Thúy Nga Paris Và ‘Một Phần Dân Tộc Bị Tách Rời’
10/22/2022
Một poster của Thúy Nga Paris
Cuối tuần vừa qua (15 và 16/10/2022) khoảng 10.000 người Việt đã đến Bangkok (Thái Lan) để xem show “Paris By Night 134” của Thúy Nga Paris.
Trong 10.000...Thúy Nga Paris Và ‘Một Phần Dân Tộc Bị Tách Rời’
10/22/2022
Một poster của Thúy Nga Paris
Cuối tuần vừa qua (15 và 16/10/2022) khoảng 10.000 người Việt đã đến Bangkok (Thái Lan) để xem show “Paris By Night 134” của Thúy Nga Paris.
Trong 10.000 người đó, một số đến từ các quốc gia châu Âu, một số đến từ Mỹ, Úc,… song chủ yếu vẫn là đến từ Việt Nam. Tuy vé không rẻ (từ 160 đến hàng ngàn Mỹ kim) đã vậy còn phải trả thêm chi phí đi lại, ăn uống, khách sạn nhưng người Việt đến từ Việt Nam vẫn chiếm đa số…
Thúy Nga Paris thực hiện các show Paris By Night phục vụ người Việt ở nhiều nơi trên thế giới. Có những nơi rất gần Việt Nam như Singapore (Paris By Night 113), Bangkok (Paris By Night 134) nhưng theo Giám đốc điều hành Thúy Nga Paris – thì Thúy Nga Paris chỉ mới nghĩ tới chuyện đến thật gần Việt Nam để người Việt trong nước dễ dàng hơn trong việc xem các show Paris By Night trực tiếp và… chỉ thế mà thôi (1).
* * *
Paris By Night 134 diễn ra ở Bangkok là một trong những chủ đề được nhiều người bàn luận trên mạng xã hội suốt tuần này nhưng nội dung lại nằm bên ngoài show thứ 134, ví dụ như Le Duc Duc: Những người Việt hát tiếng Việt nhưng không được biểu diễn ở nước Việt vì không muốn người Việt xem, song nhiều người Việt vẫn muốn xem những người Việt này hát tiếng Việt nên chấp nhận mua thêm vé máy bay, trả tiền khách sạn và vé xem show. Năm nào đó bà con nô nức qua Singapore. Nay nô nức qua Thailand. Rốt cuộc là người bị cấm coi vẫn được coi. Chỉ là tốn thêm tiền, tốn bộn. Rốt cuộc chuyện này nói lên điều gì? Nghĩ ra khối chuyện hay nhưng thôi để dành lại đây. Á, có vài lần mình đi xe các VIP, thấy vẫn mở Paris By Night trên xe qua You Tube, đã vậy còn vừa nghe vừa hát theo nữa (2)…
Show more
Cũng nhìn show Paris By Night 134 theo hướng đó, Từ Nguyên Thạch cho rằng: Chắc người Thái sẽ ngạc nhiên...Thúy Nga Paris Và ‘Một Phần Dân Tộc Bị Tách Rời’
Cũng nhìn show Paris By Night 134 theo hướng đó, Từ Nguyên Thạch cho rằng: Chắc người Thái sẽ ngạc nhiên vì sao một sự kiện đình đám như thế của người Việt lại tổ chức trên đất Thái, thay vì ở Việt Nam? Người Thái có óc thực tế. Họ nghĩ rằng Việt Nam sẽ thu được nguồn lợi lớn từ du lịch và các dịch vụ kèm theo nếu được tổ chức ở Việt Nam. Đây quả là vấn đề khó hiểu đối với họ. Biết giải thích như thế nào cho người Thái? Nói rằng vì người Việt ghét người Việt ư? E rằng họ lại càng khó mà hiểu vì dân Thái vốn hiền hòa và hay giúp đỡ nhau. Ông Thạch còn cảm thấy buồn vì: Một sự kiện văn hóa nghệ thuật của người Việt lớn như thế, thu hút sự quan tâm của người dân Việt và nhiều nước như thế nhưng truyền thông nhà nước hoàn toàn im lặng. Vì sao một nhà nước “của dân, do dân, vì dân” lại ngoảnh mặt trước một sự kiện nhiều người Việt quan tâm?
Theo ông Thạch: Cho dù chính quyền đã ban hành một số chính sách công nhận hoặc khôi phục giá trị của nhiều công trình, tác phẩm văn hóa – nghệ thuật thời Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Nhiều tác phẩm âm nhạc ngày trước được gọi là “nhạc vàng” nay được hát và biểu diễn rộng rãi. Nhiều văn nghệ sĩ thời VNCH được về nước sinh sống và hát lại. Nhiều tác phẩm văn học của các nhà văn thời VNCH được in lại. Nhiều vị lãnh đạo khi ra nước ngoài tiếp xúc với kiều bào đã khẳng định đất nước luôn mở rộng vòng tay đón kiều bào về xây dựng quê hương nhưng chính sách đúng đắn như thế dường như chưa thật đồng bộ và thống nhất. Một ca sĩ hải ngoại dù đã được cơ quan cấp trung ương cho phép biểu diễn nhưng vẫn có thể bị một cơ quan địa phương buộc dừng. Chính sách ấy cũng chưa đủ mạnh, nên có trường hợp địa phương tìm cách cản trở bằng cách này hay cách khác mà trường hợp ca sĩ Khánh Ly vừa qua là một ví dụ... Xâu chuỗi những hiện tượng như thế, người ta có cảm giác nhà nước hình như còn dè dặt, chưa thật lòng mở rộng cửa đón đồng bào mình. Ông Thạch nhấn mạnh: Rất nhiều người muốn Paris By Night được tổ chức trong nước nhưng trước hết, muốn đón người thân về nhà thì chủ nhà phải mở lòng, dẹp bỏ đố kỵ. Chừng nào làm được vậy, chừng đó mới nghĩ đến vấn đề xa hơn: Hòa hợp, hòa giải dân tộc (3).
Nguyễn Tuấn – sống ở Úc – cho biết có rất nhiều thân hữu của ông cũng thắc mắc giống như Từ Nguyên Thạch: Tại sao Thúy Nga Paris không tổ chức các show của họ ở Việt Nam khi đi đâu ở Việt Nam cũng thấy sự hiện diện của Thúy Nga Paris (từ thành thị tới nông thôn, từ nhà riêng đến nhà hàng,…)? Nguyễn Tuấn nhận xét, việc các show Paris By Night chỉ diễn ra bên ngoài biên giới Việt Nam giống như vẫn còn… “một phần dân tộc bị tách rời”: Theo thiển ý của tôi, một show nhạc của Thuý Nga Paris ở trong nước sẽ là một tín hiệu tích cực cho chánh sách hoà hợp – hoà giải dân tộc và ‘khúc ruột ngàn dặm’ không còn là câu để đàm tiếu nữa. Các vị lãnh đạo Việt Nam hay nói đến “một bộ phận dân tộc không thể tách rời” nhưng với Thuý Nga thì vẫn là một phần dân tộc bị tách rời (4).
Khi thực tế có vô số sự kiện hài hước hóa những tuyên bố về chủ trương, về mong muốn “hòa hợp, hòa giải” thì tất nhiên Paris By Night 134 diễn ra ở Bangkok cũng sẽ được nhìn dưới góc độ buồn quá đành phải… cười. Chẳng hạn Trần Chí Kông bình thế này: “Thúy Nga Paris” là một show ca nhạc thuần Việt, nhưng không diễn trên đất Việt mà diễn ở Thái, sát nách nước nhà để khán giả người Việt “vượt biên” qua coi. Làm vậy mới chắc cú, không lo “cúp điện” (5).
Còn Phương Nguyễn thì tin rằng chủ đề “Lời cám ơn” của Paris By Night 134 là hết sức hợp lý với nhiều bên: Đó là dịp để ông Ngạn và Thuý Nga Paris cám ơn nhau rồi cả hai đồng cám ơn khán giả năm châu. Thái Lan cũng “cám ơn” vì chương trình của người Việt, nói tiếng Việt, khán giả hoàn toàn Việt mà lại chọn tổ chức trên đất Thái, góp tiền cho ngành du lịch và thương mại Thái. Ngoài ra phải cám ơn đảng và nhà nước đã… “tạo điều kiện”, đồng cám ơn ông phụ trách cúp điện show Khánh Ly, tạo điều kiện cho Sing – Thái tiếp tục mần ăn trong tương lai (6).
* * *
Trước khi Paris By Night 134 diễn ra ở Bangkok, trong một cuộc trò chuyện với VOA, bà Marie Tô Ngọc Thủy – Giám đốc điều hành Thúy Nga Paris – có đưa ra vài lý do giải thích vì sao Thúy Nga Paris chưa nghĩ đến chuyện tổ chức các show ở Việt Nam (kiểm duyệt nội dung chương trình, sự hạn chế về sức chứa của những địa điểm tổ chức show). Có thể vì hoạt động trong lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, cần tế nhị nên bà Thủy chỉ ngừng ở đó.
Làm sao Thúy Nga Paris có thể nghĩ đến chuyện tổ chức biểu diễn ở Việt Nam khi thực tế có đủ thứ chuyện… “phức tạp”?. Thậm chí cách nay ba tháng – hồi hạ tuần tháng 7, hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam đồng loạt loan báo rồi thi nhau đục bỏ tin ông Tô Văn Lai – người sáng lập Thúy Nga Paris, thân phụ bà Thủy – đã qua đời. Rất nhiều người đã bình phẩm về động thái này trên mạng xã hội.
Chẳng hạn Khanh Nguyen: Tôi tin người – hay những người – ra lệnh báo chí trong nước phải hạ bài về tin ông Tô Văn Lai, người sáng lập trung tâm Thúy Nga Paris qua đời đều đã từng ngồi thưởng thức một trong các sản phẩm của Thúy Nga Paris. Xã hội chúng ta đang như vậy. Thật giả lẫn lộn và sự chân thành lần lượt bị bóp chết mỗi ngày. Một xã hội bị điều khiển, bóp nặn như vậy, thì khó mà có tư cách để nói về hòa hợp – hòa giải (7).
Hoặc Vinh Râu: Qua vụ ông chủ Thúy Nga Paris qua đời, ta thấy gì? Một, báo chí dám cầm đèn chạy trước… Tuyên giáo là tiêu. Chưa có lệnh tao mà chúng mày dám đăng à? Hai, khi bắt lột tin, Tuyên giáo đã hạ nhục báo chí, khiến lực lượng này bị muối mặt trước công chúng như một nô tì bị chủ đánh đòn trước bàn dân thiên hạ. Ba, một tin vô thưởng vô phạt về lĩnh vực âm nhạc, nghệ thuật luôn có thể là một vấn đề chính trị theo ý muốn bốc đồng của những người điều hành Tuyên giáo. Bốn, Luật Báo chí làm ra để trưng bày là chính, luật to nhất vẫn là ông Tuyên giáo. Năm, cấm cản việc chia buồn với một người dân VNCH vượt biên dù người đó có đóng góp cho cộng đồng, cho thấy chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc của nhà cầm quyền lâu nay là không thực tâm (8).
Trần Văn
Theo VOA tiếng Việt ngày 22/10/2022 Show more Loading content, please wait. 2 years ago
Nhân 30 tháng Tư, nhớ ‘Bàn tay Hy vọng’ tại Camp Pendleton
28/04/2022 Bùi Văn Phú
Lịch sử về người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ bắt đầu với cuộc di tản 130,000 người ra khỏi Việt Nam khi xe tăng và bộ đội cộng sản tiến vào Thủ đô Sài Gòn ngày 30/4/1975.Nhân 30 tháng Tư, nhớ ‘Bàn tay Hy vọng’ tại Camp Pendleton
28/04/2022 Bùi Văn Phú
Lịch sử về người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ bắt đầu với cuộc di tản 130,000 người ra khỏi Việt Nam khi xe tăng và bộ đội cộng sản tiến vào Thủ đô Sài Gòn ngày 30/4/1975.
Khi đó, những người rời Việt Nam bằng máy bay hay thuyền bè được đưa đến đảo Guam, đảo Wake và căn cứ Hải quân Hoa Kỳ ở Subic Bay, Philippines, trước khi vào các trại tị nạn trên đất Mỹ.
Trại đầu tiên trong nội địa Hoa Kỳ được mở ra để đón tiếp người Việt tị nạn là căn cứ Thuỷ quân Lục chiến Camp Pendleton ở miền Nam California. Sau đó chính phủ Mỹ đã mở thêm các trại ở Fort Chaffee, Arkansas; Eglin Air Force Base ở Florida và Fort Indiantown Gap ở Pennsylvania.
Camp Pendleton đã đón đông người tị nạn nhất, 50 nghìn người hầu hết là từ Việt Nam và một số ít từ Cam Bốt. Từ trại này nhiều người đã được các nhà thờ, cơ quan thiện nguyện trong vùng Quận Cam bảo trợ ra sinh sống, làm lại cuộc đời và khai sinh ra Little Saigon, thủ phủ của người Việt tại Hoa Kỳ.
Khi trại Camp Pendleton đóng cửa vào cuối tháng 9/1975 và các lều trại được gỡ bỏ, di tích duy nhất còn lại về người tị nạn là tượng đài mang tên “Bàn tay Hy vọng” do Luật sư Lưu Nguyễn Đạt, kiêm họa sĩ điêu khắc gia, nguyên Tổng Thư ký của Hội Hoạ sĩ Trẻ trước 1975 thực hiện thiện nguyện, bất vụ lợi.
Theo lời tác giả: “Tác phẩm này đã được sự hưởng ứng quý báu của Tướng Chỉ huy trưởng Thuỷ quân Lục Chiến Paul Graham là để tưởng niệm cuộc di cư vĩ đại của người Việt tị nạn cộng sản, đợt đầu tới California, sau khi Sài Gòn thất thủ.”
Tháng Tư 2015, Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ Alan Lowenthal (Địa hạt CA-47) đã trao bằng tuyên dương cho Tiến sĩ, Luật sư Lưu Nguyễn Đạt (PhD, LLB/JD, LLM - Michigan State University), tác giả của “Bàn tay Hy vọng” để ghi nhận những thành công và đóng góp của ông cho đất nước Hoa Kỳ trong dịp Kỷ niệm 40 năm Tháng Tư Đen và Hành trình đến Tự do của Cộng đồng Người Việt.
Show more
28/04/2022-- Bùi Văn Phú
Nhân dịp 30/4, Luật sư Lưu Nguyễn Đạt hiện sống ở Fairfax,...Nhân 30 tháng Tư, nhớ ‘Bàn tay Hy vọng’ tại Camp Pendleton
28/04/2022-- Bùi Văn Phú
Nhân dịp 30/4, Luật sư Lưu Nguyễn Đạt hiện sống ở Fairfax, Virginia, đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn qua email về tượng đài “Bàn tay Hy vọng” xây dựng trong trại Camp Pendleton 47 năm trước.
***
Bùi Văn Phú: Xin ông cho biết ông đã rời Việt Nam khi nào vào trong hoàn cảnh như thế nào?
Luật sư Lưu Nguyễn Đạt: Ngày 19 tháng 4 năm 1975, tôi tình cờ gặp ông Keyes Beech tại đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn khi ông vừa tới từ Hồng Kông. Keyes Beech từng làm trưởng phòng của nhật báo Chicago Daily News tại Sài Gòn vào những năm 1969-72, lúc đó nhà tôi là bà Phùng Thị Hạnh, tốt nghiệp khoa báo chí từ Michigan State University năm 1965, làm phóng viên và phụ tá cho Keyes Beech. Ông hỏi ngay “gia đình Ông và Hạnh vẫn còn ở đây sao?” Tôi trả lời, “Chúng tôi chưa có phương tiện gì cả!”. Keyes Beech bèn hẹn gặp chúng tôi ngay ngày hôm sau tại Hotel Continental. Trưa ngày 20 tháng 4 năm 1975, chúng tôi cùng 3 con tới gặp Keyes Beech tại nơi hẹn. Ông đã thu xếp sẵn một xe du lịch và lập tức đưa chúng tôi vào phi trường Tân Sơn Nhứt, nơi tập trung các phi vụ Air America. Chỉ vài tiếng sau, lúc xẩm tối, máy bay cất cánh, tắt đèn để tránh đạn từ dưới bắn lên và một mạch bay tới đảo Guam, đáp xuống phi trường Andersen. Chúng tôi bùi ngùi và bàng hoàng khi biết mình đã rời bỏ Sài Gòn, đã rời bỏ Việt Nam từ ngày tháng đó.
Bùi Văn Phú: Khi nào thì gia đình ông đến trại Camp Pendleton ở miền nam California?
Luật sư Lưu Nguyễn Đạt: Lúc ở Guam, tôi và ông Tony Lâm (sau là nghị viên thành phố Westminster, dân cử gốc Việt đầu tiên tại Mỹ) thay nhau thu xếp việc tiếp cư, chỗ ăn, chỗ ở, cũng như giúp đỡ liên lạc thân nhân thất lạc cho các gia đình mới tới Guam và sau đó điều chỉnh hồ sơ tị nạn cho họ tại các trại Andersen và “Tin City”. Gia đình tôi mãi tới giữa tháng Năm 1975 mới rời khỏi Guam, sau khi thu xếp cho đa số dân chúng có dịp nhập cảnh Hoa Kỳ hay Canada. Và cũng vào ngày tháng đó, gia đình chúng tôi tới trại tiếp cư tị nạn cộng sản tại căn cứ Thủy quân Lục chiến, Marine Camp Pendleton, sát cạnh hai thành phố San Clemente và Oceanside, ở phía bắc San Diego, miền Nam California. Trong giai đoạn tiếp cư nhân đạo hậu chiến tranh Việt Nam, Camp Pendleton là căn cứ quận sự đầu tiên dành tiếp nhận hơn 50 ngàn người tị nạn đa số đến từ Việt Nam, với chương trình “Operation New Arrivals” lớn nhất về mặt lịch sử không vận nhân đạo của Hoa Kỳ.
Bùi Văn Phú: Ông còn nhớ ba-rắc hay lều trại đã sống qua ở đó?
Luật sư Lưu Nguyễn Đạt: Sau khi tới phi trường El Toro vào ban đêm, chúng tôi lên xe buýt và được chở thẳng vào “Thị Trấn Lều” (Tent City) tại trại San Onofre. Trước đó vài tuần, Marine Camp Pendleton được chính quyền Hoa Thịnh Đốn ra chỉ thị khẩn cấp tạo dựng trong địa hạt trại Telega và trại Onofre “Thị Trấn Lều” với tổng cộng 8 barracks, để sẵn sàng đón tiếp người Việt tị nạn.
Khi chúng tôi bước chân vào một căn lều vải, thuộc barrack 5, sát cạnh một nhà thờ nhỏ, màn chiếu quần áo nhà binh vừa phát khi nhập trại không đủ ấm, nhưng cũng tạm cung cấp một cảm giác an toàn, yên ổn. Sáng dậy mới biết lều mình đặt trên bãi cỏ hoa ice plant, gần nơi nuôi rắn cho binh sĩ thủy quân lục chiến Mỹ trải nghiệm tác chiến trong cảnh rừng thiêng nước độc.
Trung tâm quân sự Camp Pendleton nằm trên thung lũng sát bờ biển, chung quanh là triền núi hùng vĩ, xa xa bò rừng (bisons) được thả hoang, rất lạ lùng cho đám di dân bất đắc dĩ chúng tôi.
Do đó, ngay sau khi Sài Gòn thất thủ, và sau thời gian ngắn tạm trú tại Guam và Phi Luật Tân, từ 18 ngàn người rồi đến hơn 50 ngàn người Việt tị nạn lần lượt được đưa vào Camp Pendleton để làm thủ tục nhập cảnh theo “diện Parole”, hay di dân chính trị. Từ từ người tị nạn di chuyển tới các tiểu bang của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ, sau khi được bảo lãnh. Gia đình cuối cùng ra khỏi Camp Pendleton là vào tháng Chín 1975.
Bùi Văn Phú: Đời sống trong Camp Pendleton của gia đình ông cũng như người tị nạn lúc đó ra sao?
Luật sư Lưu Nguyễn Đạt: Nói chung, đời sống trong trại rất chu đáo, an ninh, trật tự, không hề có xáo trộn nào đáng kể trong suốt thời gian chúng tôi ở đó. Các binh sĩ Thuỷ quân Lục chiến Hoa Kỳ và các nhân viên thiện nguyện tới trợ lực trại rất lễ độ, ân cần, sẵn sàng giúp đỡ, chỉ dẫn cho người tị nạn khỏi bị ngỡ ngàng, buồn tủi, nhục nhã thêm.
Về mặt vật chất, đồ ăn thức dùng đều tươm tất, cơm ba bữa, sáng, trưa, chiều tối. Thức ăn đầy đủ, đôi khi thừa mứa, trở nên phí phạm vì có lúc không hợp khẩu, xa lạ. Lần đầu tiên ăn lê xanh (Bartlett Pear) dân chúng mình gọi là “ổi mỹ”. Bánh mì, bơ, sữa, trứng đúc, thịt thà, hoa quả, bánh trái, v.v… dân chúng tự lấy thả cửa, nhiều khi bỏ phí đầy ngập thùng rác. Phòng ăn, phòng tắm sạch sẽ, có binh sĩ đón tiếp nồng hậu, dọn dẹp chu đáo. Khách tị nạn đâu có biết đó là những dịch vụ, những quà tặng bằng mồ hôi nước mắt của công dân Mỹ từng đóng tiền thuế vụ để chu cấp thực phẩm và nhu cầu an sinh xã hội cho những ai cần tới.
Đa số dân tị nạn tới đây với tay trắng, hoang mang tột độ vì rất xa lạ với ngôn ngữ, văn hoá, lẫn môi trường sinh sống nơi nhập cư. Ngày này sang tháng nọ, dân chúng tìm kiếm thành phần bảo trợ nơi hiệp hội, hay chỗ cá nhân, bạn bè thân thuộc đang trú ngụ tại đất liền.
Riêng gia đình chúng tôi cũng rất vất vả vì hoàn cảnh bận bịu con thơ. Nhà tôi mang thai con út; chỉ một tháng sau, con đã sinh nở tại Navy Hospital, Oceanside, trong Camp Pendleton. Chúng tôi đặt tên con út là Lưu Việt, để nhắc con lưu giữ đức độ văn hoá và truyền thống Việt trước kia tốt đẹp. May mà con gái đầu, Lưu Huệ Chân, 9 tuổi đã mạnh dạn chăm sóc mình, tắm rửa giặt giũ lấy, xếp hàng cùng các em ăn uống, lấy phần ăn cho bố bận việc trong trại, cho mẹ nặng nề sắp đẻ. Hai con trai, Lưu Thiên Kỳ 6 tuổi và Lưu Thế Khải 2 tuổi rưỡi vui đùa với lũ bạn cùng lứa, tự túc bảo vệ lẫn nhau. Vì tự lập sớm, nên sau này khi lớn lên các cháu đều tháo vát, thông minh và thành công. Đặc biệt là các cháu khi chọn nghề nghiệp đều có tính cách nhân bản, phục vụ người hoạn nạn.
Ao ước chính của từng gia đình hay cá nhân lúc đó là xuất trại bằng mọi cách hợp pháp, hợp cảnh, nhưng đa số mong muốn trú ngụ ngay tại tiểu bang California, vừa ấm áp, vừa giáp biển Thái Bình Dương, mà bên kia lại gần gũi với Biển Đông, với Quê hương Đất tổ, mà họ đau đớn bỏ lại, một cách oan uổng, bất khả cưỡng, bất đắc dĩ.
Bùi Văn Phú: Đã trải qua đời sống của một người tị nạn, ông thấy những trải nghiệm đó cho mình bài học gì?
Luật sư Lưu Nguyễn Đạt: Sau này dân tị nạn mình khi hội nhập đời sống trọng luật, trọng sinh hoạt của nền dân chủ Hoa Kỳ và tại các nước tự do nhân bản, mới biết xót xa khi phải gánh vác trọng trách công dân, đối với mình và tha nhân. Quyền và trách nhiệm sống còn sẽ từ từ tới với chúng ta. Những ai từng thoát khỏi “địa đàng đỏ” cộng sản cần phải chia sẻ trách nhiệm bảo trọng và khai triển xã hội nhân bản mình vừa nhận hưởng cho thật tốt đẹp.
Tiện đây, cũng xin nhắc diện nhập cảnh của dân tị nạn cộng sản là thuộc thành phần tị nạn chính trị là khác với tị nạn kinh tế vì người tị nạn nhập cảnh Hoa Kỳ với thẻ Parole (nhập cảnh danh dự/có điều kiện). Sau 5 năm sinh sống và trú ngụ hợp pháp, người Việt tị nạn chính trị có thể lập thủ tục thi nhập quốc tịch Mỹ. Về mặt quốc tế công pháp, người Mỹ gốc Việt (không song tịch) không thể bị chế độ cộng sản Hà Nội xập xí xập ngầu gọi là “Việt Kiều”. Danh xưng này chỉ dành riêng cho những ai là công dân Việt làm việc, hay học hành tại hải ngoại, mà vẫn còn quốc tịch Việt hay có thông hành Việt Nam.
Bùi Văn Phú: Là tác giả của tác phẩm điêu khắc “Bàn tay Hy vọng” được dựng trong trại Camp Pendelton, ông có thể nói về việc thực hiện tác phẩm này được bắt đầu ra sao?
Luật sư Lưu Nguyễn Đạt: Chỉ ít lâu tới Camp Pendleton, gia đình chúng tôi quen thân với Trung tá Tuyên úy David Plank, đang phục vụ tại trại Onofre. Ông có dịp giới thiệu tôi là luật sư kiêm hoạ sĩ điêu khắc gia với Tướng Paul Graham, vị chỉ huy trưởng Camp Pendleton. Khi gặp nhau lần đầu, tôi tỏ ý muốn làm một tác phẩm nghệ thuật ghi lại sự hội nhập của người tị nạn Việt Nam trên Đất Hứa Hoa Kỳ. Tôi vội lấy giấy và bút phác hoạ Bàn Tay Trái Nâng Niu Hai Trẻ Việt, một đứa vươn đứng thẳng, một đứa đang bay ra khỏi bàn tay. Tôi giải thích thêm: “Bàn tay trái gần tim nói lên chân tình dìu dắt của chúng tôi và và sự đón nhận của cộng đồng Hoa Kỳ đối các thế hệ trẻ đến tị nạn trên Đất Hứa Hoa Kỳ. Đó cũng là hy vọng hướng thượng của thế hệ trẻ con em chúng tôi muốn thành đạt trên mảnh đất tự do nhân bản này”. Tôi đặt tên tượng đài này là “Hand of Hope - Bàn tay Hy vọng”.
Tác phẩm đã được sự hưởng ứng quý báu của Tướng Chỉ huy trưởng Thuỷ quân Lục Chiến Paul Graham là để tưởng niệm cuộc di cư vĩ đại của người Việt tị nạn cộng sản, đợt đầu tới California, sau khi Sài Gòn thất thủ.
Có lẽ vì một hiện tượng tâm linh siêu việt nào đó, đề nghị của tôi đã được Tướng Paul Graham ưng thuận tức thì, tương đồng ý hợp, không một chút dè dặt ngần ngại gì.
Bùi Văn Phú: Trước khi dựng tượng đài, ông có làm mô hình thu nhỏ không?
Luật sư Lưu Nguyễn Đạt: Như đã nói trên, tất cả là tình cờ và may mắn mầu nhiệm. Đứng trước Tướng Paul Graham và Trung tá Tuyên úy David Plank, tôi lấy giấy và bút phác họa “Bàn tay Hy vọng”. Không ngờ, chỉ với một mảnh nháp đơn sơ đó, một dự án điêu khắc tượng đài lớn trên đất Mỹ, trị giá cả trăm ngàn Mỹ kim lúc đó đã thành hình.
Bùi Văn Phú: Công tác xây dựng tượng đài “Bàn tay Hy vọng” đã được tiến hành ra sao, trong bao lâu?
Luật sư Lưu Nguyễn Đạt: Chỉ vài ngày sau, một Trung tá Công binh Thuỷ quân Lục chiến đã cùng tôi chọn lựa địa điểm xây dựng tượng đài, gần Barrack 8, đầu cổng trại. Sau khi đã chọn địa điểm, ông cho kéo máy tới đào móng sâu 8 feet, vuông 8 feet, làm nền sâu. Tượng đài cao 8 feet phía trên mặt đất, với cổ tay chôn sâu 8 feet đặt trên móng vuông 8 feet, đắp cao từ đưới đất theo hình chóp (pyramidal), tất cả đúc bằng xi-măng-cốt-sắt (rebar reinforced concrete), theo khuôn gỗ (concrete formwork), rồi đục đẽo bằng khoan đục hơi điện để hoàn tất chi tiết.
Có lúc tôi hàn sắt bằng lửa điện và quên đeo kính nên đã bị ánh sáng làm loá gần mù mắt, phải vào nhà thương rửa mắt. Sau đó vài hôm, vẫn còn choáng váng, nên khi dùng máy đục hơi, tôi ngã từ trên cao khung bàn tay còn khuôn thép, sống mũi va vào thanh sắt làm chảy máu cả buổi. Cũng hay, tôi đã để lại mồ hôi và ít máu trong lòng tượng đài “Bàn tay Hy vọng”.
Công trình kéo dài gần hai tháng và được hoàn tất chu đáo với sự trợ giúp bởi hai Trung sĩ Thuỷ quân Lục chiến trẻ, không chuyên nghiệp, nhưng khoẻ mạnh, nhiệt tình.
Khi mọi chi tiết tượng đài “Bàn tay Hy vọng” đã hoàn tất, chúng tôi gọi công binh đem xe đổ đất phủ đầy móng tượng đài và chung quang đắp một bãi cỏ mở rộng đón đợi.
Bùi Văn Phú: Ông có thể nói rõ hơn về ý nghĩa của tượng đài với hai đứa trẻ trong “Bàn tay Hy vọng”
Luật sư Lưu Nguyễn Đạt: Trên “Bàn tay Hy vọng” chỉ thấy sự hiện diện của các trẻ em, vì mục đích chính của người Việt tị nạn cộng sản khi vượt thoát tới “Đất Hứa” (Promised Land) tại Tân Thế Giới, sau biết bao nguy biến, là để bảo toàn cho con cháu, cho thế hệ trẻ Việt cơ hội đứng dậy để khởi phát một cuộc sống chu toàn nhân bản, đầy đủ tự do và phẩm giá con người.
Liên hệ trực tiếp với thời điểm kết thúc tiền đồn trận tuyến ý thức hệ, từng đợt từng đợt người Việt đã “bỏ phiếu chống cộng” bằng chân, bằng thuyền, trong cảnh phiêu lưu tị nạn chưa từng thấy trước đây và cho tới nay, gần 4 triệu người Việt đã bỏ nước thoát cộng, bỏ lại tất cả để thoát hiểm.
Bùi Văn Phú: Sau 47 năm “Bàn tay Hy vọng” vẫn còn đó trong Camp Pendleton, ngày nay nhìn lại biểu tượng này ông có cảm nhận gì, có gì nhắn lại cho thế hệ mai sau?
Luật sư Lưu Nguyễn Đạt: Cách đây 47 năm, đúng vào Ngày Độc Lập Hoa Kỳ 4/7/1975, công trình điêu khắc “Bàn tay Hy vọng – Hand of Hope” đã được tôi hoàn tất và trao tặng cho trại Thuỷ quân Lục chiến Marine Camp Pendleton với sự hiện diện của Tướng Paul Graham, Trung tá Tuyên úy David Plank, gia đình tôi và một số đồng bào tới tham dự lễ khánh thành.
“Bàn tay Hy vọng” ngoài tính cách biểu tượng, còn là mô hình dấn thân hoàn tất sứ mạng làm người Việt tân tiến, tử tế với những thế hệ Việt trẻ thành công và thành nhân.
Điển hình như Lưu Huệ Chân, 9 tuổi lúc tới Camp Pendleton, lớn lên là Managing Consultant tại cơ quan Food and Drug Administration, với văn bằng MA, Business Administration.
Lưu Thiên Kỳ, 6 tuổi khi tới Camp Pendleton, là luật sư thuộc Luật sư đoàn New York, với văn bằng JD và Master Public Health; từng làm các chức vụ Office of Foreign Disaster Federal Director do Tổng thống George W. Bush bổ nhiệm; Senior Director of the Disaster Resilience Leardership Academy tại Đại học Tulane; Chief Operating Officer của International Medical Corps.
Lưu Thế Khải với bằng MS về Disaster Management, chỉ 2 tuổi rưỡi khi tới Camp Pendleton, từng phục vụ Quân đoàn Vệ binh với cấp bực Captain, National Guard Military Police tại Kabul, Afganistan năm 2004; đã giải ngũ và nay là Safety Consultant cho cơ quan NASA.
Lưu Việt, sinh tháng 6/1975 tại Navy Hospital, Oceanside trong Camp Pendleton, nay là Visual Effect Producer cho Universal Studios & Netflix, Hollywood, California.
Theo tôi, cuộc ra đi của người Việt tị nạn cộng sản có rất nhiều ý nghĩa. Trước nhất là tỏ rõ lập trường của những người Việt tự trọng, khao khát tự do và tôn trọng giá trị nhân phẩm, nên không thể sống chung với con người cộng sản phi nhân, phi nghĩa. Thứ hai là nuôi dưỡng “Hy vọng” sắt đá khôi phục danh dự và quyền làm người. Đó cũng là cách tạo dựng lại một không gian an toàn, vượt tiến cho hậu duệ, như biểu tượng “Bàn tay Hy vọng” dựng trên xứ người với những đứa trẻ tụ hợp “đứng thẳng” và sẵn sàng “bay ra khỏi bàn tay” cưu mang. Chỉ bằng đường lối thẳng thắn, vươn cao và khởi tiến, người Việt tị nạn mới chắp nối cho họ, cho con em họ cái thế đứng vững vàng làm người tử tế, mạch lạc để trở thành những công dân tiến bộ xứng đáng với cuộc sống mới mà người tị nạn đã chọn với giá rất cao, đôi khi cần phải hy sinh tột đỉnh.
Sau này, cứ mỗi 5 năm, Cộng đồng Người Việt Tự do đều sum họp chung quanh “Bàn tay Hy vọng” tại Camp Pendleton, rồi kéo tới thành phố Westminster, Quận Cam, Nam California, để tưởng nhớ Quốc nạn Tháng Tư 1975 và Hy vọng duy trì chính nghĩa Dân chủ Tự do, tử tế, nhân hoà cho hậu duệ người Việt tị nạn trên Đất Hứa. Show more 3 years ago