Truyện

Truyện (249)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Dĩa cơm tấm của mẹ - Don Hồ

Dĩa cơm tấm của mẹ

Don Hồ

 

Một ngày cuối Tháng Tư nắng đẹp, hai mẹ con ngồi trong quán cơm tấm gần nhà ở miền Nam California.

Đồ ăn được mang ra, hai dĩa cơm tấm bì chả – tàu hũ ky – trứng ốp la bự xự, thật “hoành tráng” với lỉnh kỉnh những món.

Một dĩa được đặt trước mặt mẹ. Mẹ ngắm nghía dĩa cơm một hồi rồi bảo:

– Nhiều thế này rồi sao mẹ ăn hết được hả con, sao không kêu cho mẹ dĩa nhỏ hơn?

Người con đang múc muỗng nước mắm ớt chan lên cơm, ngước mắt lên nhìn mẹ trả lời:

– Dĩa người ta giá bấy nhiêu, giờ mẹ muốn ít hơn thì người ta bỏ lại bớt nhưng cũng vẫn giá đó. Thôi thì ăn được bao nhiêu thì mẹ cứ ăn, không hết thì mình xin cái hộp, bỏ mang về …

Mẹ cười:

– Ờ nhỉ…

Mẹ ngồi ngược nắng, ánh sáng bên ngoài chiếu xuyên qua cánh cửa kiếng rọi lên làm mái tóc bạc của mẹ trắng phau, người con giật mình nheo mắt.

Ánh sáng chói quá, he hé mở lại mắt ra người con như bỗng thấy thấp thoáng mẹ phía trước trẻ măng trong chiếc áo bà ba vàng tươi lụa nội hoá, tóc đen nhánh cột đuôi gà phía sau.

Cái ánh nắng chói chang trên đường Nguyễn Huệ của Sài Gòn lúc 11 giờ trưa làm mồ hôi rươm rướm ra hai bên mang tai người đàn bà vừa bước qua tuổi 40.

Chen vào cái khoảng trống nhỏ giữa hai người bán hàng, mẹ cố tung lên để trải miếng ny lông nhỏ lên trên mặt vỉa hè.

Hai người bán hàng hai bên la bải hải, cố tình đẩy dàn ngay những cái thùng giấy chứa hàng ra để ngăn lại và đuổi đi.

– Cô ơi, chỗ này không được đâu. Đi đi, đi kiếm chỗ khác đi…

Từ sáng sớm tới giờ bị đuổi biết bao nhiêu bận ở nhiều chỗ rồi, tủi thân – giọt nước tràn ly, mẹ hất phăng miếng ny lông của mình ngồi bẹp luôn xuống lề đường ôm mặt hu hu nức nở khóc:

– Mấy người dã man lắm. Mấy người có con, tôi cũng có con. Con tôi chết đói ở nhà, có một chỗ ngồi bán nhỏ thôi mà các người cũng đuổi tôi đi. Ở đâu có được chỗ thì tôi đã đi rồi, ai cũng xua cũng đuổi, tôi đi đâu được bây giờ? Hu hu…

Hai bà bán hàng hai bên sững người liếc lẹ nhau, thở nhẹ, rồi kéo xịch miếng ny lông lót sàn, xếp gọn bớt đồ của mình lại, nhường cho mẹ một khoảng trống rộng hơn.

Thế là từ ấy mẹ có được một khoảng vỉa hè để buôn bán mưu sinh…

Sài Gòn của năm 1976 vẫn còn hoảng loạn lắm.

Thành phố một năm sau khi đổi tên đổi chủ, chưa có gì là rõ ràng cả. Dân thành phố cố gắng sống qua ngày, của cải trong nhà được bán dần để ăn. Những gia đình có người làm ngành nghề gì trong guồng máy của chế độ Cộng Hòa cũ là coi như mất việc ngồi nhà.

Bố cũng thuộc trong diện mất việc đó.

Cả một năm trời nuôi đàn con năm đứa đang trong tuổi lớn, ăn uống như hạm cũng đủ làm bay đi dần của cải dành dụm từ bấy lâu nay.

Bố mẹ đã thử qua bao nhiều nghề để kiếm tiền qua ngày từ làm giấm bán, qua tới làm giá, chẳng có nghề nào thành công!

Ca sĩ Don Ho – Ảnh: Facebook

Một lần có một bác bạn của bố trước đó có một tiệm pharmacy ở đâu đó, còn thuốc. Bác muốn giúp, đưa ra ý kiến:

– Tôi còn một số thuốc, hay là cô chú mang đi bán cho tôi đi, để kiếm lời nuôi các cháu?

Bố thì không thể tông ra ngoài buôn bán rồi vì thuộc diện “công chức chế độ cũ” sẽ bị để ý, có thể bị bắt bớ.

Thế là mẹ từ một bà nội trợ ở nhà nuôi con, phải tông ra đường một mình trên chiếc xe đạp mini ngược xuôi kiếm mối bán mớ thuốc Tây kiếm lời.

Thời ấy dọc trên đường Nguyễn Huệ có những kiosk nho nhỏ xinh xinh đã bị đóng từ ngày 30 Tháng Tư, 1975, không biết ai bắt đầu mà tự dưng tự phát họp lại thành một ngôi chợ bán thuốc Tây. Ai tới trước dành chỗ, trải được miếng ny lông ra thì khoảng vỉa hè đó sẽ thành “đặc khu” của người đó.

Mẹ ra trễ hơn mọi người nhưng cũng may kể từ ngày hôm đó cũng đã được hai bác hai bên (sau trở thành bạn) nhường cho một khoảng nhỏ xíu.

Khoảng buôn bán của mẹ nhỏ xíu xiu, chỉ đủ để bầy lèo tèo dăm ba hộp thuốc, so với những người kế bên trông tội lắm. Hàng ngày thằng con được ra phụ mẹ. Chỉ việc đứng đàng sau, mẹ sai gì thì làm đấy. Cần gì thì lấy phụ.

Nói cho oai thế thôi chứ đồ hàng thuốc thang của mẹ chứa hết cũng chỉ đúng trong một cái giỏ đi chợ. Phải cho thật gọn gàng để bữa nào xui lỡ công an xuống ruồng thì còn gom lẹ tất cả mọi thứ bỏ vào giỏ mà chạy thoát thân chứ không thôi là mất hết!

 Cơm Tấm Xưa ở Quận Gò Vấp, TP. HCM | Foody.vn

Phía đàng sau khoảng hàng của mẹ là một quầy bán cơm. Những nồi thịt kho, chảo đồ xào trông hấp dẫn lắm, lúc nào lỡ mắt ngó qua là cũng phải nuốt nước miếng ừng ực.

Sài Gòn thời ấy đói ăn mà, ở nhà nồi cơm đã phải nấu độn với hạt bo bo phường khóm bán. Quán cơm ấy bán những dĩa cơm gạo trắng phau, những miếng thịt mỡ bóng nhay nháy, những trái trứng kho mượt mà đến độ chỉ muốn mút tới mút lui, không nỡ cắn.

Khoảng buôn bán của mẹ nhỏ bé, bày ít thuốc nên dĩ nhiên là cũng ít khách mua. Người ta chỉ bu vào kiếm trong những xập hàng lớn hơn, nhiều thuốc hơn. Nhiều khi ngồi cả buổi cũng chẳng ai buồn dừng chân tới đảo mắt qua dùm chứ nói chi tới mua.

Buổi trưa là giờ mà thằng con mong chờ nhất, vì được mẹ cho mua một dĩa cơm.

Ôi dĩa cơm của thời ấy sao mà nó ngon đến thế?

Miếng thịt be bé thôi mà sao nó béo đến thế? Thơm đến thế?

Ngay cả miếng dưa leo, miếng cà rốt ngâm ngó cũng đẹp thật đẹp mắt luôn.

Ăn xong cả dĩa mà chả lúc nào no cả, lúc nào cũng còn thòm thèm. Ấy thế mà lúc nào mẹ hỏi: “Ngon không con, no không con?” là thằng con lúc nào cũng: “Ngon quá mẹ ạ. Con no quá!”

Mà chẳng bao giờ thằng con thấy mẹ kêu cơm ăn cả, lúc nào cũng thấy mẹ mua khoai mì mà ăn. Trong khi khoai mì phường khóm bán cho nhà nhà ăn độn với cơm. Khoai mì là món rẻ nhất thành phố thời ấy…

Thoáng thế mà đã 46 năm rồi đấy. 46 năm vật đổi sao dời…

Mẹ giờ không còn phải ăn khoai mì để nhường dĩa cơm lại cho bầy con nữa rồi, nhưng tóc mẹ lại đã bạc phơ, lưng mẹ bắt đầu còng còng …

Đĩa cơm thật to trước mặt trông thật hấp dẫn, bảo đảm ăn no ứ hự mà vẫn còn dư. Nếu mang ngược trở lại thời bán thuốc Tây dạo thuở nào, dĩa cơm này có thể đủ no cho bốn người ăn.

Hai dĩa cơm của hai mẹ con lúc này mà mang ngược trở lại sẽ cho cả gia đình được một bữa ăn linh đình vì thuở ấy bữa cơm gia đình nhiều khi có được ba trái trứng hột vịt thôi mà gói ghém đủ cho tới những bảy miệng ăn.

Bỗng dưng muỗng nước mắm trên tay thấy nhạt hẳn màu đi, nặng trình trịch, nhỏ tong tong trên dĩa cơm như những giọt nước mắt đang lã chã rơi…

 

Ca sĩ Don Hồ


Thứ bảy 30/4/2022

Diễm Kiều sưu tầm

Dĩa Cơm

Xem thêm...

Một Mẩu Chuyện Xưa- Yên Sơn

Một Mẩu Chuyện Xưa 

 

Yên Sơn

Phi trường Phú Bài ngày xưa

(Viết khi chợt nhớ về người bạn cố tri Trần Gia và hai Tôn Nữ)
 
Sau khi ăn trưa, cà phê cà pháo ngoài chợ Đông Ba, Phi Hành đoàn trở lại phi trường Phú Bài đón hành khách để về Saigon. Buổi trưa Huế bầu trời xanh biêng biếc, mây nhẹ như tơ, lòng thanh thản, sảng khoái vô cùng. Tôi đem trả chiếc xe pick up mượn của trạm hàng không quân sự, miệng huýt gió vang vang bài Không Quân Hành Khúc rồi bật cười tự bảo, “mình chẳng cần vượt biên giới, cũng chẳng quyết chiến đấu nên làm gì có chiến công ngang trời được! Nhưng KQVN lướt trên ngàn mây gió là chuyện đương nhiên rồi.”
Đang thảo luận với nhân viên Trạm Hàng Không thì Gia, Sĩ quan Điều Hành Viên của phi vụ, và là bạn trang lứa cùng đơn vị, tới bên nói nhỏ:
- T. ơi! Mi xin giùm ông Trưởng Phi cơ cho tau gởi hai người nhà về Saigon hỉ?
-  Răng mi không hỏi thẳng anh ấy?
-  Tại mi có thớ hơn tau.
- Thớ cái con khỉ khô. Tôi đáp lời hắn,“nhưng mi gởi ai rứa?”
-  Hai O: một đứa em họ, một đứa cháu gọi bằng Cậu.
-  Răng khi nảy ngoài phố mi trốn ở mô mà không “chơi đẹp” với anh em?
- Tau phải chạy về nhà đón hai đứa nớ.
- Chứ không phải mi cố ý trốn tránh bổn phận?
- Dù có ở đó cũng mô có đủ tiền mà đãi!
- Mới lãnh lương có tuần lễ mà răng hết rồi? Chắc tại mi bài bạc hết rồi chứ chi?
- Mô có, tau vừa lãnh lường là phải chuộc thẻ lương, phải đóng tiền cơm tháng, phải trả tiền nhà!
- Thôi mi ơi, đừng tả oán nữa nghe ốt dột quá!
Tôi xin anh TPC với lời bảo lãnh thì được nhận lời. Thường anh em trong phi đoàn vẫn giúp đỡ nhau, hoặc giúp anh em KQ các đơn vị khác mỗi khi có nhu cầu cấp bách miễn là không ảnh hưởng đến an ninh hoặc vi phạm an phi.
Phi trường Tân Sơn Nhất trước 1975 - Ảnh tư liệu- Báo Tuổi Trẻ
 
Những lời đối đáp trên nghe như đùa nhưng không xa sự thuật là mấy. Sự thật xót xa cho số phận của những trang hào kiệt đương thời. Lương sĩ quan phi hành được coi là cao so với các sĩ quan cùng cấp bậc ở các đơn vị khác; dù vậy, cũng chẳng thấm vào đâu với đời sống đắt đỏ ở Saigon. Nếu không phải là con cái thuộc gia đình khá giả, không được gia đình tiếp tế, không xin được ở trong cư xá SQ độc thân thì khó lòng xoay xở. Nhiều khi tôi tự hỏi, lương bổng của mình là thế thì mấy ông bạn có gia đình, các anh em HSQ, Binh Sĩ thì họ sống làm sao!? Thế nhưng, dù có phải “giật gấu vá vai” cách nào đi nữa, phe ta vẫn phải ra vào tươm tất, áo quần bảnh bao theo cái truyền thống được nghe từ vào đời.
 
Gia trở lại phi cơ với hai O áo dài trắng trơn rất nữ sinh, tóc dài rất Huế gọi nhau bằng dì cháu. Tôi đón chào hai nàng sau khi Gia giới thiệu. Dì khoảng đôi mươi, cháu cỡ đôi tám. Bốn con mắt tròn vo, lúng liếng cười nhẹ, lí nhí gật đầu chào rồi cúi đếm bước chân, riu ríu theo sau tôi trước đoàn hành khách xếp hàng lên tàu. Tôi chọn hai chỗ ngồi gần phòng lái cho hai nàng rồi cùng anh TPC làm thủ tục cất cánh. Đi máy bay cũng như đi xe hơi, ngồi càng gần phía trước càng an toàn và đỡ chóng mặt.
 
Về tới Saigon vào lúc chiều đã nhạt nắng. Phi hành đoàn và hai cô nương được xe pick up đưa về phi đoàn. Chúng tôi ký sổ trực cho phi vụ hoàn tất rồi mạnh ai nấy dông. Gia chỉ có một chiếc Honda nên không thể chở cả hai O cùng một lúc. Hắn lại cười cầu tài với tôi, nhờ tôi giúp đưa một O cùng hắn về nhà ngoài phố. Sẵn dịp về nhà ngoài khu Trương Minh Giảng nên tôi vui vẻ nhận lời. Khi Gia hỏi ai muốn đi với tôi, cả hai O đều nhìn nhau không nói.
 
Tôi nói đùa với Gia rằng “mi muốn tau làm em hay làm cháu mi cũng được” rồi đứng nhìn hai O đang xấu hổ cúi gằm mặt nhìn xuống chân. Ngó hai khuôn mặt thẹn thùng ửng hồng đôi má trắng non trông dễ thương chi lạ! Tôi nhìn O cháu buộc miệng nói “O đi với cậu hỉ?” O nhỏ bẽn lẽn chưa biết nói gì, đưa mắt ngó Cậu Dì. Gia vội đỡ lời, “Ừ, Văn Chương đi với cậu T.”
 
 
Hình minh họa - Internet
 
Ra khỏi cổng Huỳnh Hữu Bạc, buổi chiều xe cộ đầy đường phải chen lấn nhau mà đi. Tôi vừa chạy vừa quay lại nói chuyện với cô nhỏ nghe tiếng được tiếng mất. Chỉ biết chắc một điều, tên cô nhỏ là CHTN Văn Chương, học trò Đồng Khánh. Dì CTTN Hoa đang học ở Văn Khoa Saigon, theo dì chơi vài tuần và sẽ trở lại Huế đi học. Tôi nghĩ thầm “lại là con cháu Hoàng tộc”. Xe cộ tấp nập nên phải chen chúc, lạng lách, nhiều lúc phải đạp thắng gấp. Cô nhỏ nói như than. “Cậu lái xe hai bánh như lái máy bay!” Ban đầu cô nhỏ còn ké né cố giữ cứng vào yên xe, cho đến khi quẹo vào hẻm nhà trọ của tôi thì vòng tay cô nhỏ đã ôm chặt hông tôi từ lúc nào. Thấy xe quẹo vào con hẻm xa lạ, cô nhỏ hoảng hốt buông tay hỏi tôi:
- Cậu chở Chương đi mô rứa?
- Yên chí đi, Cậu ghé ngang phòng trọ thay quần áo để ra phố cho dễ coi hơn. O có thể ngồi chờ cậu ngoài xe.
 
Phòng tôi mướn ở trong một con hẻm nhỏ đối diện với một bãi tha ma, là phần nối dài của một căn nhà lớn của một gia đình người Bắc, ngó ra đường Bùi Thị Xuân. Lúc này trời đã nhá nhem tối làm cho con hẻm dài hun hút dưới ánh đèn điện vàng vọt mờ nhạt. Gió lồng lộng chạy dọc theo con hẻm và rượt đuổi nhau vi vút trên mấy tàng cây bên ngoài bờ tường ngăn cách. Tôi dừng xe trước cửa phòng, bảo nàng ngồi trên xe chờ tôi một lát nhưng cô nhỏ vọt ngay vào nhà khi cánh cửa vừa hé:
- Cậu ở chỗ chi mà dễ sợ rứa!
Cái giọng Huế ngọt lịm kéo dài chữ rứa nghe như một khúc nhạc vui. Tôi mỉm cười:
- Bộ O sợ ma hả, ma không sợ mình mắc chi mình sợ ma?
Có lẽ chữ ma đánh động thêm nỗi sợ hãi sẵn có nên cô nhỏ quýnh quíu ôm chặt tôi, hơi thở dồn dập. Không biết mùi hương tóc hay hương thơm con gái xông ngạt ngào vào mũi cùng hơi ấm của thân thể nhẹ run của nàng cũng làm tôi tê điếng một lúc. Hai tay tôi quờ quạng trong vùng ánh sáng mờ ảo, đập nhè nhẹ lên lưng nàng để trấn an. Trong một giây thảng thốt, tôi đặt môi hôn nhẹ lên suối tóc huyền “Không răng mô, có chi mà sợ, để Cậu mở đèn;” rồi nhẹ nhàng gở tay nàng ra, bật điện phòng. Có lẽ ánh đèn điện sáng tỏ làm cô nhỏ đỡ hồi hộp. Căn phòng trọ vuông vắn, nhỏ đủ cho một chiếc giường ngủ nho nhỏ, tủ lạnh nhỏ và tủ áo quần cũng nhỏ. Phòng tắm chung nằm ngoài hành lang.
 
 
Nàng bẽn lẽn ghé ngồi vào một góc giường, đôi mắt chứa đầy vẻ âu lo nhìn tôi. Tôi lấy lon coca cola mời nàng uống và tỏ ý muốn tắm vội một chút nhưng cô nhỏ không chịu. Cô nói với tôi cần phải về ngay kẻo cậu dì trông chờ. Tôi vội vàng vào phòng tắm dùng khăn ướt lau mình, thay quần áo xong trở lại phòng cầm chìa khóa trên tay:
- Cậu đưa O về hỉ ?
Nàng ngó tôi rất nhanh, cười nói nhỏ nhẹ:
- Trông cậu bi chừ giống như một anh chàng sinh viên.
Tôi âm trầm:
- Thì cậu cũng đã là sinh viên mấy năm trước thôi.
 
Chúng tôi cùng lên xe. Bây giờ thì nàng rất tự nhiên ôm hông tôi như cũ và chỉ dẫn cho tôi hướng về nhà ở Quận 2. Màn đêm đã vội vã buông xuống. Phố xá đã lên đèn rực rỡ, xe cộ không còn tấp nập như khi chiều. Tôi cố chọc nàng:
- Cậu đưa O đi ăn kem dừa trước khi về nhà hỉ?
- Không được mô Cậu, mọi người ở nhà chắc đang trông đợi, để hôm khác Chương hứa đi với Cậu
Khi chúng tôi bước vào cổng đã thấy hai anh em nhà họ Trần đang có vẻ ngóng trông. Hoa hết nhìn tôi lại nhìn Văn Chương.
- Răng mi chạy đi mô mà lâu rứa? Gia hỏi.
- Tau phải ghé ngang phòng trọ thay quần áo nì nì.
- Tau tưởng giao trứng cho ác rồi chớ!
- Kể như may cho mi đó, giao trứng cho ác mà trứng còn nguyên lành.
 
Cả hai cùng cười xòa làm cô nhỏ lính quýnh bước chân. Gia và Hoa nài nỉ tôi ở lại dùng cơm với gia đình, cô nhỏ nhìn tôi với ánh mắt đồng tình nhưng tôi ngại ngần từ chối dù trong lòng cũng muốn ở lại. Tôi bắt tay Gia và lưu luyến từ giã hai nàng sau khi hẹn gặp nhau lần tới…
 
Phố lên đèn thôi về đi kẻo muộn
Sợ chia ly nên chẳng dám quay nhìn
                      (thơ Tường Vi Đức quốc)
 
Yên Sơn
------
Hình minh họa- Internet
KQ- Moderator
 
Hình internet
 
 
 
 
 
Xem thêm...

Một thời khó quên Nguyễn Diệu Anh Trinh

Một thời khó quên

Nguyễn Diệu Anh Trinh

Hình ảnh quen thuộc với những người từng sống ở Sài Gòn thập niên 1980 (Getty Images)

Tôi là người phụ nữ nuôi con một mình ở cái thời mà kinh tế đất nước đang đi xuống một cách kinh hoàng sau 1975. Thời bao cấp, mọi thứ đều theo chế độ tem phiếu, buôn bán tự do dĩ nhiên không được chấp nhận. Mọi mua bán bên ngoài các cửa hàng kinh doanh tổng hợp đều bị coi là trái phép, là “buôn lậu”… Sanh con thiếu tình cha, tôi phải tự lăn lóc với đủ thứ nghề để nuôi con. Vốn liếng chẳng có, cơ hội cũng không, ai bày vẽ chuyện gì tôi làm chuyện ấy. Thành công ít, thất bại nhiều, nợ nần chồng chất, bệnh hoạn triền miên…

Tuy nhiên, chính những năm tháng đầy khổ ải ấy, tôi đã học được thật nhiều đáng quý. Đó là những bài học về nghĩa tình. Đó là những kinh nghiệm sống không có trong sách vở học đường. Đó là những vốn liếng tôi mang theo suốt đời với bao trân quí. Có người bạn thân cứ trách nhẹ: Tại sao phải hồi tưởng đến những ngày khổ đau xa xưa ấy làm gì, cuộc đời ngắn ngủi, hãy vui với những gì mình đang có…

Tôi quan niệm rằng quá khứ dẫu vui hay buồn cũng là những bậc thang đưa ta đến hiện tại. Nghĩ về hay nhắc lại quá khứ là để cám ơn những buồn vui mặn nồng của đời sống từng trải qua. Khổ đau và hạnh phúc như là những cung bậc thăng trầm trong một bản nhạc. Nhớ lại đoạn đường đời gian nan của mình thuở đó, tôi không biết nên bắt đầu từ đâu…

Khi con gái nhỏ mới tròn bốn tháng, tình duyên gãy đôi, tôi ôm con về nhà mẹ nương náu. Thật ra đó không phải là nhà mà chỉ là căn phòng nhỏ, chung vách với người hàng xóm. Nhà cầm quyền chỉ định chủ nhà phải thu dọn, nhường một phòng bên gian trái cho gia đình tôi cư ngụ sau khi căn nhà lớn của ba má tôi bị tịch thu. Chín mẹ con và đứa cháu ngoại, là con gái của tôi, tổng cộng mười người, tá túc trong căn phòng nhỏ, không có nhà vệ sinh riêng…

Trong cái ổ chuột tối tăm ấy, giường ngủ hai mẹ con tôi ở ngay lối đi xuống căn bếp dột nát. Khi ngủ vẫn nghe mùi hôi từ phòng tắm, cầu tiêu, cống rãnh. Sáng mở mắt ra là thấy cái gạc măng rê cũ rách bươm trước mắt vì chỗ ngủ của hai mẹ con ở ngay nhà bếp. Mùa mưa phải dùng nylon che tứ tung. Tôi còn nhớ cảm giác hạt mưa bắn vào mặt những khuya có cơn mưa lớn. Chăn màn ẩm mốc. Khi trở mình, chiếc giường tre kêu kẽo kẹt. Những đêm lạnh, hai mẹ con ôm nhau, đứa con rúc vào lòng…

… Ầu ơ, ví dầu cầu ván long đinh; cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.

Khó đi mẹ dắt con đi, con đi trường học, mẹ đi trường đời…

Sài Gòn, khoảng năm 1990 (ảnh: Didier NOIROT/Gamma-Rapho via Getty Images)

Trường đời của tôi từ khi có con bắt đầu với nghề giặt ủi. Mối lái nhận được từ Cúc, cô em dâu buôn bán áo quần cũ ngoài chợ trời. Việc của tôi là giặt ủi và tân trang mớ áo quần cũ trước khi bày bán. Việc này khiến tôi có cảm giác như mình đang tiếp tay với thành phần bất lương vì hàng tôi nhận đa số là đồ ăn cắp, rất hiếm là đồ mua lại từ những người túng thiếu.

Mỗi sáng, chừng bốn năm giờ, khi con gái còn ngủ say, tôi nhè nhẹ thức dậy, rón rén ém mùng chặn gối, sợ con giật mình. Tôi lẹ làng xách thùng đi hứng nước. Từ nửa khuya đến sáng thì mới có nước máy ri rỉ, ban ngày hầu như chỉ dùng nước giếng, thứ nước giếng vàng khè vì rễ cây và phèn. Hai cánh tay tôi rã rời vì múc nước bằng cái gàu với sợi dây nylon đứt không còn chỗ nối. Cái gàu lủng vá đi vá lại bằng dầu hắc nên khi gàu đầy nước thì trọng lượng nặng gấp đôi. Mà phải kéo thật nhanh; nếu không, khi đến miệng giếng, gàu nước chỉ còn một nửa.

Áo quần nhận về ngâm đêm hôm trước bằng xà phòng nước. Thuở đó xà phòng bột rất hiếm, “nhân dân lao động” được phân phối xà phòng nước, nấu từ cây thầu dầu, khi giặt đồ không ra bọt mà chỉ nhơn nhớt và có mùi nồng sặc. Giặt đồ xong, khi phơi còn phải ngồi canh chừng ăn trộm. Những năm sau 1975, tôi từng thấy người thành phố mặc áo quần may từ bao cát (loại bao cát làm công sự và hầm thời chiến tranh). Do đó, trộm cắp quần áo phơi là chuyện xảy ra thường ngày.

 Điều gì ảnh hưởng đến độ sạch và bền của quần áo khi giặt?

Đến khi ủi đồ mới thật khổ vì điện đóm. Để tiết kiệm nhiên liệu, mỗi tuần người ta cúp điện mấy đêm. Đêm nào có điện thì nhấp nha nhấp nháy. Nhà ai cũng dùng đèn bóng vàng vì rẻ tiền hơn đèn neon. Buổi tối, cắm bàn ủi vào là coi như cả xóm tắt tối thui vì bị “hút điện”. Bà con chưởi bới om sòm vì ăn cơm trong bóng đêm. Tôi phải đợi đến nửa khuya mới soạn bàn ra ủi. Xếp đặt đâu vào đó thì trời cũng vừa sáng để mang hàng đi giao, kịp cho người ta bán buổi chợ sớm. Thù lao ít lắm mà công việc thì quá nặng. Mới sanh con được vài tháng, ngày nào cũng phải xách nước nên gân xanh nổi u nổi cục trên hai tay tôi. Thiếu ăn, thiếu ngủ, tôi xanh mét như một tàu lá héo.

Nghề giặt ủi vất vả thế mà chỉ kiếm được ngày hai bữa cơm vào mùa Hè. Đến mùa Đông thì càng thê thảm vì áo quần phơi không khô, nhà thì chật chội. Tôi vừa trông con dại vừa tập đan len để kiếm thêm. Tôi phải nhờ má tôi giúp mới hoàn thành được một chiếc áo. Không may là ngay lúc ấy lại bùng lên phong trào đan len máy. Nghề đan len chỉ nuôi tôi lây lất qua một mùa Đông…

Chợ trời Sài Gòn 1990 (ảnh: Peter Charlesworth/LightRocket via Getty Images)

Với tôi, Tết không có nghĩa có mùa Xuân. Ước mơ luôn là một bữa cơm no và một bộ áo lành lặn cho bé con mình. Ngày nọ, có đứa bạn thương tình bày tôi bán giải khát “sinh tố giằm”, tức là trái cây chín, dùng muỗng giằm nát, cho thêm vào chút sữa đặc. Người bạn tốt bụng còn cho tôi tạm ứng tiền mua trái cây, đường, sữa, nước đá. Buổi tối bán xong thì gom vốn trả bạn. Thuở đó làm gì có tủ lạnh nên mọi thứ phải cất trong thùng chứa đá, tiền lời kiếm được mỗi ngày không đủ mua nước đá bảo quản trái cây qua đêm. Có khi cả ngày tôi bán chỉ được một nửa trái bơ, chút đu đủ, vài quả chuối… Tôi làm chủ quán được vài tháng, cuối cùng dẹp tiệm vì hết vốn và đổ nợ.

Bạn tôi không vì thế mà bỏ tôi. Bạn giúp tôi một cách tế nhị bằng cách gởi con cho tôi trông giùm rồi biếu tôi chút tiền. Sau đó một cô bạn thân khác cũng mang đứa con trai nhỏ đến gởi. Từ đó tôi làm “dịch vụ giữ trẻ tại gia”. “Nhà trẻ” có ba cháu: con tôi và hai đứa con của hai người bạn. Khi các cháu chơi vui thì không sao, lúc có đứa ho hen sổ mũi thì khổ lắm. Nhất là cậu ấm con cô giáo. Nó yếu ớt và có tật khóc nhè dai dẳng. Đặc biệt cậu chỉ thích ngậm vú thật mới chịu ngủ. Rốt cuộc, sau mấy tháng, các cháu ngày càng suy dinh dưỡng. Hai đứa con trai của bạn tôi bụng to, da vàng. Tôi thì gầy gò xanh mét…

Một lần, lại xảy ra “tai nạn nghề nghiệp”, khi bạn tôi mang con đến, kèm theo một “cà mèn” cháo thịt cóc. Bạn tôi giải thích là ông nội cháu ở quê nhờ người ta bắt cóc làm thịt rất kỹ càng, bỏ túi mật rồi mới nấu. Nghe đâu là món gia truyền có vị thuốc chữa được chứng bụng ỏng, da vàng, giúp xổ các chất độc. Trẻ con 

ăn vào còn có tác dụng diệt sán. Hai bà mẹ trẻ là tôi và nhỏ bạn hí hửng. Hôm đó tôi cố ép con tôi và thằng bé kia ăn càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, đứa con của bạn tôi bị ngộ độc phải đưa đi bệnh viện cấp cứu! Hú hồn là cháu không mệnh hệ gì. Con gái tôi, có lẽ nhờ thể trạng tốt, nên không hề hấn…

Sài Gòn 1995 (ảnh: Peter Charlesworth/LightRocket via Getty Images)

Thời kỳ này nhà nước bắt đầu lỏng tay đối với những người buôn bán tư nhân. Bạn tôi có một quầy sách báo và cho thuê truyện. Cô ấy nhờ tôi giao sách báo kiếm thêm thu nhập. Dần dà bạn chia cho tôi một số mối để tôi đi giao sách báo với nguồn hàng từ các nhà xuất bản quen biết. Thế là tôi “gia nhập” làng báo chí và phát hành sách. Tuy nhiên, tôi chỉ có một “phương tiện giao thông”: Đôi chân của mình.

Do đó, tôi không tranh đua nổi vì lúc nào cũng chậm hơn người khác. Nghe tôi than thở và muốn mua một chiếc xe đạp, người bạn của em trai tôi cho biết sẽ bán rẻ chiếc xe cũ của cậu ta. Tôi hối hả đi mượn tiền. Hôm sau, cậu ấy đến, không phải với một chiếc xe đạp như tôi tưởng mà là một cái thúng, chứa ngổn ngang đồ phụ tùng xe đạp cũ gồm dây sên, bàn đạp, ổ bi… Trên vai hắn vác cái sườn xe trầy trụa, không biết sơn màu gì; tay còn lại cầm hai cái bánh xe, ruột gan lòi ra ngoài, căm xe thì cái còn cái gãy.

Nhìn khuôn mặt thất vọng của tôi, cậu ta cười: Không sao đâu chị, từ từ ráp lại, xe còn ngon lắm! Tôi ngậm ngùi trả tiền và nhờ anh mình ráp xe. Thiếu thứ gì thì mua thêm thứ nấy. Rốt cuộc tôi cũng “tậu” được chiếc xe làm phương tiện. Đó là chiếc “xe đạp” đúng nghĩa vì chỉ có thể leo lên đạp. Nó không có yên sau, thậm chí không có “phanh” (thắng xe). Mỗi sáng tôi đi giao sách báo và mỗi chiều đi thu tiền. Chiếc xe đạp lọc cọc cứ xẹp bánh dọc đường, ruột xe chằng chịt, không còn chỗ vá. Đạp được một quãng là phải nhảy xuống móc sên lại. Trong túi tôi lúc nào cũng có một cục đá để đóng vào cái líp xe khi cần…

Ngày nọ tiếp nối ngày kia, vốn này chồng lên vốn khác. Kết quả là… không còn đồng vốn nào. Nợ mang đầy đầu vì tiền lời mỗi ngày không đủ tiêu, thâm vào vốn, mà là vốn vay mượn. Suốt đời, tôi không bao giờ quên một chiều cuối năm, khi hạn chót cần phải trả các món nợ, mà tôi không thể kiếm đâu ra. Tôi đạp chiếc xe cọc cạch lang thang vô định, chiều tối vẫn không dám về nhà, cũng không biết đi đâu. Tôi muốn chết cho xong.

Với chiếc xe lọc cọc, lần nào đi chào hàng tôi cũng thua người ta. Tôi tiết kiệm từng đồng; thậm chí không dám uống nước và ngày nào cũng nhịn ăn. Chỉ nuôi một đứa con nhỏ mà tôi không lo được. Thế thì sống làm gì… Sau những ngày bôn ba, tôi còn bị suy thận. Hai ba lần nhập viện, tôi trối trăn nhờ đứa em gái nuôi giùm đứa con dại của mình… Tuy nhiên, khi tôi hoàn toàn bế tắc, ông anh trai biết chuyện thương tình cho một chỉ vàng để thanh toán hết số nợ sách báo cho đứa bạn thân. Tôi còn nhớ, lúc tôi đến gặp nó để trả nợ, nó tròn mắt ngạc nhiên: Ngày cuối năm chật vật, làm sao tôi kiếm được tiền trả nợ vậy? Tôi không thể giải thích gì hơn ngoài những lời vụng về cám ơn lòng tốt của bạn trong nước mắt. Hai đứa tôi cùng khóc…

***

Bây giờ, nghĩ lại, sau bao nhiêu gian truân, tất cả những gì còn lại từ cuộc đời, đối với tôi, là sự thấm thía của tình nghĩa trên suốt những chặng đường gập gềnh. Cho đến bây giờ, tôi không bao giờ có thể quên những người thân cũng như bạn bè một thời gắn bó và giang tay giúp đỡ khi tôi vò võ nuôi con và một thân một mình bôn ba giữa chợ đời mênh mông. Lòng tôi mãi khắc ghi những thời khắc ấy với những con người ấy…

Atlanta, 4|2022

 

Nguyễn Diệu Anh Trinh

 

Hồng Anh sưu tầm

 

Xem thêm...

MẢNH ĐỜI DI DÂN - Điệp Mỹ Linh

MẢNH ĐỜI DI DÂN

Truyện ngắn của Điệp Mỹ Linh

 

Thấy gương mặt tiu nghỉu của Hector, Donald – chủ của Hector – tưởng Hector ngại sẽ bị mất việc, vội an ủi:

- Chú em đừng có lo. Tôi sẽ trồng thứ khác và chú em sẽ có việc làm hoài hoài.

Biết Donald hiểu lầm, Hector chỉ cười, không đính chính. Hector buồn không phải vì Hector lo ngại bị mất việc; cũng không phải vì bà Irma – vợ của Donald – vừa qua đời mà chỉ vì Donald quyết định bán tất cả lan trong trại này với một giá thấp đến không ngờ. Donal không thể hiểu được tình cảm của Hector đã gắn bó với những giò lan trong mấy căn nhà ươm cây này như thế nào.

Mỗi khi thay chậu hoặc chia những chậu lớn thành nhiều chậu nhỏ, Hector cũng cẩn thận giống như một bác sĩ giải phẫu. Hector mang bao tay, ngâm kéo, dao trong Alcohol, trước và sau khi dùng. Khi chọn được những nhánh khỏe mạnh, tươi tốt, Hector vừa cắt, tỉa vừa thầm thì với nhánh lan, bằng Anh ngữ (vì lan được cấy, nuôi tại Mỹ): “Tôi đem bạn đến ngôi nhà mới của bạn, hãy gắng mà sống, tôi mong được thấy bạn trổ hoa vào mùa tới. Hoa của bạn thì tôi biết rồi, màu vàng vương giả, giữa đài hoa màu vàng nghệ, có những đường tua tua nho nhỏ và điều đặc biệt là bạn đơm từng chùm từ 10-12 đóa hoa chứ không phải một hoặc hai”. Nói xong, Hector cảm thấy vui vui trong lòng như chính chàng thấy được sự cảm nhận của nhánh lan. Xoay sang những nhánh già yếu, Hector vừa lượm bỏ vào bao rác vừa thầm thì: “Thôi, các bạn cũng như số kiếp con người của chúng tôi, khi già và bệnh tật, chúng tôi cũng bị cho vào một chỗ riêng, để rồi từ đó con người ‘đi’ dần vào cõi chết!”

Mỗi lần tưới lan, Hector thường để ý, thăm chừng những giò lan vừa được thay chậu. Khi nào thấy cuối mỗi rễ lan có một tý xanh xanh, nhòn nhọn, lớn hơn đầu bút chì một tý là Hector cười toe, tung vòi nước lên cao để nghe nước rơi lộp độp trên chiếc nón lưỡi trai và thấy những vệt nước sậm màu lốm đốm trên chiếc T-shirt trắng dán sát vào vùng ngực nở nang, lực lưỡng của chàng. Lần nào cũng vậy, Hector nói lớn: “Tôi biết mà, tôi biết mà, thế nào bạn cũng sống, sống mạnh. Tôi thương bạn quá.” Khi thấy một mầm lan vừa lu lú dưới gốc, như còn thăm dò ngoại cảnh, Hector cười lớn, nói: “Mọc nhanh đi, đừng sợ, mỗi tháng tôi sẽ xịt thuốc diệt sâu một lần để không có loài côn trùng nào hại bạn được cả.”

Thuốc diệt sâu chỉ có thể giết loại côn trùng nhỏ. Còn hai loại côn trùng chuyên ăn mầm non và rễ non của lan là mấy chú sên và mấy chú ốc nhỏ hơn hạc bắp. Hector phải dùng snail baith diệt sên và dùng DeadLine để trị ốc.

Cả mấy nhà lan nối tiếp nhau, không thể nào Hector biết được chàng có bao nhiêu giò lan; nhưng nếu giò lan nào đơm nụ, Hector lại biết ngay. Hector thường theo dõi, khi nụ hoa vừa chớm, chàng lấy cây tre nhỏ xíu, hoặc thỏi kim loại nhỏ cỡ một phần năm của chiếc đũa và một cái kẹp nhỏ bằng nhựa, hoặc một đoạn giây ngắn, kẹp cành hoa vào cây tre hoặc thỏi kim thoại theo một vị thế thuận tiện để giúp nụ hoa tăng trưởng một cách dễ dàng và khỏe mạnh; nếu không, nụ hoa sẽ bị lá che khuất ánh sáng, khiến nụ hoa èo uột, tăng trưởng không được, đôi khi nụ hoa phải chết. Khi thực hiện những động tác này, Hector nghĩ, những nụ hoa cũng như trẻ con, mình nên cẩn thận uốn nắn từ lúc còn thơ.

Nhờ nuôi lan đúng tiêu chuẩn và chăm sóc với lòng thương yêu, lan của Hector trổ những chùm hoa rực rỡ, tươi đẹp nhất thành phố. Hector để ý, dường như sau mỗi lần trổ hoa, cây lan trông yếu hẳn, như người Mẹ vừa sinh con. Phải mấy tuần sau cây lan mới xanh tươi trở lại, để đâm chồi, sẵn sàng đơm hoa cho kỳ tới.

Lúc bưng từng giò lan đặt vào xe Van để Jannifer đem ra tiệm bán, Hector cảm thấy buồn buồn, vì nghĩ rằng sẽ không bao giờ chàng thấy lại những giò lan mà chàng đã chăm sóc từ khi vừa chiết ra từ Flash hoặc Community pots. Nhưng rồi Hector nghĩ, lan cũng như đàn con, đến một lúc nào đó, chúng nó cũng phải ra đời, vượt thoát vòng tay bảo bọc của Cha Mẹ. Ý nghĩ này giúp Hector vui trở lại để tiếp tục công việc mà chàng rất ưa thích.

Tình cảm của Hector đối với mấy trại lan này là như vậy, cho nên, khi nghe Donald quyết định “bán đổ bán tháo” mấy trại lan, Hector buồn quá đỗi; buồn hơn buổi tối chàng và Maria – chị của Hector – từ giã người Mẹ nghèo khổ ở Monterrey, tiểu bang Nuevo Leon, Mễ-Tây-Cơ, để đến Laredo tìm đường vượt biên giới sang Hoa-Kỳ.

A smuggling tunnel that carried dozens of people across the border from Mexico

into the United States was discovered Aug. 26, 2017 in San Diego, Calif.

(U.S. Customs and Border Protection via AP)- Hình minh họa

Nhớ lại chuyến vượt biên giới Hector càng nhớ Mẹ và thương Mẹ. Năm nào đó, lúc Hector còn bé lắm, Mẹ dành giụm chỉ đủ tiền cho Juan, người anh cả của Hector, vượt biên bằng đường hầm. Cơn mưa giông đến bất ngờ, nước lùa vào đường hầm, Juan và những người vượt biên chuyến đó đều chết. Mẹ đau khổ như một người điên. Thấy Mẹ đau khổ bao nhiêu anh chị em của Hector càng oán giận người Cha sa đọa bấy nhiêu!

Mấy năm sau, Mẹ chắt chiu được khá tiền hơn nên Mẹ lo cho Maria và Hector vượt biên bằng đường bộ. Tối hôm đó không trăng. Hector, Maria và Remundo, cậu của Hector, cùng nhiều người khác rời Lareno, đi theo người dẫn đường (Coyote), vượt qua sông Rio Bravo. May quá, mọi người qua được biên giới một cách yên lành. Nơi đây mọi người gặp một người dẫn đường khác; người kia ở lại bên kia biên giới để lo cho những chuyến sau. Lúc này Hector mới biết tụi Coyotes có đường giây hoạt động rất tinh vi và chu đáo. Người dẫn đường này đưa cả nhóm người về San Antonio, tá túc trong nhà xe của một người trong tổ chức; rồi từ đó mọi người sẽ tìm cách liên lạc với thân nhân hoặc người quen tại Mỹ.

Hector và Maria không quen biết ai, đành tìm đến nhà những người Mễ xin giúp đỡ. Riêng cậu Remundo, vì vợ và con sang trước, hiện ở Dallas, cho nên cậu được đưa về Dallas. Không ngờ, trên đường đi, khi đến trạm kiểm soát, Remundo bị...chó đánh hơi, vậy là Remundo bị bắt!

Ðang nghĩ ngợi miên man, Hector chợt choàng tỉnh vì tiếng bánh xe lăn trên con đường sỏi. Hector lầm bầm, không biết ông Donald đến hay là mấy người Việt-Nam đến mua lan.

Vừa dợm bước ra khỏi nhà lan Hector chợt nhận ra một chú rắn nhỏ chạy thật nhanh từ cửa vào. Hector chụp vội cái xẻng nhỏ, vừa rược theo chú rắn vừa lầm bầm, đồ xâm lăng, đồ xâm lược. Giang sơn của chúng mày ở ngoài kia, chưa đủ sao. Bên trong này do công khó của thầy trò tao tạo dựng nên, bây giờ mày “nhảy” vô đây chiếm đoạt hả? Không ai ưa được quân xâm lăng, mày biết không? Lầm bầm đến đây Hector chợt cười vang. Thì ra Hector đến đây cũng là một hình thức xâm lăng - không khí giới - dù phần đất này xưa kia thuộc lãnh thổ của Mễ-Tây-Cơ.

Giết xong chú rắn, Hector dở nón lưỡi trai, vuốt những dòng mồ hôi trên trán, nghĩ tiếp. Người Mỹ không muốn có nhiều con; người Mễ sinh sôi nẩy nở nhanh và nhiều như nấm, lại được chính phủ Hoa-Kỳ giúp đỡ nuôi con, biết đâu, một ngày nào đó người Mễ sẽ “chiếm” lại lãnh thổ này mà không cần đến vũ khí. Hector đang cười vì ý nghĩ ngộ nghĩnh – nhưng có thể sẽ xảy ra trong tương lai – thì nghe tiếng Donald tằng hắn. Hectro cầm chiếc xẻng có con rắn chết, đi ra. Donald bảo:

- Kỳ tới đặt mua các thứ thuốc giết sâu bọ, chú mày nhớ ghi thêm thuốc trị rắn. Chú mày chỉ cần rải thuốc ngang cửa là rắn không thể vào, vì chung quanh các nhà lan đều che kín cả.

Donald chỉ hỏi Hector qua loa về mấy nhân công mới xem họ làm việc như thế nào rồi ông đi.

Hector gọi Cindy – cô công nhân mới – bảo cô ấy tưới nhà lan số 5. Cindy hỏi:

- Còn mấy nhà kia?

- Thằng Andy và con nhỏ Margie lo.

Cindy quay lưng, Hector gọi giật lại “Cindy”. Cindy quay lui. Hector tiếp:

- Cô nhớ tưới đúng như tôi đã chỉ cho cô. Vòng đầu tiên, tưới nước trước; vòng thứ nhì mới hòa phân vào nước mà tưới. Nhớ tưới chầm chậm, tưới đều tay, cả vòng đầu lẫn vòng thứ nhì. Ði làm đi kẻo trễ. Cô phải nhớ, không được tưới lan sau 12 giờ trưa, nếu là mùa Đông; không được tưới sau 4 giờ chiều, nếu là mùa Hạ

Cindy nheo mắt cười, khoe chiếc răng bịt vàng hình trái tim. “Yes, boss.” Mỗi khi nghe nhân công gọi chàng bằng “sếp”, Hector cười, nhưng lòng lại buồn buồn vì chợt nhớ những ngày mới đến Mỹ.

Hình minh họa-From Words Nervertheless    

Những ngày đầu tiên đó, Hector theo các bạn cùng chủng tộc, ngồi tụm năm, tụm ba tán gẩu trước Home Depot hay một tiệm tạp hóa, hoặc ngã tư đông xe cộ, trong khi chờ người ta đến “tuyển lựa”, đem về nhà làm việc lao động. Khi thấy một chiếc xe trờ tới, giảm tốc độ, Hector cùng các bạn ngưng ngang câu chuyện, ùa nhau đến vây quanh chiếc xe. Ðứa nào cũng cố dán mặt vào cửa kính để người trong xe dễ nhìn thấy; vì chủ xe không bao giờ giám hạ kính xuống trước một đám đông thanh niên sống không hợp pháp như Hector. Khi chủ xe đưa tay chỉ mặt một đứa nào rồi thì cả đám mới từ từ rời xe, và chủ xe hạ kính xuống, mà cả tiền nong với đứa đó. Thường thường Hector và các bạn chỉ đòi hơn lương tối thiểu tý đỉnh thôi, miễn làm được nhiều giờ. Nhiều ông bà dễ giải, “bốc đại” thằng đó; nhiều ông bà khó tính, chọn thằng khác rẻ hơn.

Chủ đầu tiên của Hector trên phần đất giàu có này là vợ chồng người Việt-Nam. Bà vợ tên Mai. Họ thuê Hector làm sân vườn. Hector vui lắm, vì Hector rất thích cây cỏ. Trong lúc nhổ cỏ dại, Hector thấy hai thanh niên cao lớn đi ra. Trưa, lúc Mai trao phần ăn trưa cho chàng, Hector hỏi về hai thanh niên đó. Mai cho biết hai người đó là con của nàng. Chiều, trong khi Mai vào nhà lấy tiền trả cho Hector, Hector rửa tay, rửa mặt nơi ống nước bên hông nhà.

Lúc đó bà hàng xóm của Mai, người cùng chủng tộc với Hector, tên Irma, sang nói chuyện với Hector. Hector tò mò, hỏi Irma, gia đình Mai có hai người con trai khỏe mạnh tại sao không bảo hai người đó giúp mà lại thuê người làm chi cho tốn tiền. Bà Irma bảo rằng đôi khi nói chuyện với mấy người con của Mai, bà Irma cũng hỏi họ một câu tương tự như vậy. Và họ trả lời: “Chúng ta, nếu có điều kiện và hoàn cảnh cho phép, hãy chia sớt công việc cũng như sự thành công của mình cho những người kém may mắn hơn mình. Bà thử nghĩ, năm 1975, gia đình tôi đến Mỹ, nếu tất cả người Mỹ cũng dành làm tất cả mọi công việc của họ thì công việc đâu cho Cha Mẹ của chúng tôi làm để nuôi chúng tôi?” Hector cười, khen gia đình Mai là người tốt. Bà Irma gật gù, đồng ý.

Mai trả tiền, khen và cảm ơn Hector rối rít. Bà Irma gật gật đầu ra vẻ đồng ý với Mai. Và bà Irma thuê Hector ngay chiều hôm đó, vì bà để ý, thấy Hector khỏe mạnh, làm việc siêng năng

Ðó là lần đầu tiên Hector có sự liên hệ với người Việt-Nam – mà chàng thật tình không biết được nước Việt-Nam nằm ở đâu trên quả địa cầu này! Hôm đó Hector nghĩ có lẽ sự liên hệ giữa chàng với người Việt sẽ chấm dứt vào buổi chiều sau khi chàng nhận tiền công; không ngờ, sau này Maria lại yêu và lấy Ðại, một thanh niên Việt-Nam, làm chồng.

Khi được Maria giới thiệu với Ðại, Hector không mấy thích Ðại; vì thấy Ðại có vẻ đỏm dáng. Về đến chung cư, Hector khuyên Maria nên tìm một người thật thà, chí thú làm ăn mà kết hôn. Maria biện luận nào là Ðại cũng chí thú làm ăn, học hành; Ðại vượt biển đến đây cho nên Ðại cũng là một di dân như Hector và nàng thì tâm trạng cũng giống nhau, dễ cảm thông. Ðại cũng như chị em nàng, chắt mót từng đồng gửi về quê cũ giúp gia đình. Maria còn kể rằng, lúc đầu nàng cũng không để ý đến Ðại, vì vấn đề ngôn ngữ. Anh ngữ của Ðại không khá mà Anh ngữ của Maria cũng chỉ đủ để làm trong bếp cho nhà hàng Taco Bell thôi; cho nên khi gặp nhau rất khó diễn đạt tình cảm. Nhưng Ðại rất kiên nhẫn theo đuổi Maria. Khi Maria xiu lòng, chịu đi chơi với Ðại thì ngay ngày hôm sau, Ðại đến đón nàng tại Taco Bell, chỉ cho nàng xem bảng số mới của chiếc xe Ðại làm chủ: 2 of US. Maria không biết rằng Ðại bắt chước ý của bản nhạc Just The Two of Us của Bill Withers cho nên Maria xúc động nhiều. Ðại còn bảo rằng, nếu hai người thành vợ chồng, chàng muốn có thật nhiều con; vì các con sẽ xinh đẹp giống Maria và có nhiều con Maria sẽ không thể bỏ Ðại để theo thằng khác.

Hector than thầm. Ðại chinh phục một cách kiên nhẫn và tinh vi như vậy thì làm thế nào người chị quê mùa, hiền thục và kém học thức của chàng có thể “thoát” được! 

Khi Maria sinh đứa con đầu lòng, Ðại đặt tên là Loan. Maria và Hector thực tập hoài mà cũng không nói được, đành đặt lại là Cynthia. Hector bồng bế, vui đùa, chả chớt và hát ru Cynthia bằng những lời ca mộc mạc đồng quê (Nortena) mà Hector đã bắt chước Ramon Ayala – một thiên tài dân ca và cũng là một “tay” Accordéon không đối thủ của Mễ-Tây-Cơ – từ khi Hector còn bé. Hector tự hứa rằng, đến năm Cynthia mười lăm tuổi, Hector sẽ may cho Cynthia chiếc áo đầm màu hồng tuyệt đẹp và chàng sẽ tổ chức một lễ Quincenera thật linh đình và thế nào cũng mời Mẹ sang tham dự.

Nghĩ đến Mẹ Hector lại thấy buồn và nhớ Mẹ, nhớ nhà, nhớ anh chị em và những đứa cháu nghèo khổ. Hector cũng nhớ cả ngọn núi Cerro de la Silla hùng vĩ. Hector nhớ, ngày còn sống với Mẹ, thỉnh thoảng nhìn ngọn núi có hình dáng tựa như yên ngựa, Hector than thầm, ôi, Cerro de la Silla hùng vĩ! Ôi, Monterrey yêu kiều, hoa lệ, tràn ngập ánh sáng, nhưng sao Mẹ và anh chị em của chàng cứ mãi hoài sống đời lầm lủi, tối tăm!

 

Hình minh họa- Internet

Từ ngày sang Mỹ, cuộc đời của Hector dường như bớt tối tăm; nhưng cuộc đời của Maria như thế nào Hector không rõ lắm. Hector chỉ nhận thấy Maria sinh năm một cho nên thân người của nàng không còn những đường nét quyến rũ như trước. Maria và Ðại thường đôi co. Nhiều khi hai người giận quá, Maria chửi bằng tiếng Tây-Ban-Nha và Ðại chửi bằng tiếng Việt. Và Ðại thường vắng nhà. Càng ngày Hector càng thấy những dấu hiệu buồn khổ trên gương mặt phúc hậu của Maria càng đậm nét. Hector tự hỏi, phải chăng Maria đang bước dần vào những vết chân buồn thảm của người Mẹ mà chàng đã bỏ lại bên kia biên giới?

Lúc Cynthia hơn hai tuổi mà vẫn chưa biết nói, cả Maria, Ðại và Hector đều lo. Donald và Irma buộc Maria phải đem Cynthia đi bác sĩ.

Trong khi khám bệnh, bác sĩ hỏi Maria, ở nhà dùng sinh ngữ nào để nói chuyện với Cynthia? Maria đáp, nàng và Hector nói tiếng Spanish, Ðại nói tiếng Việt, nghe nhạc và nghe radido Việt-Nam. Khi cả ba người ăn cơm chung thì cả ba đều nói tiếng Anh. Bác sĩ bảo nên chọn chỉ một ngôn ngữ để nói khi có sự hiện diện của Cynthia và bác sĩ khuyên nên chọn Anh ngữ. Ðại gật đầu, tán đồng. Nhưng khi về đến nhà Ðại không cho Cynthia học nói bất cứ sinh ngữ nào cả; chàng chỉ dùng tiếng Việt để dạy Cynthia cũng như dạy em của Cynthia.

Hector không thể phản đối, vì Cynthia không phải là con của chàng. Maria không thể thuyết phục Ðại, vì Maria là một người đàn bà hiền và Ðại lại là một người đàn ông thiếu lương thiện. Sự thiếu lương thiện của Ðại được Maria giữ kín, không dám cho Hector biết.

Riêng Hector, Hector không ghét Ðại nhưng Hector cũng không thích Ðại; vì Hector linh cảm như có điều gì không ổn giữa Ðại và Maria. Hector chỉ cảm thấy vui vui khi Ðại dạy chàng những “danh từ của đàn ông” bằng tiếng Việt. Thời gian này, nhờ đã theo học các lớp Anh-văn miễn phí tại nhà thờ, Hector nhận xét số vốn Anh ngữ của Ðại cũng chẳng hơn gì chàng. Rồi Hector nhíu mày, suy nghĩ, Anh-văn của Ðại như vậy mà làm thế nào Ðại theo học đại học và tốt nghiệp kỹ sư? Thắc mắc này Hector giấu kín, không nỡ hỏi Ðại mà cũng không dám thố lộ với Maria. Vả lại, thấy đàn cháu đứa nào cũng mủm mỉm, kháu khỉnh, dễ thương, lại có thể nghe và hiểu ba thứ tiếng, Hector nghĩ rằng, dù Ðại là kỹ sư hay là một công nhân thì cũng chẳng có gì quan trọng. Ðiều quan trọng là Ðại có xứng đáng là một người cha của đàn cháu của Hector hay không.

Như bằng lòng với ý nghĩ của chính mình, Hector mỉm cười một mình, bước ra chỗ mấy người đang dời lan từ nhà số 6 sang nhà sối 8, gọi Ed ra mở cổng, vì đúng giờ mở cửa trại lan.

Từ ngày trại lan mở cổng bán sale, Hector không thể nhớ được bao nhiêu người Việt-Nam đặt chân đến trại lan này. Thành phần mua nhiều lan của trại này là những nhân vật ồn ào, đi xe đắt tiền. Thỉnh thoảng Hector cũng thấy vài người Việt lớn tuổi, trông điềm đạm, chửng chạc, dáng vẻ trí thức. Nhiều khi những người khách lịch sự này đến hỏi Hector về phương pháp trồng lan. Hector vui vẻ trả lời theo sự hiểu biết và kinh nghiện của chàng khi nuôi những loại lan mà chàng bán, chứ chàng không đủ thời gian và kiên nhẫn để giải đáp cho tất cả các loại lan khác.

 

Hình minnh họa - Internet

Sau khi chỉ dẫn, Hector kết luận, những điều mà chàng thưa với khách hàng là do sách vở cũng có, do kinh nghiệm cũng nhiều, nhưng tất cả không phải là tiêu chuẩn. Hector quan niệm rằng, mỗi trại lan cũng như một gia đình. Không một gia đình nào, dù anh chị em ruột, có thể sinh hoạt, nuôi dạy và thương yêu con cái giống như một gia đình khác.

Mọi người vỗ tay và cảm ơn Hector. Nhân lúc mọi người vui vẻ, Hector hỏi dò:

- Ngày Một tháng Năm này quý ông bà có tham dự cuộc biểu tình phô trương “lực lượng” những người di dân không?

Ông đeo kính cận, cười, lắc đầu, đáp : “Không.” Hector ngạc nhiên:

- Tại sao? Ông không phải là di dân sao? Ông sinh tại Mỹ à?

Người ấy lại cười và lắc đầu. Hector tiếp:

- Vậy tại sao ông không đi? Tôi xin mời quý ông bà tham dự với chúng tôi.

Một người khác, cũng dáng vẻ chững chạc, đáp:

- Chúng tôi không đi vì chúng tôi là những di dân hợp pháp.

Hector hơi buồn lòng:

- Hợp pháp hay không hợp pháp thì cũng là di dân. Chúng ta hãy bênh vực quyền lợi cho di dân. Ô, mà trong số quý vị có vị nào xem phim A Day Without A Mexican chưa? Ðó là một phim mà di dân, hợp pháp hay bất hợp pháp, cũng nên xem để thấy sức mạnh của “lực lượng” di dân. Và rồi quý ông bà sẽ thấy, trong cuộc trong cuộc biểu tình vĩ đại này sẽ có vạn vạn di dân hợp pháp.

Ông mang kính cận vỗ vai Hector, bảo:

- Tôi lấy một tỷ dụ như thế này thì bạn hiểu lý do tại sao chúng tôi không tham dự biểu tình, nhé.

Hector cười, “Ok”. Biết Hector không có trình độ văn hóa cao, người ấy lấy một thí dụ dễ hiểu nhất để giải thích:

- Giả dụ như chúng tôi chạy trốn cộng-sản, gặp bạn, bạn đem gia đình chúng tôi về nhà cho tá túc. Sau đó bạn giúp chúng tôi tìm việc làm, cho con của chúng tôi đi học. Rồi đến một lúc nào đó, giữa bạn và chúng tôi có những bất đồng, không lẽ chúng tôi giăng bản ngoài đường để phản đối bạn?

Nghe người này nói phải, Hector tiu nghỉu:

- Cảm ơn ông đã cho tôi ý niệm đó. Còn người em rể của tôi, một người Việt-Nam, khi nghe tôi rủ tham dự ngày biểu tình, nó đáp: “Tụi bay là tụi ‘xì’, qua Mỹ kiếm cơm; còn tao vượt biển tìm tự do. Tao đi tỵ nạn chính trị. Tao có lý tưởng, có chính nghĩa chứ không vì miếng cơm manh áo như tụi bay.”

Cả nhóm người cùng “ồ” lên, tỏ vẻ không hài lòng về câu nói của Ðại mà Hector vừa lập lại. Hector cũng buồn trong lòng nên lấy chiếc nón lưỡi trai đội lên, bước ra xem “tình hình” các nhà lan khác.

Hector đi vòng vòng, nhớ lại, cách nay chỉ vài tháng, từ cửa nhà lan số 1 nhìn vào, Hector thấy Phalaenopsis nở rộ nhiều màu và hương thơm thoang thoảng trong không gian yên lặng. Hector thương nhất là mấy giò Hybrid Doritaenopsis Fire Craker màu tim tím, hình cánh sao, đường kính khoảng 2-3 inches, năm hoặc sáu cạnh, lip hơi đậm hơn một tý, có nhiều vân trăng trắng, giữa đài hoa có nhụy trắng; hoa của loại lan này mọc san sát nhau thành một chuỗi dài và rất lâu tàn. Nơi góc phải của nhà lan số 2, giò Dendrobium Teretifolium hiếm quý, lá dài và thon như trái đậu đũa. Loại lan này nở từng chùm, hoa trắng, nhiều cạnh; mỗi cạnh nhỏ và dài khoảng 2-3 inches, mùi thơm thoang thoảng, ngọt ngào. Và “thằng” Cattleya mà Donald pha giống giữa C. Sir Jeremiah Coleman Bleu và B. Digbyana, đơm từng chùm hoa màu hồng, năm hoặc sáu cạnh, lip màu vàng ưng ửng hồng. Chung quanh lip có nhiều đường tua tủa ngắn như hình răng cưa, rất nhỏ, giữa đài hoa màu vàng. “Thằng” này thơm dìu dịu, phản phất mùi Nuit D’orient.

Bây giờ, không biết mấy “thằng” đó sống chết như thế nào, có được chăm sóc như lúc chúng nó còn ở đây hay không! Hector buồn buồn gom những giò lan già, chết vào một chỗ và những giò lan èo uột vào một chỗ. Nhìn sự tàn tạ của những nhà lan, Hector buồn quá và tự dưng chàng không muốn làm việc tại đây nữa, dù chàng đã được Donald cho biết kế hoặch trồng trọt mới.

 

Chiều đã xuống nhưng hơi ẩm trong nhà lan vẫn còn nồng. Hector lấy nón lưỡi trai xuống, phe phẩy trước mặt. Donald bước vào. Hector trao trọn cho ông số tiền bán lan ngày hôm đó. Chẳng cần đếm, Donald nhét đại số tiền vào túi quần Jeans, vì Donald hoàn toàn tin tưởng Hector. Donald lấy từ túi quần bên kia một số tiền rất ít oi – so với số tiền Hector bán lan trong ngày – trao cho Hector. Hector cười, nhận tiền lương, cảm ơn Donald. Donald vỗ vai Hector:

- Chú mày về nghỉ sớm đi, để tôi trông chừng mấy đứa kia bán lan cũng được.

Sau khi Hector cho xe nổ máy, Donald vẫy tay, nói lớn:

- Gặp chú mày sáng mai.

- Có thể. Có thể không.

Donald nhíu mày, vì Hector ít khi bông đùa:

- Tại sao lại có thể? Chú mày muốn nói gì đó?

- Tôi chưa quyết định được ngay bây giờ. Nhưng tôi cho ông hay rằng nhìn sự tiu đìu xơ xác của trại lan tôi chịu không được!

Biết Hector là một người giàu tình cảm, Donald bước đến gần, vỗ vai chàng:

- Tôi biết chú mày làm việc rất cực nhọc, nhiều khi tinh thần căn thẳng. Thôi, chú mày về nghỉ khỏe, mai mấy giờ vào cũng được.

Trên đường lái xe về nhà, Hector nghĩ, mai chàng sẽ đi tìm việc khác. Nhưng Hector lại nghĩ, trại lan này rất gần nhà và không xa trường học của các cháu. Donald lại tin tưởng chàng, dễ giải mọi điều, nhờ vậy, vào những hôm Ðại không có mặt ở nhà, Maria nhờ Hector đưa các cháu đi học và chiều đón về, Hector không bị phiền phức gì cả. Chỗ làm mới không biết người sếp có dễ giải và thì giờ có thuận tiện cho chàng đưa đón các cháu hay không. Vừa nghĩ đến đây Hector chợt nhớ đến kỳ gửi tiền về biếu Mẹ, vội quẹo xe vào vào Walmart, đến quày Money Gramme.

Vừa lái xe về nhà Hector vừa huýt sáo một phân đoạn của bản dân ca; vì chàng đang vui khi nghĩ đến nụ cười của Mẹ lúc Mẹ nhận được tiền. Niềm vui của Hector vụt tắt khi chàng mở khóa, bước vào nhà. Maria ôm chầm lấy chàng, khóc lớn:

- Hector. Chị chết mất, em ơi!

Hector nhìn quanh, hoảng hốt, nghĩ rằng Ðại lại say rượu, đánh đập Maria và mấy đứa cháu:

- Mấy đứa nhỏ đâu rồi? Ðứa nào bị cái gì? Ai hại tụi nó? Chị cho em biết ngay, em sẽ “dộng” cho người đó một trận nên thân.

Nói xong Hector mới nhận biết được rằng chàng đã thật sự thương yêu đàn cháu như con ruột của chàng. Maria thấy Hector nổi nóng, vội ngưng khóc:

- Không phải mấy đứa con của chị mà là thằng chồng của chị.

- Ủa, Ðại bị cái gì?

- Chuyện dài lắm, em ơi! Ðại đã đem người yêu từ Việt-Nam sang đây.

- Giỡn hoài. Chị là vợ chính thức, có hôn thú, làm thế nào Ðại có thể bảo lãnh cho bồ của Ðại sang được?

Maria òa khóc khiến mấy đứa bé từ trong phòng ùa ra, vây quanh.

- Chị ngu quá nên tin lời thằng Ðại. Nó biểu làm sao chị nghe làm vậy. Về sau hiểu ra thì muộn rồi, em ơi!

- Không muộn màng gì hết. Chị cứ đem hôn thú và dẫn đàn con của chị xuống văn phòng di trú khiếu nại.

- Chị đâu có hôn thú với Ðại.

Hector giật mình : “Hả?” Maria lập lại. Hector giận quá, hét lớn:

- Em nhớ hồi đó chị có làm hôn thú với Ðại mà.

- Có. Chị đã làm hôn thú với Ðại. Nhưng mà, em ơi, hôn thú chỉ là tờ giấy thôi. Chị cần tình yêu. Chị chỉ muốn chiếm tình yêu của Ðại chứ chị không cần tờ giấy đó.

- Rồi. Chị đã làm hôn thú với Ðại, tại sao bây giờ chị bảo chị không có hôn thú?

- Sau khi Cynthia ra đời, Ðại buộc chị ly dị giả để chị và Cynthia xin trợ cấp và nhà của chính phủ. Chị đi làm lãnh tiền mặt.

Hector giật mình. Thảo nào mỗi tháng Hector chung tiền để trả tiền thuê nhà, Maria từ chối. Hector giận, trợn mắt:

- Ðại nói nó là kỹ sư, một người có học thức mà hành xử như vậy sao?

- Nó là thợ làm móng tay chứ không phải là kỹ sư. Chị biết ngay từ đầu, nhưng chị yêu nó nên không giám nói với em, ngại em sẽ không tán thành cuộc hôn nhân của chị và nó.

Hector gãi đầu, gãi tai, nhăn mặt một cách khổ sở. Ngày tiễn chị em chàng lên đường, Mẹ cứ vừa thút thít vừa vuốt tóc Maria: “ Con đẹp quá, ở lại đây con chỉ gặp mấy thằng rượu chè, cờ bạc, đĩ điếm thôi; sang bên đó con cố tìm một người chồng, nghèo cũng được, nhưng biết thương yêu, chăm sóc con.” Vậy mà bây giờ... Hector bức rức, chưa biết phải hành động như thế nào thì Manuel – con thứ năm của Maria và Ðại tay ôm Teddy Bear màu nâu, chạy đến, sà vào lòng Hector. Hector ôm hôn Manuel, nhìn Maria:

- Nguồn tin chị biết chính xác được bao nhiêu phần trăm?

- Chị đã theo dõi, biết chỗ hai đứa nó ở. Chiều nay, lúc Ðại về, chị cật vấn Ðại và Ðại xác nhận.

- Ðây không phải là Trung-Ðông!

Maria tức tưởi khóc. Hector tiếp:

- Em nghĩ thủ tục đem người hôn phối từ nước ngoài vào Mỹ đòi hỏi thời gian, vậy mà tại sao đến bây giờ chị mới biết?

- Chị ân hận là đã giấu em. Tha thứ cho chị, nha, Hector!

- Em không trách gì chị đâu. Chị hãy nói hết cho em nghe. Em sẽ giúp chị. Chị phải nói ra, đừng để trong lòng rồi đau khổ như Mẹ.

- Sau khi chị ly dị giả với Ðại, Ðại thuyết phục chị để Ðại đem Vân, người vợ cũ và hai đứa con từ Việt-Nam sang.

- Nó có vợ bên Việt-Nam rồi à? Vậy tại sao chị không bỏ nó ngay lúc đó?

- Chị yêu Ðại quá mà! Vả lại, phụ nữ Mễ cũng gần giống như phụ nữ Á-Ðông, chỉ biết chung thủy và chịu đựng. Hơn nữa, Ðại bảo con nào cũng là con; nhưng mấy đứa con của chị thì sung sướng, đầy đủ, còn hai đứa con của Ðại bên Việt-Nam thì thiếu thốn, nghèo khổ, xin chị cho phép Ðại đem qua đây làm phước. Ðại hứa chỉ thương yêu một mình chị thôi. Người vợ cũ sang thì cũng ở riêng, tự lo lấy. Nhưng khi Vân và hai con sang đến đây, Ðại cứ đi đi về về. Chị khổ tâm lắm vì tình yêu bị chia xẻ.


Sau một thời gian dài, chị tưởng chị không thể chịu đựng được nữa thì Vân ly dị Ðại. Chị hơi mừng, hy vọng Ðại sẽ trở về hẳn với chị. Không ngờ Ðại vẫn thường xuyên vắng nhà. Gần đây Vân mới cho chị biết rằng, sau khi đem Vân và hai con sang Mỹ được một thời gian theo luật định, Ðại năn nỉ Vân ly dị để Vân xin trợ cấp của chính phủ Mỹ và Ðại sẽ làm hôn thú giả với một bà nhà giàu bên Việt-Nam - mà Ðại quen được trong những lúc ra Internet Café, lên “mạn”, chat - để nhận tiền. Mười ngàn đô-la cho một người đàn bà độc thân; nếu người đàn bà đó có con thì cứ thêm mỗi đứa năm ngàn đô-la. Bà này có hai đứa con. Ðại hứa, sau khi ba mẹ con bà này sang Mỹ, Ðại nhận hai mươi ngàn đô-la thì Ðại sẽ chia cho Vân mười ngàn. Nhưng sau khi ba mẹ con bà ấy sang đây, Ðại không chia tiền cho Vân mà Ðại lại sống chung với bà ấy, cho nên Vân uất, mới cho chị hay.

- Bây giờ sự việc đã như vậy, ý chị muốn như thế nào?

- Chị muốn tìm bà nhà giàu này, “làm” cho bà ấy một trận.

- Chị đừng ghen quá hóa dại như bà Lisa Nowak.

Câu chuyện ghen tương của phi hành gia Lisa Nowak được loan truyền trên radio và dài truyền hình Mễ cho nên Hector và Maria biết. Nghe em nhắc lại, Maria tức cười, ngưng khóc.

- Em nghĩ chị nên hành động như thế nào?

- Chị nên tự hỏi lòng chị xem chị còn yêu được một người đàn ông gian xảo như Ðại hay không? Và chị có muốn sống một cuộc đời buồn thảm giống Mẹ hay không?

Maria trầm ngâm suy nghĩ. Vì con đông, Maria không thể đi làm. Nàng chỉ nhận lau nhà, lãnh tiền mặt, vào những ngày cuối tuần, nhờ Hector ở nhà trông cháu. Thỉnh thoảng, chỉ khi nào Ðại muốn ở lại nhà để được Maria săn sóc và vui thú ái ân, Ðại mới ngọt dịu với nàng và đưa nàng một hai trăm đô-la. Maria chịu đựng được sự thiếu thốn, nghèo khổ; nhưng Maria không thể chịu được khi Ðại cứ lường gạc nàng và dùng những lời lổ mảng, không lễ độ để nói với chị em nàng. Và Maria cũng không thể chịu được khi Ðại cứ khoe ẩu chàng là một người có văn hóa cao, làm nhiều tiền, giao tiếp toàn giới trí thức và những người có chức phận. Maria nhìn Hector:

- Tình yêu trong chị đã biến thành thù hận. Chị muốn bầm xé thằng Ðại ra muôn mảnh chị mới vừa lòng.

- Tại sao chỉ vì một người đàn ông quỷ quyệt mà chị phạm tội? Không đáng! Ðời của chị còn dài. Vấp ngã một lần không phải là tận cùng.

- Ðời chị kể như bỏ rồi. Chị chỉ mong nuôi dạy được năm đứa nhỏ nên người.

- Em sẽ giúp chị nuôi các cháu.

Maria mủi lòng, tựa đầu vào vai Hector, vừa khóc vừa nói:

- Chị cảm ơn em. Chị chỉ mong từ nay thằng Ðại đừng vác mặt đến đây nữa.

- Thật tình chị không muốn thấy mặt Ðại nữa hay sao?

- Lúc chiều Ðại nói với chị: “Ờ, tao vậy đó, bên xứ tao đàn ông năm thê bảy thiếp. Mày không chịu thì thôi. Mày dám bỏ tao hay không? Mày bỏ tao, thằng nào dám ‘cõng’ năm ‘cục nợ’ đó cho mày?” Chị cảm thấy bị nó xúc

phạm nặng nề. Chị đuổi nó đi và chị bảo không bao giờ chị muốn thấy lại nó nữa. Nhưng Ðại sẽ trở lại, chị biết, vì năm “cục nợ” này.

Hector nói nhỏ với Maria:

- Có các cháu ở đây, chị không nên gọi các cháu là mấy “cục nợ”.

- Tiếng “cục nợ” là do Ðại nói chứ đâu phải do chị.

Hector im lặng, thở dài não nuột. Những lời của Ðại cũng độc ác không kém gì những lời của người Cha đam mê tửu sắc, bỏ Mẹ và anh chị em của chàng đói khổ suốt bao nhiêu năm dài!

Lúc chiều, thấy cảnh tàn tạ của trại lan, bây giờ biết rõ sự đau khổ của người chị thân yêu và sự thiếu may mắn của đàn cháu, Hector cảm thấy chàng không còn một lý do nào để sống trong thành phố này nữa. Chàng chỉ muốn đi xa thật xa, đến một nơi nào đó để tìm một cuộc sống an lành, đạm bạc nhưng chân thật và tràn niềm vui. Ý tưởng này cũng giống như ý tưởng của thằng bé Hector năm nào khi nó đi bộ trong sa mạc từ làng Laredo đến sông Rio Bravo.

Giọng Hector buồn buồn:

-Theo những gì chị nói với em, em nghĩ Ðại không xứng đáng là cha của mấy đứa này; bởi vì Ðại từ chối trách nhiệm bằng cách để đàn con của Ðại cho chính phủ nuôi, còn Ðại thì đi xe BMW mui trần, nay về Việt-Nam du lịch, mai đi Lake Charle, mốt đi Las Vegas. Ðó là ý nghĩ của em; còn chị, chị phải suy nghĩ và nhận định xem Ðại có xứng đáng là cha của các cháu hay không.

- Ðại chỉ biết sống cho Ðại và bất cứ điều gì có lợi và thỏa mản bản tính thiếu tự tin của Ðại thì Ðại làm. Bởi vậy bây giờ chị mới sáng mắt ra và chị không muốn thấy mặt Ðại nữa.

- Nếu chị quyết định như vậy thì chị em mình và mấy đứa nhỏ đi, đi xa, để Ðại không thể tìm ra.

- Ði đâu?

- Ði lên nhà mà hồi mới sang họ cho mình ở tạm sau khi mình rời nhà xe của tụi tổ chức vượt biên đó.

- Rồi sao?

- Tạm vài ngày rồi mình thuê chung cư ở và tìm việc làm.

- Ý kiến hay. Nhưng...

- Chị đừng lo. Em mới lãnh lương. Em cũng để dành được 

ít tiền. Mình thừa sức bắt đầu một cuộc sống mới.

- Khi nào mình đi?

- Ngay tối nay; có như vậy Ðại mới không thể tìm ra.

Như tìm được lối thoát, Maria vui hẳn lên, thúc các con thu dẹp quần áo sách vở và đồ chơi. Maria và Hector chọn những gì đáng mang theo, đem ra xe Van của Hector.

Sau khi các cháu vào xe, thắt nịt an toàn, Hector dùng điện thoại di động gọi Donald, báo tin chàng không làm việc cho Donald nữa.

Trong khi lui xe ra khỏi sân nhà - dù là nhà do chính phủ cấp - tình cảm của Hector cũng buồn buồn, giống như lúc chiều, khi rời trại lan.

Chiếc xe chạy dọc theo con đường quê im vắng. Nhiều mái nhà lụp xụp, những chiếc xe cũ kỷ và những vườn trồng hoa màu thấp thoáng trong ánh đèn khiến Hector nhớ nhà, nhớ quê đến muốn khóc! Tự dưng Hector muốn lái xe thẳng đến biên giới để trở lại quê xưa. Tình cảm của Hector lúc này cũng không khác gì những lúc Hector vô tình nghe một đoạn dân ca Hoa-Kỳ:

“... Country roads, take me home,

to the place I belong...

Take me home, contry roads…” (1)

Hector thở dài. Như muốn gây niềm vui cho chính mình và cũng để an ủi người chị thiếu may mắn, Hector bảo:

- Chị nghĩ đi, chuyến vượt biên giới lần trước, chị em mình không có gì cả. Tiếng Anh chỉ biết yes hoặc no thôi, vậy mà chị em mình vẫn sống. Còn chuyến vượt biên giới (thành phố) lần này, mình có xe, mình có tý tiền, điều quan trọng hơn cả là chị em mình có năm nhóc tỳ. Mình lời quá! Phải không các cháu?

Như vạn vạn lần trước, mỗi khi nghe Hector hỏi “phải không”, mấy đứa bé không hiểu Hector hỏi điều gì, nhưng lại biết Hector cần “đồng minh”, cho nên cùng nhau reo lên “Yeah, Tio.” 

Maria và Hector nhìn nhau, cười./.

 

ĐIỆP MỸ LINH

wwwdiepmylinhcom

(1) Country Roads của John Denver.

--------------

* Cám ơn tác gỉa gửi bài đến GNST

-Hình minh họa- Innternet

Kim Quy Moderator

Xem thêm...
Theo dõi RSS này