CUỘC PHIÊU LƯU CỦA WALTER SCHNAFFS

CUỘC PHIÊU LƯU CỦA WALTER SCHNAFFS
Văn hào GUY DE MAUPASSANT

*********

 

(Maupassant là con trai của một gia đình Lorraine cao quý.1850. Ông học luật một thời gian ở Paris, tham gia Chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870-1871 và từ 1871 làm việc chính thức tại các Bộ của Paris. Kể từ năm 1891, Maupassant sống trong sự xáo trộn tinh thần và qua đời 1893 tại Paris)
1
Từ khi đặt chân lên đất Pháp cùng với đội quân xâm lược, Walter Schnaffs cho rằng anh là người bất hạnh nhất trên đời. Anh ta mập mạp, đi bộ cũng thấy khó khăn, luôn thở phì phò và chịu đựng đôi chân núc ních và to bè của mình một cách ghê gớm.
Ngoài ra, anh là người hiếu hòa và tử tế, không hề vênh váo hay khát máu. Anh lấy một người đàn bà tóc vàng, mà mỗi tối anh luôn luyến tiếc một cách tuyệt vọng những cử chỉ âu yếm, những sự săn sóc vặt vãnh, và những nụ hôn của chị. Anh có được bốn con và rất mực chiều chuộng chúng. Anh thích dậy trễ và đi ngủ sớm, thích ăn chậm rãi những của ngon vật lạ, và uống bia ở các quán. Ngoài ra, anh nghĩ rằng tất cả thứ gì dịu dàng trong đời sống thì sẽ mất đi cùng với cuộc đời; và anh luôn giữ trong lòng một mối thù khủng khiếp, vừa có tính chất bản năng vừa có tính chất lý trí, đối với đại bác, súng trường, súng ngắn và gươm đao, nhưng nhất là đối với lưỡi lê, vì anh cảm thấy không thể sử dụng đủ linh động thứ vũ khí này để bảo vệ cái bụng phệ của mình.

1 Trạm cứu thương trong chiến tranh.

Và ban đêm, khi nằm ngủ trên mặt đất, anh co người trong chiếc áo măng tô bên cạnh những đồng đội ngáy như sấm, anh nghĩ ngợi miên man đến người thân ở nhà, và đến những mối hiểm nguy reo giắc trên đường đi của anh. Nếu anh bị giết, thì bọn trẻ ở nhà sẽ ra sao? Vậy thì ai sẽ nuôi nấng và dạy dỗ chúng? Ngay bây giờ chúng sống không thoải mái lắm, mặc dù trước khi đi, anh để để lại cho chúng ít tiền mà anh đã vay được. Và thỉnh thoảng Walter Schnaffs lại khóc.
Khi bước vào các trận đánh, anh cảm thấy đôi chân mình yếu ớt đến nỗi anh có thể bị quật ngã bất cứ lúc nào, nếu anh không nghĩ rằng cả đội quân sẽ giẫm lên mình anh.Tiếng đạn rít làm anh nổi da gà.
Cứ thế, từ nhiều tháng nay anh sống trong nỗi khiếp đảm và khắc khoải.
Cánh quân của anh tiến về hướng Normandie, và một ngày nọ anh được cử đi trinh sát cùng với một phân đội ít ỏi, chỉ để thăm dò một phần đất của vùng này, và rút về ngay. Ở nông thôn, mọi thứ dường như êm ả; không một dấu hiệu nào cho thấy có sự chuẩn bị cho một cuộc kháng cự.
Thế rồi, những người lính Phổ lặng lẽ đi xuống một thung lũng nhỏ, có những khe suối sâu cắt ngang, thì một tràng súng máy dữ dội chặn họ lại ngay lập tức, làm họ thiệt mạng hơn hai chục người; và một toán du kích bỗng tủa ra từ một khu rừng nhỏ như bàn tay, và lao lên phía trước, súng ống giương lê tua tủa.
Ban đầu, Walter Schnaffs đớ người ra, ngạc nhiên và thất kinh đến nỗi thậm chí anh không kịp nghĩ đến chuyện chạy trốn. Rồi một mong muốn điên rồ là tháo chạy, xâm chiếm đầu óc anh; nhưng anh cũng nghĩ ra ngay rằng mình chạy như rùa, so với những binh lính Pháp mảnh mai, họ chạy nhảy như một đàn dê. Rồi nhận thấy trước mặt khoảng sáu bước có một cái hố rộng, mọc đầy bụi rậm, lá khô, anh chụm chẩn nhảy xuống đó, thậm chí anh không nghĩ đến chiều sâu của nó, như người ta nhảy từ cầu xuống sông vậy.

Như một mũi tên, anh lướt qua một lới dày đặc dây leo và cỏ gai nhọn, chúng cào cấu vào mặt, vào tay anh, và anh té ngồi nặng nề xuống lòng đá.
Anh liền ngước mặt nhìn lên, thấy bầu trời qua cái lỗ anh vừa rơi xuống. Cái lỗ chứng cớ ấy có thể tố cáo anh, và anh thận trọng trườn người dưới đáy hố dưới lớp cành cây chằng chịt, anh tiến nhanh hết cỡ, để tránh xa nơi vừa xảy ra chiến sự. Đoạn, anh dừng lại, và ngồi dậy, ngồi lom khom như một con thỏ rừng ở giữa đám cỏ khô cao.
Một hồi sau, anh vẫn còn nghe tiếng súng nổ, tiếng thét la, và tiếng rên rỉ. Rồi âm thanh hỗn độn của chiến tranh yếu dần, và tắt hẳn. Tất cả lại trở nên lặng lẽ và tĩnh mịch.
Chợt một vật gì chạm vào người anh. Anh đánh thót người vì kinh hãi. Đó là một con chim nhỏ, đậu trên một cành cây, làm những chiếc lá khô lay động. Trong gần một giờ đồng hồ, ngực của Walter Schnaffs vẫn còn đập thình thịch và liên hồi.
Đêm đến, làm khe suối tràn ngập bóng tối. Và anh lính bắt đầu suy nghĩ. Anh phải làm gì bây giờ? Anh sẽ ra sao đây? Trở lại đơn vị?... Nhưng bằng cách nào? Bằng lối nào? Và anh sẽ phải bắt đầu lại cuộc sống khủng khiếp trong khắc khoải, hoảng sợ, mệt mỏi, và đau đớn mà anh đã chịu đựng từ khi chiến tranh bùng nổ? Không anh cảm thấy không còn đủ can đảm để chịu đựng được nữa. Anh sẽ không còn đủ nghị lực cần thiết để chịu đựng những cuộc hành quân và đương đầu với những hiểm nguy từng phút từng giây. nghị lực cần thiết để chịu đựng những cuộc hành quân và đương đầu với những hiểm nguy từng phút từng giây.

3 Những tù nhân chiến tranh Anh giúp quân lính Đức tìm kiếm người chết.

Nhưng làm gì bây giờ? Anh không thể ngồi mãi trong khe đá này, không thể ẩn náu ở đây cho đến khi chiến tranh kết thúc được. Không, chắc chắn như thế. Giá mà anh không cần phải ăn, thì viễn cảnh này sẽ không giày vò anh đến thế; nhưng anh phải ăn, phải ăn hàng ngày.
Và anh ở đó một mình, trên đất địch, mang trên người vũ khí và bộ đồng phục, xa cách với những người có thể bảo vệ anh. Những cơn rung mình cứ chạy trên da thịt anh.
Chợt anh nghĩ “Giá mà ta chỉ bị bắt thôi!”. Và lòng anh rung lên vì mong muốn, một niềm mong muốn dữ dội và ào ạt, được làm tù binh của quân Pháp. Tù binh! Anh sẽ được sống, được cho ăn, cho ở, được che chở khỏi làn tên mũi đạn, trong một nhà tù được canh gác cẩn thận, không còn lo sợ gì cả. Tù binh! Giấc mơ tuyệt vời làm sao!
Và giải pháp ấy được chọn lựa ngay tức khắc.
“Ta sắp ra đầu hàng đây”.
Anh đứng lên, nhất quyết thực hiện chương trình này, không để chậm trễ một phút. Nhưng anh bỗng đờ người vì bị những suy nghĩ bắng nhắng và những nỗi khiếp đảm mới tấn công dồn dập.
Anh ra đầu hàng ở đâu? Bằng cách nào? Về phía nào? Và những hình ảnh ghê tởm, những hình ảnh chết chóc đổ xô đến tâm hồn anh.
Anh sẽ gặp những mối nguy hiểm khủng khiếp nếu anh một mình mạo hiểm đi trên cánh đồng, với chiếc mũ sắt có chõm nhọn.
Nếu anh gặp những người nông dân thì sao? Khi trông thấy một tên lính Phổ đi lạc, một tên lính Phổ không vũ khí, họ sẽ giết như giết một con chó hoang! Họ sẽ tàn sát bằng mỏ sãy, cuốc, liềm, xẻng! Họ sẽ biến anh thành nước xúp; thành thức ăn gia súc, trong cơn hung hăng của những người chiến bại điên tiết.
Còn nếu gặp quân du kích? Những du kích quân này, những kẻ hung hăng, không pháp luật, không kỷ cương, sẽ xử bắn anh để tiêu khiển, để cười cợt. Và anh tưởng chừng như mình đang đứng tựa lưng vào tường, mặt đối diện với mười hai họng súng trường và dường như những lỗ tròng nhỏ và đen ngòm của chúng đang nhìn anh.

Nếu gặp chính quân đội Pháp? Những toán đi tiên phong sẽ cho anh là do thám, là một tên lính gan dạ và lém lỉnh nào đó, đang đi trinh sát một mình, và họ sẽ bắn anh ngay. Và bên tai anh như vang lên những tiếng nổ bất thường của bọn lính đang nằm trong các bụi rậm, trong lúc anh đang đứng giữa cánh đồng, anh khuỵu xuống, mình mẩy bị bắn thủng như một cái rổ và anh cảm thấy viên đạn như đang ngoáy sâu vào da thịt anh.
Anh lại tuyệt vọng ngồi xuống. Tình thế của anh lúc này có vẻ như bế tắc.
Màn đêm câm lặng và đen tối đã phủ kín hoàn toàn. Anh không động đậy nữa, và anh rùng mình mỗi khi có một tiếng động lạ và khẽ khàng trong bóng đêm. Một chú thỏ đập đít xuống miệng hang, suýt làm Walter Schnaffs bỏ chạy. Tiếng chim cú kêu xé nát lòng anh, xuyên thấu vào da thịt anh bằng những cơn sợ hãi bất ngờ và đau đớn, như những vết thương vậy. Anh mở to đôi mắt để cố nhìn trong bóng đêm; và lúc nào anh cũng cảm thấy có tiếng bước chân đang đi bên cạnh mình.


2
Sau những giờ phút dài dằng dặc, và những khắc khoải của tên tội đồ, qua lớp cành cây, anh chợt nhận ra rằng trời đã sáng. Lúc ấy, anh cảm thấy nhẹ nhõm vô cùng; tứ chi anh chợt thư thái và duỗi ra; lòng anh cảm thấy yên ổn, mắt anh nhắm nghiền lại. Anh ngủ thiếp đi.
Khi anh tỉnh giấc, mặt trời đã ở khoảng đỉnh đầu; có lẽ đã trưa rồi. Không một tiếng động nào quấy phá sự yên tĩnh buồn thảm của đồng quê; và Walter Schnaffs cảm thấy bụng đói cồn cào.
Anh ngáp, miệng ứa nước dãi khi nghĩ đến khúc thịt dồi, một thứ thịt dồi ngon lành của bọn lính; và bao tử anh lại quặn lên. Anh đứng dậy, bước đi vài bước, và cảm thấy rằng đôi chân đã yếu ớt, anh lại ngồi xuống để suy nghĩ. Trong suốt hai ba tiếng đồng hồ sau đó, anh phân vân giữa cái nên và cái không nên làm anh luôn thay đổi giải pháp, anh luôn bị đuối lý, đau đớn, giằng xé bởi những lý lẽ hoàn toàn trái ngược nhau.
Cuối cùng, một ý nghĩ có vẻ hợp lý và tiện lợi, là phải rình người dân làng nào đi một mình, không vũ khí, không dụng cụ lao động nguy hiểm, rồi chạy thẳng đến trước mặt anh ta và nộp mạng, vừa ra hiệu cho anh ta hiểu rằng mình đầu hàng.
Rồi anh bỏ mũ sắt, vì cái chõm nhọn của nó có thể phản bội anh, và anh nhô đầu lên bờ miệng hố, với sự thận trọng vô biên.
Không một người nào xuất hiện lẻ loi ở chân trời. Đằng kia, phía bên phải, một ngôi làng nhỏ đang tỏa khói từ mái nhà lên trời; khói bếp còn đằng kia, bên trái anh thấy một tòa lâu đài lớn chung quanh có những tháp canh bao bọc, vươn lên trên các ngọn cây ven đường.
Anh chờ cho đến tối, anh đau đớn kinh khủng, anh không thấy gì ngoài những chú quạ lượn lờ, không nghe gì ngoài những tiếng kêu réo trong lòng anh.
Và màn đêm lại phủ xuống quanh anh.
Anh nằm dài dưới đáy hầm trú ẩn và thiếp ngủ, một giấc ngủ hâm hấp, đầy những ác mộng, một giấc ngủ của những người đói lả.
Bình minh lại hiện lên trên đầu anh. Anh lại tiếp tục quan sát. Nhưng cánh đồng vẫn trống trải như ngày hôm qua; và một nỗi sợ hãi mới lại xâm chiếm đầu óc Walter Schnaffs, nỗi sợ bị chết đói. Anh nằm dài dưới hố, mặt ngửa lên trời, đôi mắt nhắm nghiền. Rồi những con thú, những loài thú bé nhỏ đủ loại tiến lại gần anh và bắt đầu gậm nhấm anh, cùng một lúc tấn công anh khắp nơi, chúng chui vào quần áo anh để cắn da thịt lạnh ngắt của anh. Và một con quạ to tướng mổ vào mắt anh bắng chiếc mỏ dài ngoằng.
Thế là anh bỗng nổi khùng lên, và nghĩ rằng mình sắp kiệt sức và không cưỡng đi được nữa. Và rồi anh chực lao mình về phía ngôi làng, anh quyết làm tất cả bất chấp tất cả, bỗng anh thấy ba người nông dân vai vác mỏ sãy đang đi ra đồng, và anh lại chúi vào chỗ nấp.
Nhưng khi màn đêm đã phủ kín cánh đồng, anh từ từ chui ra khỏi hố, anh khom người xuống, mặt mày lấm lét, tim đập nhanh, anh tiến về hướng tòa lâu đài xa xa, vì anh thích vào đấy hơn là vào làng, vì làng mạc đối với anh thật đáng sợ như là hang hùm…
Các cửa sổ phòng dưới sáng rực. Thậm chí có một chiếc mở toang; và một mùi thịt chin nóng nực bốc ra vào tận bụng của anh; làm anh co dúm, thở hổn hển, nó quyến rũ anh không gì cưỡng lại được, và tiếp thêm cho anh một sự gan dạ tuyệt vọng.
Và thình lình, anh xuất hiện bên khung cửa, đầu đội mũ sắt, mà không suy nghĩ gì.
Tám gia nhân đang ăn tối bên cạnh một chiếc bàn lớn. Bỗng một chị miệng há hốc, đánh rơi chiếc ly đang cầm trên tay, đôi mắt nhìn đăm đăm. Mọi ánh mắt khác hướng theo ánh mắt chị!
Họ nhận ra kẻ thù!
Chúa ơi! Quân Phổ tấn công lâu đài!
Ban đầu, đó chỉ là tiếng kêu, một tiếng kêu duy nhất do tám cái miệng cùng thốt ra, bằng tám cung bậc khác nhau, một tiếng kêu khủng khiếp vì kinh hoàng, sau đó là một sự náo động, một trận chen lấn, một cơn hỗn loạn, một cuộc tháo chạy tán loạn về phía cửa sau. Bàn ghế ngã đổ, đàn ông hất văng đàn bà, và giẫm lên trên. Trong hai giây đồng hồ, căn phòng trở nên trống rỗng, hoang tàn, trên bàn thì thức ăn ngổn ngang, Walter Schnaffs kinh ngạc đứng nhìn sau khung cửa sổ.
Sau khi do dự trong giây lát, anh trèo qua bức tường và tiến đến các đĩa thức ăn. Cơn đói dữ dội làm anh run lên như người bị sốt rét. Nhưng nỗi kinh hoàng giữ chân anh lại, nó còn làm anh tê liệt tứ chi. Anh lắng nghe. Cả gian nhà dường như rung lên; các cửa nẻo được đóng sầm lại, những bước chân dồn dập chạy trên tầng trên. Anh lính Phổ lo lắng dỏng tai nghe tiếng ồn ào hỗn độn này; đoạn anh nghe những tiếng bình bịch như thể có người ngã xuống đất mềm, dưới chân tường, khi có người nhảy từ trên tầng lầu xuống đất.
Rồi mọi cử động, mọi xáo trộn ngưng bặt, và tòa lâu đài to lớn trở nên im ắng như một nhà mồ.
Walter Schnaffs ngồi xuống một đĩa thức ăn còn nguyên, và anh bắt đầu ăn. Anh ăn ngấu nghiến như thể sợ bị ngăn chặn quá sớm, sợ không thể tọng được đầy thức ăn. Anh dùng hai tay ném thức ăn vào cái mồm há rộng như cái thùng; và từng nắm thức ăn lần lượt rơi vào dạ dày của anh làm cổ họng anh trương lên sau mỗi lượt thức ăn đi qua. Đôi khi anh dừng lại, vì cuống họng chực nổ tung ra như một đường ống quá căng. Anh chộp lấy bình rượu táo lên men và thông ống thực quản như ta thông một đường ống bị tắc nghẽn.
Anh vét sạch tất cả các đĩa, tất cả món ăn, và tất cả chai rượu, đoạn, ngất ngây vì rượu và thức ăn, anh đờ đẫn, mặt đỏ bừng, lại giật nẩy bởi những cơn nấc cục, đầu óc anh rối mù, và miệng anh bóng mỡ, anh cởi nút bộ đồng phục để dễ thở hơn, vì không thể đi được một bước nào. Đôi mắt anh nhắm nghiền, đầu óc rã rời; anh gục chiếc đầu trĩu nặng xuống đôi cánh tay bắt chéo trên bàn, và dần dần anh mất đi khái niệm về mọi sự vật chung quanh.
Mảnh trăng lưỡi liềm cuối tháng tỏa ánh sáng mờ mờ xuống chân trời, trên những hàng cây trong vườn. Đó là khoảng thời gian lạnh lẽo trước bình minh.
Những bóng người lặng lẽ luồn lách trong bụi rậm; và thỉnh thoảng ánh trăng làm một mẩu thép lấp lánh trong bóng đêm.
Tòa lâu đài tĩnh mịch vẫn vươn cao bóng dáng đen đúa của nó. Chỉ còn hai cửa sổ có đèn sáng ở tầng trệt.
Bỗng một giọng vang như sấm gào lên:
“Tiến lên! Mẹ kiếp! Xung phong! Quân sĩ!”
Rồi thì chỉ trong một chốc, các cửa nẻo, các tấm sáo và các cửa kính bị một đợt sóng người tràn vào, họ đập phá, đâm thủng tất cả và ùa vào ngôi nhà. Chỉ trong một chốc, năm mươi binh lính võ trang đầy mình, lao vào nhà bếp, nơi Walter Schnaffs đang yên ổn nghỉ ngơi, và họ chĩa năm mươi họng súng đã lên đạn vào ngực Walter Schnaffs, quật anh ngã xuống, xô anh lăn long lóc, rồi túm lấy anh, và trói anh từ đầu đến chân.
Anh thở khó nhọc vì kinh hoảng, đầu óc thộn ra nhưng không hiểu chi cả, anh bị đánh đập, bị nện bằng sung, và điên lên vì lo sợ.
Và chợt một người mặc quân phục to béo, mang đầy huy hiệu vàng rực trên ngực, nện bàn chân vào bụng anh và quát:
“Anh đã bị bắt làm tù binh, hãy đầu hàng đi”.
Anh lính Phổ chỉ nghe được một tiếng duy nhất: “tù binh” và anh rên lên: “Ya, ya, ya”.
Anh bị dựng dậy, bị cột chặt vào ghế, và bị xoi mói bởi một sự tò mò sôi nổi của những người chiến thắng, bây giờ họ đang thở phì phò như ống bễ. Nhiều người phải ngồi xuống vì rã rời do xúc động và mệt mỏi.
Anh mỉm cười, bây giờ anh mỉm cười, vì an tâm rằng cuối cùng anh đã trở thành tù binh!


3
Một viên sĩ quan khác bước vào và nói:
“Thưa Đại tá, quân địch đã tháo chạy; nhiều tên dường như bị thương. Chúng ta đã làm chủ chiến trường”.
Người mặc quân phục mập đưa tay lau trán, và gào lên: “Chiến thắng!”
Và ông ta móc túi ra một quyển sổ tay bán hàng và viết:
“Sau một cuộc chạm trán ác liệt, quân Phổ phải rút lui, mang theo nhiều đồng bọn bị giết và bị thương khoảng năm mươi tên bị loại ra khỏi vòng chiến. Nhiều tên khác bị bắt làm tù binh”.
Viên sĩ quan trẻ nói tiếp:
“Thưa Đại tá, bây giờ ta phải làm sao đây?”
Viên Đại tá trả lời:
“Chúng ta chuẩn bị rút lui, để tránh cuộc phản công có pháo binh và quân tiếp viện đông đảo”.
Và ông ta ra lệnh rút lui.
Đoàn người lại tập hợp hàng ngũ trong đêm tối, dưới chân tường tòa lâu đài, và lên đường, vừa đi vừa vây quanh Walter Schnaffs bị trói chặt, bị canh giữ, bởi sáu chiến sĩ súng ngắn lăm lăm trong tay.
Họ cử lính trinh sát đi dò đường trước. Họ thận trọng tiến lên, chốc chốc lại dừng quân.
Khi trời vừa hừng sang, họ tiến về thị trấn La Roche-Oysel, địa phương có đơn vị vệ quốc quân vừa hoàn thành chiến công ấy.
Đám dân chúng xôn xao và bị kích động, đang đứng đợi họ. Khi mọi người nhận ra chiếc mũ sắt của tên tù binh, nhiều tiếng reo hò khủng khiếp vang lên. Cánh đàn bà vung tay lên; các bà cụ thì khóc; một ông lão ném chiếc nạng vào tên lính Phổ và làm mũi một anh lính canh bị thương.
Viên Đại tá gào lên:
“Hãy bảo đảm an toàn cho tù binh”.
Cuối cùng, mọi người cũng đến được tòa thị chính. Cửa nhà tù mở ra, và Walter Schnaffs được cởi trói, và bị ném vào trong đó. Hai trăm người vũ trang đầy đủ canh gác chung quanh nhà giam.
Lúc ấy, mặc cho triệu chứng khó tiêu hóa đang hành hạ anh lính Phổ từ hôm qua đến nay, anh vẫn nhảy múa, lòng điên lên vì sung sướng, anh nhảy múa điên cuồng, vừa huơ chân múa tay, vừa la hét cuồng nhiệt, cho đến lúc anh kiệt sức ngã xuống dưới chân tường.
Anh bị bắt làm tù binh! Thoát rồi!
Lâu đài Charnpignet được giành lại từ tay kẻ thù như thế đấy, chỉ sau sáu giờ bị chiếm đóng.
Đại tá Ratier, thương gia bán chăn màn, người chỉ huy đội vệ quốc quân của thị trấn La Roche-Oysel, được ban tặng huân chương.


TRẦN THANH ÁI dịch

Kim Kỳ sưu tầm

 

 

Chỉnh sửa lần cuối vào %PM, %15 %061 %2018 %19:%11
back to top