ Pháp gởi sang. Ngoài ra học sinh TTGD Nguyễn Hiền còn được học Anh ngữ ngay từ bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp.
Ðội ngũ giáo chức được TTGD tuyển chọn về giảng dạy là các thầy-cô giáo đã chứng tỏ năng lực và sự tận tâm của mình ở các nơi khác. Thêm vào ưu điểm đó, nhờ sĩ số hạn chế (25 – 30) học sinh ở mỗi lớp nên học lực của học sinh của trường rất khá và đều.
So với các ngôi trường khác của Đà Nẵng, nếu tính mốc thời gian cuối là 1975 thì TTGD NH được thành lập trể nhất, và có tuổi đời ngắn nhất. Từ niên khóa 1967-1968 đến 1974-1975, nếu tính chẵn thì chỉ vỏn vẹn 8 năm. Từ chương trình trường Tây chuyển sang chương trình Việt, khóa các anh chị lớn nhất cũng chỉ dừng ở lớp 12. Chưa có niên khóa nào của trường được “lèo chỏng” đi thi mảnh bằng Tú Tài cả! Đó cũng là điều đáng tiếc. Tiếc cho ngôi trường đã có một chương trình đào tạo thật tốt, và tiếc cho chúng ta đã chịu thiệt thòi khi bị cuốn phăng theo buổi giao thời của lịch sử.
- Trung tâm giáo dục Hàn Thuyên, Nha Trang
Năm 1920, chính quyền Pháp tại Nha Trang mở một trường chuyên dạy tiếng Pháp cho con em quan chức người Pháp và một số con em những quan chức Việt gọi là Trường Tiểu Học Pháp (Collège Francais de Nha Trang), dạy theo chương trình chính quốc, thường gọi là trường Tây.
Các Hiệu Trưởng College francais de Nha Trang từ 1948-1966: Faure Jean, Hartmann Pierre.
Năm 1967 khi được bàn giao cho chính phủ VNCH thì trường lấy tên là Trung tâm giáo dục Hàn Thuyên.
- Trung Tâm Giáo Dục Hùng Vương, Đà Lạt
Trường được xây dựng trong vòng 8 năm, hoàn thành năm 1927 và mở cửa đón học sinh nội trú từ ngày 7 tháng 1 năm 1928. Tên gọi đầu tiên của trường là Petit Lycée Dalat, đây là nơi chuyên dành cho việc giảng dạy con em người Pháp và Châu Âu ở cấp bậc Tiểu Học và Trung Học.
Tuy nhiên sau đó Đà Lạt đã thu hút rất nhiều gia đình trong giới thượng lưu người Việt đến sinh sống. Từ đó trường cũng nhận luôn việc giảng dạy con em người Việt. Hoàng Đế Bảo Đại hoặc Quốc Vương Kampuchea Norodom Sihanouk cũng đã từng có một thời gian học tại đây.
Năm 1932 trường được đổi tên thành Grand Lycée de Dalat và đến năm 1935 trường mang tên là Lycée Yersin. Tên gọi với mục đích để tưởng nhớ tới Bác Sĩ Alexandre Yersin - người đã có công tìm ra cao nguyên Lâm Viên để rồi sau đó khai sinh ra Đà Lạt.
Điểm nhấn của trường là dãy lớp học hình vòng cung và tháp chuông cao. Gạch xây trường là gạch trần đỏ được chở từ Châu Âu sang, còn mái được lợp bằng ngói cũng của Pháp (nhưng sau đó đã được trùng tu lại nên mái ngói hiện giờ không còn là nguyên thủy).
Sau năm 1967, trường Lycée Yersin được giao cho chính phủ Việt Nam Cộng Hoà và đổi tên thành Trung tâm Giáo dục Hùng Vương đến ngày 30/4/1975.
Các cựu học sinh nổi tiếng của trường này là Hoàng Đế Bảo Đại, Quốc Vương Sihanouk, Tổng Trưởng Dân Vận Chiêu Hồi Hoàng Đức Nhã, Chuẩn Tướng Dương Mộng Bảo…
GS Huỳnh Công Ân
Tài liệu tham khảo:
-Lịch sử Trường THPT Lê Quý Đôn
-Wikipedia tiếng Việt
-Blog: Lê Quý Đôn Khung Trời Kỷ Niệm
Trung Tâm giáo dục Nguyễn Hiền
Trung Tâm giáo dục Hàn Thuyên
Facebook: Nha Trang ngày xưa
Facebook: Sài Gòn Xưa
Blog Văn Thơ Nhạc: Những trường học tại Nha Trang Xưa và Nay
College de Nhatrang
Trang nhà: Đà Lạt 360
(Còn tiếp)
Những Ngôi Trường Trung Học Tiêu Biểu Của Miền Nam Trước Năm 1975 (Phần 4) - GS Huỳnh Công Ân
Chỉ tồn tại có 21 năm, từ di sản của nền giáo dục thuộc địa của Pháp chế độ Việt Nam Cộng Hoà đã khai sinh một nền giáo dục Dân tộc, Nhân bản và Khai phóng mà giá trị đến ngày nay không ai có thể phủ nhận được. Là một người từng ở trong ngành giáo dục của miền Nam, nhìn thấy sự vong thân của hệ thống trường học xã hội chủ nghĩa ngày nay ở Việt Nam, tôi không thể nào không luyến tiếc những ngôi trường của miền Nam trước 1975 đã đi đúng ba mục tiêu trên. Trong phạm vi bài này xin chỉ nhắc đến một số trường Trung Học tiêu biểu ở các đô thị lớn như Sài Gòn, Huế, Cần Thơ, Mỹ Tho. Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, Tuy nhiên các trường Trung Học ở các địa phương khác cũng hoàn thành nhiệm vụ không thua kém các trường được nêu tên.
Phần 4: Những trường của các giáo hội
Tuy các trường của các giáo hội là các tư thục nhưng cũng đã có nhiều đóng góp to lớn vào nền giáo dục của VNCH.
1) Hệ thống trường Bồ Đề của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Sau ngày 2/11/1963, chính quyền Đệ Nhất Cộng Hoà của Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, phong trào Phật Giáo phát triển và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập. Song song với việc truyền bá đạo pháp và xây dựng các chùa chiền, Giáo hội còn mở các trường học lấy tên là Bồ Đề trong nhiều địa phương ở miền Nam.
- Trường Trung Học Bồ Đề, Sài Gòn
Ngay từ những ngày đầu thành lập, trường mang tên Nguyễn Văn Khuê vào năm 1940 là một trong những trường tư thục lớn ở Nam Kỳ.
Lycéum (tiếng Latin nghĩa là trường Trung Học) Nguyễn Văn Khuê nằm ở quận Nhì (nay đổi thành quận 1) trên đại lộ Nguyễn Thái Học, gần chợ Cầu Muối. Tên trường cũng là tên của ông Hiệu Trưởng, ông có bằng Cử Nhân văn chương của trường Đại Học Sorbonne nổi tiếng của Pháp. Trường có hai hệ: chương trình Pháp và chương trình Việt. Ai theo chương trình Pháp thì học bằng tiếng Pháp theo giáo trình như bên Pháp, thi cử do Mission Culturelle của Tòa Đại Sứ Pháp đưa ra. Lớp nhỏ nhất của chương trình này là sixièm moderne tương đương bên chương trình Việt là lớp Đệ Thất (lớp 6 bây giờ),
Niên khoá 1955-1956 tôi học lớp Đệ Thất C của chương trình Việt, lớp con trai. Tôi còn nhớ lớp Đệ Thất A gồm toàn con gái trong đó có Lý Thị Quỳnh Nga, một hoa khôi của trường, sau này là vợ Dân Biểu đối lập Lý Quý Chung của thời Đệ Nhị Công Hòa ở miền Nam.
Tôi học ở trường Nguyễn Văn Khuê từ năm 1955 đến năm 1961 mới rời trường sau khi đậu bằng Tú Tài 1 để xin vào học trường Chu Văn An.
Đến năm 1963, ông Nguyễn Văn Khuê đã nhượng lại nhà trường cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất do Hòa Thượng Thích Quảng Liên đặc trách Hiệu Trưởng kiêm Giám Đốc. Ngày 15.5.1967, trường chính thức được thành lập với tên gọi: trường tư thục Bồ Đề.
2) Các trường trung học của Giáo Hội Công Giáo
- Trường La San Taberd, Sài Gòn
Trường La San Taberd là một trường học tại Sài Gòn, được thành lập từ thời Pháp thuộc, hoạt động từ năm 1873 đến năm 1975. Trường này vốn là sản nghiệp riêng của Hội truyền giáo Công giáo, có công và thanh danh lớn trong việc đào tạo nhân tài trong xứ thời bấy giờ.
Khoảng cuối năm 1865 có sáu sư huynh dòng La San (một dòng tu Công giáo với mục đích giáo dục cho trẻ em nghèo) rời Toulon, Pháp sang Việt Nam. Khi đến Sài Gòn vào đầu năm 1866 các sư huynh tham gia quản giáo trường Trung học Adran (Collège d'Adran) vốn đã được các Linh Mục thuộc Hội Thừa sai Paris mở ở Sài Gòn từ năm 1861. Vì có tiếng dạy giỏi, các sư huynh được nhiều nơi như Chợ Lớn, Mỹ Tho lần lượt xin mở trường vào năm 1867, rồi đến Vĩnh Long và Sóc Trăng, vào năm 1869. Nhưng đến năm 1879, chính quyền ở Pháp thay đổi chính sách, ngưng cấp học bổng và không tài trợ nữa. Trường Adran buộc phải đóng cửa vào khoảng năm 1887.
Vào năm 1873, Linh Mục Kerlan (1844-1877) quyết định mở một trường nghĩa thục dạy các trẻ bị bỏ rơi, trong số đó có nhiều trẻ em lai. Trường được gọi theo tên của Jean-Louis Taberd, Giám Mục địa phận Nam Kỳ từ 1830 đến 1840. Khi trường Adran đóng cửa, những học trò của trường này được đem gửi đến theo học trường Taberd. Do gặp khó khăn về tài chính, Linh Mục Kerlan mời các sư huynh Dòng La San (Les frères des Ecoles Chrétiennes Jean Baptiste de La Salle) trở qua giúp ông. Năm 1889 có 9 sư huynh từ Marseille qua. Năm sau đó, các sư huynh tiếp nhận trường tư Taberd, lúc đó có khoảng 160 học sinh mà một nửa ở nội trú. Số học trò theo học tăng nhanh, nên năm 1891 có thêm 5 sư huynh theo qua, mở thêm một trường nghĩa thục nằm ngay cạnh trường Taberd. Các sư huynh lại mở thêm một chi nhánh ở Vũng Tàu và sau này ở nhiều nơi khác. Do sự sắp xếp của Linh Mục Kerlan, Hội Thừa sai gánh chịu trách nhiệm tài chánh đối với những trường do các sư huynh điều hành và giảng dạy. Năm 1897, trường Taberd được mở rộng thêm.
Vào niên khóa 1973-1974, trường có 115 lớp và 7464 học sinh từ lớp 2 đến lớp 12.
Trường tọa lạc ở số 53 đường Nguyễn Du, Sài Gòn, gần góc đường Tự Do. Ngoài trường La San Taberd tại Sài Gòn, còn có các phân hiệu trường Taberd tại những nơi khác.
Nhữnɡ nɡhệ sĩ đã từnɡ họᴄ ở trườnɡ Tabеrd ᴄó thể kể đến là Jᴏ Marᴄеl, Nɡuyễn Ánh 9, Mai Châu, Trần Trịnh…, thế hệ sau này ᴄó Dᴏn Hồ. Nhạᴄ sĩ Nɡhiêm Phú Phi ᴄũnɡ từnɡ ᴄó thời ɡian dạy nhạᴄ ở trườnɡ Tabеrd.
Các tuyển thủ bóng bàn danh tiếng như Lê Văn Tiết, Trần Cảnh Được cũng xuất thân từ trường Taberd.
Hiệu Trưởng cuối cùng là Sư Huynh Felicien Huỳnh Công Lương.
- Trường Saint Paul, quận 1, Sài Gòn
Theo các tài liệu lịch sử truyền giáo, vào ngày 20/5/1860, các nữ tu dòng Thánh Phaolô gốc ở thành Chartres (Soeurs de Saint Paul de Chartres) từ Hong Kong đặt chân đến Sài Gòn. Họ cùng tạm định cư tại một căn nhà nhỏ vùng chợ cũ cùng các nữ tu dòng kín (đến Sài Gòn năm 1861). Vào tháng 9/1862, mẹ bề trên dòng thánh Phaolô Benjamin khởi công xây cất nhà giám tỉnh tại khu đất Đường Thành (Rue de la Citadelle). Toàn bộ công trình này hoàn thành vào ngày 10/8/1864. Trong bản thảo viết tay của mẹ Benjamin chỉ ghi lại tên kiến trúc sư là Thầy Học. Lúc ấy các bà phước chẳng biết kiến trúc sư “Thầy Học” là ai. Không biết trước đây đã có tài liệu nào xác định Thầy Học là ai chưa.
Trường Saint Paul được đặt trong một khu vực tu viện tọa lạc ở số 4 Boulevard Luro (sau là đường Cường Để, quận 1, Sàigòn).
Tên gọi ban đầu của tu viện là La Sainte Enfance (Thánh Hài Đồng), được xây và làm chủ bởi những nữ tu nhà dòng Saint Paul de Chartres (Thánh Phaolô thành Chartres). Tu viện được khánh thành vào tháng 5 năm 1864.
Trường này còn được gọi là trường Nhà Trắng không phải là vì trường được sơn màu trắng mà bởi vì các Sơ này “trinh bạch từ linh hồn đến những chiếc áo dòng trắng toát”.
Giáo dục các trẻ em gái được giao cho các Sơ nhà dòng Saint Paul de Chartres ở Sàigòn.Năm 1870, 5 học bổng 900 quan Pháp được cấp cho con gái những công chức Pháp. Năm 1874, một nội trú thứ hai được mở ra để đón nhận các trẻ em gia đình trung lưu. Năm 1880 , tổng cộng số tiền của nhiều học bổng khác nhau được thuộc địa cấp cho trường học này là 60.000 quan tây.
Vào năm 1874, trường École de La Sainte Enfance có 113 học sinh.
Trường École de La Sainte Enfance nhận học sinh nội trú, bán nội trú và ngoại trú. Ngân quỹ của trường được trợ cấp từ ngân quỹ địa phương và các học bổng.
Trước năm 1975, trường Saint Paul là một trường tư thục phổ thông chỉ nhận nữ sinh, gồm có các lớp từ mẫu giáo tới tú tài với số lượng 1.600 học sinh (có ký túc xá cho học sinh nội trú).
Một cựu nữ sinh xuất sắc của trường là bà Henriette Bùi Quang Chiêu (1906-2012) con của ông Bùi Quang Chiêu, Viện trưởng Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ (1939) bị Việt Minh xử tử năm 1975. Bà là nữ Bác Sĩ đầu tiên của Việt Nam, vợ của Luật Sư Vương Qusng Nhường, thủ lãnh Luật Sư đoàn Sài Gòn.
Bà xã tôi là nữ sinh trường Saint Paul từ lớp 1 đến lớp 12.
- Trường Nguyễn Bá Tòng, Sài Gòn
Trường Nguyễn Bá Tòng là trường Trung Học tư thục công giáo Đệ Nhị Cấp. Trường được đặt theo tên của vị Giám Mục đầu tiên của Việt Nam: GM Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng.
Trường này đã có từ lâu do một số Cha công giáo hợp tác với Cha sở nhà thờ Huyện Sĩ đứng tổ chức. Ban đầu, trường chỉ xử dụng có 5 phòng học.
Từ niên khóa 1955-56, mới xây thêm dãy nhà 3 tầng, Cha Nguyễn Quang Lãm làm Hiệu Trưởng, rồi Cha Nguyễn Khánh Tường, sau cùng là Cha Ðỗ Ðình Tiệm làm Hiệu Trưởng cho tới năm 1975.
Trường Nguyễn Bá Tòng là tổ hợp phát triển giáo dục, trong đó Bùi Chu có 33%, địa phận Sàigòn 33% và nhà thờ Huyện Sĩ 34% cổ phần. (Phụ chú: Giáo xứ Bùi Chu là chủ nhà in Nguyễn Bá Tòng nằm gần Trường).
Trường Nguyễn Bá Tòng được xây cất từ năm 1956 (1955?) với sự trợ giúp đặc biệt của cơ quan Caritas Germanica Đức Quốc và cơ quan NCWC, Công Giáo Hoa Kỳ. Trường nằm trên một khu đất rộng trên đường Bùi Thị Xuân với những lớp học trên hai tầng lầu của hai tòa nhà lớn, có đến 38 lớp với 47 thầy cô giáo, dạy dỗ cho trên 2 ngàn nữ sinh.
Vào năm 1963, trường có nhiều cấp lớp từ Đệ Thất đến Đệ Nhất đủ các ban A, B, C đặt dưới quyền điều khiển của 8 vị Linh Mục cùng với sự giảng dạy của 160 vị Giáo Sư và 30 nhân viên văn phòng.
Những năm kế tiếp, để đáp ứng số lượng ghi danh học càng ngày càng tăng và cũng để tăng phẩm chất giảng dạy, trường Nguyễn Bá Tòng đã xây thêm nhiều cơ sở mới trong khuôn viên trường.
Từ thuở thành lập, trường Nguyễn Bá Tòng ở đường Bùi Thị Xuân, quận 1, Sàigòn là một trường Trung Học hỗn hợp nam và nữ sinh, nhưng vào khoảng năm 1970, sau khi ban quản trị trường Nguyễn Bá Tòng mở thêm một phân hiệu mới ở đường Hoàng Hoa Thám-Gia Định có cùng tên là trường Nguyễn Bá Tòng, các nam học sinh trường Nguyễn Bá Tòng-Sàigòn được chuyển về trường bên Gia Định . Để phân biệt hai trường, đề nghị tạm gọi trường thứ nhứt là trường Nguyễn Bá Tòng (Sàigòn), trường thứ hai là trường Nguyễn Bá Tòng (Gia Định).
Vì không còn nam sinh học tại trường bên Sàigòn, ban Giám Thị cũng như nhân viên văn phòng nhà trường đều do các nữ tu Mân Côi đảm nhiệm.
Trong số, các trường tư thục ở miền Nam được trang bị phòng thí nghiệm để cho học sinh học môn khoa học có thể nghiên cứu, chỉ có Nguyễn Bá Tòng và Hưng Đạo là hai trường được trang bị đầy đủ nhất, đến nỗi người ta nói rằng hai trường này có thể so sánh với trường Đại Học Khoa Học tại Sàigòn.”
Tuy là một trường Trung Học tư thục nhưng kỷ luật trong trường rất nghiêm minh. Ngoài chương trình học, nhà trường rất chú trọng về đức dục. Mỗi tuần một lần, khi nghe tiếng chuông điện reo lên, sau đó là tiếng loa phát ra trong từng lớp học: ‘’Kính thưa quí vị Giáo Sư, xin quí vị ngưng giảng bài, cho phép các em học sinh bỏ bút xuống, im lặng để nghe bài giáo dục trong tuần…’’. Bài giáo dục trong tuần thường là một câu truyện ngắn hay ngụ ngôn với những nhận xét giúp học sinh thành người lịch sự và có trách nhiệm. Đầu mỗi buổi học, học sinh đọc lời tâm niệm.
Trường Nguyễn Bá Tòng được đánh gíá cao trong việc giáo dục vì vậy đạt được nhiều uy tín ở Sàigòn.
Trường Nguyễn Bá Tòng là nơi đào tạo nhiều người nổi tiếng: các ca sĩ Mai Hương, Phương Hoài Tâm, Ý Lan, MC Nguyễn Ngọc Ngạn. Đây cũng là nơi nhạc sĩ Thu Hồ (cha của ca sĩ Mỹ Huyền) dạy nhạc, Thượng Nghị Sĩ Nguyễn Văn Kỷ Cương dạy Toán, nhà văn Bùi Nhật Tiến dạy Lý Hóa.
Em gái tôi học ở trường Nguyễn Bá Tòng từ lớp 6 đến lớp 12.
- Trường Thánh Thomas (Nhà thờ Ba Chuông). Phú Nhuận
Trường Thánh Thomas là trường Trung Tiểu Học tư thục công giáo được thành lập vào năm 1959 bởi dòng Daminh Việt Nam.
Niên khóa đầu tiên của trường được khai giảng năm 1952. Trường là hậu thân của trường Saint Thomas mở tại Nam Định năm 1950 và Vũng Tàu năm 1958.
Sau đây là danh sách các tu sĩ từng phục vụ tại trường đã qua đời:
Hiệu Trưởng:
1. Lm Giu Se Hoang Kim Thao (22.07.2028)
2. Lm Phan Xi Cô Mai Bảo Thư (17.09.2002)
3. Lm Giu Se Phạm Văn Vàng (29.12.1986)
Giám Học, Giám Thị:
1. Lm An Rê Đinh Dưỡng Thiệm (11.07.1993)
2. Lm Angelo Nguyễn Ngọc Thụy (11.07.1992)
3. Lm Phêrô Nguyễn Doãn Quang (16.08.1988),
4. Lm Vinhsơn Nguyễn Hữu Dụ (12.01.2009), (Tổng Giám Thị niên khóa cuối 1974- 1975)
5. Thầy Phêrô Mai Văn Tộ (10.04.2008)
6. Thầy Đaminh Trần Thanh Khiết (06.06.1980).
Trường Thánh Thomas còn có Hiệu Trưởng Linh Mục Nguyễn Ngọc Thành và Giám Học Linh Mục Nguyễn Đức Hòa.
Chỉ có tám năm sau khi thành lập, vào ngày 17 tháng 3 năm 1967 trong chương trình Lễ Ngày thành lập Tỉnh Dòng Đa Minh tại Việt Nam với thánh hiệu “Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo”, các học sinh trường Thánh Thomas được vinh dự chào đón Cha Bề Trên Tổng Quyền Aniceto Fernandez và phái đoàn, sau khi ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt, về tới Tu viện Alberto, Phú Nhuận. (Tu viện này được xây cùng năm với trường Thánh Thomas bởi các tu sĩ Dòng Đa Minh Việt Nam).
Niên khoá 1974-1975, qua sự giới thiệu của một người bạn, tôi được trường Saint Thomas mời phụ trách môn Toán lớp 12 ở đây.
Tôi còn nhớ ngày 28 tháng 4 năm 1975, vào buổi sáng, tôi đang dạy một lớp 12 của trường Saint-Thomas, ở Phú Nhuận, nhìn lên bầu trời qua cửa sổ lớp học tôi thấy từng đàn trực thăng bay ngang thật thấp: người Mỹ đang di tản khỏi Việt Nam. Tôi tự hỏi rồi mình sẽ ra sao? Lúc ở phòng Giáo Sư, Cha Hiệu Trưởng nói với tôi: sắp có giải pháp, thầy cứ yên chí mình sẽ tiếp tục dạy học như thường. Sự lạc quan của Cha Hiệu Trưởng không đủ sức trấn tĩnh tôi trước một tương lai mình không đoán được!
GS Huỳnh Công Ân
Tài liệu tham khảo:
THCS Đồng Khởi
Trung học La San Taberd
Những ngôi trường nổi tiếng nhất Sài Gòn xưa – Phần 1: Trường Lasan Taberd
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG và TỔNG HỢP ở SÀIGÒN-CHỢ LỚN và GIA ĐỊNH trước năm 1975: Trường Saint Paul
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG và TỔNG HỢP ở SÀIGÒN-CHỢ LỚN và GIA ĐỊNH trước năm 1975
Trường Thánh Thomas
(Hết)
Giáo sư Nguyễn Nhân
Sưu tầm và tổng hợp