Kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima & ITALIA ĐIỂM HẸN TƯƠI ĐẸP

Hành hương mừng 100 năm Đức Mẹ Fatima

Trải qua nhiều năm, Fatima đã thu hút biết bao khách hành hương đến tôn vinh Mẹ Rất Thánh Mân Côi, trong đó có các Đức Giáo Hoàng Piô XII, Phaolô VI và Gioan Phaolô II. Để được lãnh nhận ơn toàn xá, các tín hữu cũng phải đáp ứng được các điều kiện thông thường gồm: Xưng tội và Rước lễ và cầu nguyện theo ý chỉ của Đức Thánh Cha.

Kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima: 3 cách để nhận ơn toàn xá

Hành hương đến Đền thánh Mẹ Fatima ở Bồ Đào Nha

Cách thứ nhất để nhận ân xá, là “các tín hữu phải hành hương đến Đền thánh Đức Mẹ Fatima ở Bồ Đào Nha, và tham dự vào một nghi lễ hay buổi cầu nguyện nào đó hướng về Đức Trinh Nữ.”

Ngoài ra, các tín hữu cũng phải đọc kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính, và cầu nguyện với Mẹ Fatima.

Đặc biệt vào ngày 13/05/2017 theo dự kiến sẽ có sự hiện diện của Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài sẽ cử hành Thánh Lễ trọng thể mừng kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ngay tại linh địa Fatima để tôn vinh Mẹ. Hãy cùng Panvin Tours đến bên Mẹ Fatima và cùng với con cái Mẹ trên khắp địa cầu tôn vinh Mẹ, thi hành sứ điệp mà Mẹ đã nhắn nhủ với loài người.

Cầu nguyện trước bất kỳ bức tượng Đức Mẹ Fatima nào

Cách thứ hai là “các tín hữu phải đến viếng tượng Đức Mẹ Fatima với lòng sùng mộ, ở bất cứ nhà thờ, nhà nguyện hay nơi xứng hợp nào có trưng bày tượng công khai, trong những ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra, tức vào ngày 13 mỗi tháng từ tháng Năm đến tháng Mười [trong năm 2017], và tại đó, họ sốt sắng tham dự các nghi lễ hay giờ cầu nguyện để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.”

Peregrinação Internacional Aniversária de 13 de Maio de 2012

Về cách thứ hai này, cha Giám đốc Đền thánh Fatima nói với CNA rằng, việc đến viếng tượng Đức Mẹ, “không nhất thiết phải ở Fatima hay độc quyền ở Bồ Đào Nha” nhưng có thể được thực hiện bất kỳ nơi nào trên thế giới.

Những ai muốn lãnh ân xá cũng phải đọc kinh Lạy Chay, kinh Tin Kính, và cầu nguyện với Mẹ Fatima.

Dành cho người già và người ốm

Cách thứ ba để nhận ơn toàn xá, được áp dụng cho những ai vì tuổi tác, vì bệnh tật hay vì những nguyên nhân nghiêm trọng khác mà không thể đi lại được.

Những người này chỉ cần cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ Fatima, và hiệp thông trong tinh thần với những cử hành trong năm thánh vào những ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra, tức ngày 13 mỗi tháng, trong khoảng từ tháng Năm đến tháng Mười năm 2017.

Họ cũng phải “dâng lên Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót với niềm tin, thông qua Đức Mẹ Maria, những lời cầu nguyện, những đau khổ hoặc sự hy sinh của họ trong đời sống.”

 

 

ITALIA ĐIỂM HẸN TƯƠI ĐẸP

Khi nhắc đến Italia, mỗi người trong chúng ta đều nghĩ đến những điểm đặc sắc và nổi bật của quốc gia này. Từ lịch sử La Mã cổ đại ngàn năm qua các tầng kiến trúc tới kho tàng nghệ thuật phục hưng đồ sộ rồi âm nhạc, ẩm thực, thời trang , thể thao…và cả Vatican. Chẳng thế nước Ý luôn là niềm khao khát viếng thăm của biết bao du khách

Trong năm năm gần đây nhất trung bình nước Ý đón khoảng 46 triệu du khách nước ngoài, năm 2014 đón 48,6tr đứng vị trí thứ 5 trên thế giới sau Pháp ( 85tr), Hoa Kỳ ( 70tr), Tây Ban Nha ( 61tr) và Trung Quốc ( 56tr)

Hòa với dòng du khách đổ tới Ý hàng năm, chúng tôi thực hiện một chuyến đi 10 ngày từ miền Trung xuống gần phía Nam nước Ý, với các thành phố chính trong lộ trình gồm Bologna, Florence và Rome. Bốn năm trước chúng tôi đã ghé vùng phía Bắc nước Ý gồm Milan và Venice

Phương tiện di chuyển trong Ý chủ yếu là tàu hỏa vốn rất tiện giữa các thành phố tại Ý, ngoài ra chúng tôi cũng sử dụng các tour day trip tại các địa phương để tiết kiệm được thời gian mà vẫn có cơ hội đi và trải nghiệm được nhiều danh thắng khác.

Những chia sẻ dưới đây là sự tổng hợp các thông tin từ chuyến đi của chúng tôi cùng với tập hợp một số bài viết trên các diễn đàn về du lịch nhằm lưu giữ các khái quát về văn hóa, lịch sử phong cảnh con người ở quốc gia Italia

I. Bologna

Chúng tôi đến nước Ý với chuyến bay của Luthansa từ sân bay Frankfurt – Đức tới sân bay mang tên Guglielmo Marconi của thành phố Bologna

Thành phố Bologna nằm giữa hai con sông Reno và Sevena thuộc miền Bắc đất nước Ý. Đây cũng là quê hương của các trường đại học lâu đời nhất thế giới, trong đó có Trường đại học Alma Mater Studiorum được thành lập vào năm 1088. Bologna là một trong những thành phố phát triển nhanh nhất ở Ý bởi chất lượng cuộc sống khá thịnh vượng.

Bologna có nhiều khu vườn rau quả xanh tốt, những công viên bảo tàng, những tòa nhà cao tầng, nhà thờ và cửa hiệu mua sắm chạy dọc mấy chục km và không quên những món ăn tuyệt vời. Bologna được mệnh danh là “Thành phố của sự no nê và tuyệt vời”, nó có thể là sự trải nghiệm bất tận cho những du khách thích thú với những món ăn béo ngậy.

Lịch sử Bologna

Vùng đất quanh Bologna ngày nay đã từng có người sinh sống từ thế kỷ 9 TCN, khi các hổ khảo cổ được khai quật vào thế kỷ 19 ở khu vực Villanova, từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 6 TCN giai đoạn này đươc gọi là văn hóa Villanova.
Tới thế kỷ 4 TCN, cùng đất này bị nhóm người thiểu số gốc Cenltic gọi là Boii xâm chiếm, định cư và hòa trộn với dân cư gốc ở đây là người Enstrucans.

Đến những năm 196 TCN những chiến binh La Mã cổ đại tiến chiếm khu vực này , sau trận đánh Talemon, người Boii đành chấp nhận sự ảnh hưởng từ Cộng hòa La Mã. Quân đội La Mã đã tàn phá nhiều khu định cư và làng mạc của thổ dân và thành lập nên vùng lãnh địa Bononia

Vào giai đoạn từ năm 88 TCN trở đi Bologna có lúc đã trở thành thành phố quan trọng thứ nhì ở Italia về dân số, và các hoạt động thường mai. Bị cháy một phần rồi được xây dựng là dưới thời Nero vào thế kỷ 1. Sau khi đế chế La Mã tan rã, thành phố lần lượt trải qua sự chiếm đóng của nhiều triều đại châu Âu khác nhau.

Năm 1088, trường đại học Bologna được thành lập, được coi như là trường đại học cổ nhất vẫn còn hoạt động trên thế giới Tới thế kỷ 13, dân số vào khoảng 50.000 – 60.000 được coi là thành phố lớn thứ 5 tại châu Âu, chỉ sau Cordova, Paris, Venice và Florence và gắn kết với Milan tạo thành khu vực dệt may lớn nhất Ý.


Từ năm 1300, thành phố gặp nhiều thăng trầm với các cuộc chiến và nạn dịch hạch cướp đi sinh mạng nhiều ngàn người. Năm 1796 Napoleon chinh phục Bologna, lập thành thủ phủ của cộng hòa Cispandan trong một thời gian ngắn ngủi.Vào cuộc chiến Thế giới II, thành phố chịu những thiệt hại nặng nề bởi các trận ném bom của Lien quân vào hệ thống đường sắt và ngành công nghiệp.

Những điểm thăm quan

Bologna là môt thành phố nghệ thuật được trang trí lộng lẫy với những bảo tàng và phong cách kiến trúc kỳ diệu. Những nhà thờ được xây dựng từ thời ký Phục Hưng và sự đóng góp của nghệ thuật hiện đại đã biến Bologna thành một thành phố nổi bật nhất châu Âu. Đồng thời thành phố này cũng sở hữu những di sản văn hóa độc đáo để bạn tha hồ tham quan cả ngày không hết.

Nói cách khác, Bologona là một bảo tàng ngoài trời với những bồn tắm có từ thời La Mã cổ đại, những đền đài, những khán đài vùng cung ở giữa là hình vuông và những cung điện nổi tiếng mang phong cách kiến trúc Baroque

Sự cuốn hút của thành phố nằm ngay ở những vẻ đẹp vô hình mà khi bạn đặt chân đến tận nơi bạn mới cảm nhận được vẻ đẹp của nó.

Du khách cũng không nên bỏ qua một địa điểm du lịch hấp dẫn nhất của Bologna là Cung điện Bevilacqua. Cung điện nằm ở số 31-33 đường Via d’Azeglio, Cung điện Bevilacqua lúc đầu được biết với cái tên Palazzo Sanuti. Nó cũng là đại diện cho kiến trúc đầu thời kỳ Phục Hưng, thời kỳ thịnh vượng nhất ở châu Âu lúc bấy giờ.

Hiện nay, Palazzo della Mercanzia là nơi tọa lạc của Phòng thương mại, Công nghiệp, Nông nghiệp và Thủ công. Cuối thế kỷ 14, hoạt động kinh doanh của Bologna đã được xem xét từ Palazzo della Mercanzia.

Du lịch đến Bologna bạn sẽ có tha hồ điểm vui chơi tham quan hấp dẫn. Một trong số chúng là Palazzo Galvani. Được xây dựng từ thế kỷ 15 và được mở cửa hàng ngày như một bảo tàng vào năm 1881.

Cung điện Bevilacqua được xây dựng từ năm 1474-1482. Giống như một trong số những cung điện ở Florence, cung điện có một cổng vào khá đẹp, vẻ bề ngoài hoành tráng và sân bên trong cung điện hơi hẹp.

Ngày nay, cung điện với vẻ đẹp cổ kính đã thu hút hàng triệu khách du lịch đến tham quan và chiêm ngưỡng một kiệt tác của thời kỳ Phục Hưng.

Một địa điểm hấp dẫn du khách khi đến Bologna là khu thương mại Palazzo della Mercanzia. Nó kéo dài từ Piazza del Nettuno đến Piazza di Porta Ravegnana. Trung tâm thương mại được xây dựng năm 1384 theo phong cách kiến trúc Gothic.


Nhà thờ thánh Dominic

Thi thể của Thánh Dominic vẫn được chôn cất ở Bologna tại lăng tráng lệ trong nhà thờ St Dominics. Đây là một trong những nhà thờ đẹp nhất ở Ý và thành phố Bologna.
Nhà thờ có hai phần, đằng trước là gian giữa, hai lối đi và những hầm mộ và phần thứ 2 là nhà thờ dành cho tín đồ. Có một dốc thoai thoải giữa hai nhà thờ.

Bảo tàng Morandi được thành lập bên trong Palazzo d’Accursio. Viện bảo tàng này là một trong những điểm thu hút khách du lịch nhất của Bologna. Bảo tàng hiển thị tất cả các công việc của Morandi. Bảo tàng cũng là nơi trưng bày các tác phẩm nghệ thuật của họa sĩ Giorgio Morandi với 62 bức tranh sơn dầu, 18 bức tranh màu nước, 92 bức vẽ, 2 tượng điêu khắc và 2 bản khắc trên kim loại.

Nhà thờ San Pietro nằm trên đường Via dell Indipendenza, nó được thành lập năm 910. Có hai tòa nhà rộng lớn được xây dựng giữa năm 1390 – 1426.

Nhà thờ San Pietro chứa rất nhiều vật quý giá như các bức tranh của họa sĩ Carraci và con sư tử làm bằng đá cẩm thạch được đặt ngay lối vào. Nhà thờ được thiết kế bởi kiến trúc sư Antonio di Vincenzo.

Mặt chính của Nhà thờ San Pietro dài 132m và rộng 60m. Sân trong của tòa nhà được làm hoàn toàn bằng đá cẩm thạch.

Tòa nhà Palazzo Isolani cũng là điểm khá thú vị để ghé thăm. Tòa nhà tọa lạc ngay Strada Maggiore của Gologna, Đằng trước tòa nhà là khuôn viên với độ cao, cổng hình vòng cung cao 9m. Palazzo Isolani được xây dựng từ thế kỷ 15, nó chứa các yếu tố của 2 trường phái kiến trúc. Đó là trường phái kiến trúc Phục Hưng và Gothic của Gologna.

Palazzo Di Re Enzo nằm ở trung tâm của thành phố cổ , cách nửa cây số từ trung tâm thành phố cổ kính và 13 cây số từ sân bay quốc tế Marconi. Palazzo di Re Enzo là sự kết hợp tuyệt vời nhất của phong cách kiến trúc cổ và hiện đại. Palazzo di Re Enzo được xây dựng vào đầu thế kỷ 15 trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của thành phố Bologna.

Đất nước Ý từ lâu đã nổi tiếng với những ngọn tháp nghiêng của mình, thế nhưng trong khi với tháp nghiêng Pisa, mọi người đều nghe nhắc tới, thì ít người biết rằng ở Bologna, thành phố nổi tiếng với trường đại học lâu đời nhất thế giới, cũng có hai ngọn tháp nghiêng rất đặc biệt

Đó là tháp Asinelli và tháp Garisenda tại quảng trường Porta Ravegnana.

Ngọn tháp cao nhất là Asinelli, được xây dựng vào năm 1109, với độ cao hơn 100m (gần bằng một toà nhà 30 tầng). Khách tham quan phải leo 498 bậc thang để lên đến đỉnh. Ngọn tháp này nghiêng 1,3m.

Kể cũng không uổng công khi phải bỏ sức để leo gần 500 bậc thang, bởi trên đỉnh là một tầm nhìn rộng bao quát cả thành phố và các vùng ngoại ô.Ngọn tháp kia, tháp Garisenda, được xây dựng vào năm 1267, cao 49m. Nó nghiêng đến… 3m! Cũng do độ lệch này mà ngọn tháp không dành cho khách tham quan.

Lịch sử của những ngọn tháp của thành phố Bologna được biết đến với khoảng 180 ngọn tháp, được xây dựng vào thời Trung cổ. Với mục đích làm biểu tượng cho những gia đình giàu có thời bấy giờ. Sau đó, những ngọn tháp này được chuyển đổi chức năng thành nhà tù, cửa hàng hoặc nhà ở. Nhiều ngọn tháp bị phá huỷ hay sụp đổ vào thế kỷ 13. Lần cuối cùng người ta phá huỷ một số tháp là vào những năm đầu thế kỷ 20, dựa trên kế hoạch tái thiết thành phố, một kế hoạch đầy nuối tiếc khi nhìn lại.

Trải qua gần 1.000 năm lịch sử, ngày nay, dù số lượng chỉ còn khoảng 20 tháp nhưng những ngọn tháp này vẫn trong điều kiện tốt nhờ được được bảo quản, trùng tu cẩn thận.
Và hai ngọn tháp nghiêng này đã trở thành một trong những biểu tượng chính của thành phố Bologna.

Rời Bologna điểm đến tiếp theo của chúng tôi – Florence , thiên đường cổ kính

II. Florence


Florence ( source from internet)

Florence là một trong những thành phố đẹp nhất thế giới. Thậm chí nhiều người còn gọi nó là một thành phố tráng lệ, tính từ chỉ dùng cho những kiệt tác kiến trúc mà thôi.
Florence là thủ phủ của vùng Tuscany với hơn nửa triệu người nhưng là một trong những điểm du lịch “nóng” nhất châu Âu bởi kiến trúc độc đáo. Thành phố hàng ngàn năm tuổi này không chỉ ghi điểm bởi sự cổ kính mà còn là một trong những cái nôi văn minh suốt 4 thế kỷ (từ XIV-XIX).

Năm 1860,Tuscany trở thành một phần của Vương quốc Italy và Florence được chọn là thủ đô từ năm 1865-1871 và đóng vai trò quan trọng với tư cách là trung tâm văn hóa và nghệ thuật của Italia. Theo thống kê của UNESCO thì 60% những công trình kiến trúc quan trọng nhất của nhân loại nằm tại Italia và có đến một nửa trong số là thuộc về Florence.

Tại đây, người ta có thể bắt gặp những tòa lâu đài cổ, những ngôi nhà thờ, những viện bảo tàng đầy ắp những bức tranh quý hiếm cùng những bức tượng quý giá. Những công trình kiến trúc dày đặc và quý giá không kém gì Rome hay Venice. Cũng dễ hiểu vì Florence là quê hương của phong trào Phục hưng. Nó là sự kết hợp giữa vẻ đẹp tự nhiên cùng những gì tinh túy nhất trong nghệ thuật kiến trúc Phục hưng với tinh thần của Leonardo da Vinci, Dante, Boccaccio, Michelangelo… hiển hiện trên từng con phố.

Một trong những điểm nhấn của Florence là kiến trúc nhà thờ với những mái nhọn đặc trưng của kiến trúc Gothic và nghệ thuật Moorish. Công trình đáng chú ý nhất chính là nhà thờ Duomo of Florence (Brunelleschi) được phủ bằng cẩm thạch. Đây là nhà thờ rộng thứ 4 châu Âu. Florence cũng là nơi tập trung những nhà thờ lớn nhất Italia từ Duomo of Florence, San Lorenzo, Santa Maria Novella đến Santa Croce. Có thể bắt gặp lối kiến trúc này ở bất cứ nơi nào tại Florence.

Thời Phục hưng bắt nguồn từ Florence không chỉ là niềm tự hào của người Italia mà nó còn đi vào lịch sử như giai đoạn phát triển nhất của văn hóa châu Âu. Bức tượng 500 năm tuổi nổi tiếng David của Michelangelo cũng được đặt tại Florence. Trong thời Phục hưng, Florence được chọn đặt những công trình kiến trúc để đời từ cung điện đến các viện bảo tàng, gallery…
Bảo tàng nổi tiếng nhất Florence là Uffizi, nơi lưu giữ những tác phẩm vô giá của Botticelli, Leonardo da Vinci, Michelangelo, Titian và Rubens, những người khổng lồ của văn hóa Ý.


Bảo tang Uffizi

Lịch sử Florence

Florence ra đời vào năm 50 trước Công nguyên, khi những người lính của hoàng đế Cesar bắt đầu xây dựng những doanh trại ở đây. Nằm ở đoạn giữa con đường nối liền thủ đô Rome với miền Bắc nước Ý, lại nằm trong thung lũng phì nhiêu của con sông Arno, nên dần dần Florence trở thành một trung tâm thương mại và chính trị quan trọng.
Vào thế kỷ XIII, Florence là một trong những thành phố lớn của nước Ý, nơi diễn ra những hoạt động chính trị và văn hóa nổi tiếng. Trong số những gia đình có thế lực ở Florence, nổi lên gia tộc Medicis cai trị Florence từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII. Một phụ nữ trong gia tộc này đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong lịch sử nước Pháp, đó là bà Catherine de Medicis, hoàng hậu nhiếp chính nắm hết quyền hành nước Pháp dưới ba triều vua Françios II, Charles IX và Henri III, tất cả đều là con trai của bà.

Nhờ sự bảo trợ của dòng họ Medicis, các hoạt động văn học nghệ thuật phát triển rực rỡ. Chính từ Florence, xuất hiện một phong trào canh tân trong các lĩnh vực thơ ca, hội họa, điêu khắc, kiến trúc (với những tên tuổi lừng danh như Michel Ange, Léonard de Vinci, Raphaël, Botticelli, Donatello, Brunelleschi…) rồi sau đó lan sang các thành phố khác ở Ý và các nước châu Âu, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử châu Âu được gọi là thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XV và XVI).

Nhờ đó mà tư tưởng con người được giải phóng khỏi ý thức hệ tôn giáo thần quyền khắc nghiệt chế ngự suốt mười thế kỷ trong thời kỳ Trung cổ (từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XV). Cũng vì vậy mà Florence được mệnh danh là “cái nôi của thời kỳ Phục hưng”.
Khi các cường quốc ở nước Ý được thống nhất thành một vương quốc duy nhất, Florence trở thành kinh đô của Ý trong sáu năm (từ 1865 đến 1871). Sau đó, thủ đô được chuyển về thành phố Rome . Ngày nay, Florence là thủ phủ của vùng Toscane và là thành phố du lịch nổi tiếng với số dân gần 500.000 người.

Trung tâm kiến trúc tôn giáo tiêu biểu

Trước hết là giáo đường Santa Maria del Fiore, một kiến trúc đồ sộ bằng đá cẩm thạch với chiều dài 150m, chiều ngang 40m và chiều cao 40m. Phía sau giáo đường là một mái vòm lợp ngói đỏ, có chiều cao 91m. Đây là thánh đường công giáo lớn thứ ba trên thế giới, sau thánh đường Saint Pierre ở Rome và Saint Paul ở London.

Thánh đường được khởi công xây dựng từ năm 1296, mãi đến năm 1436 mới hoàn thành về cơ bản. Rất nhiều thế hệ kiến trúc sư, nghệ sĩ tham gia xây dựng công trình này. Còn tòa nhà mái vòm được xây dựng từ năm 1420 và hoàn thành năm 1434. Đây là công trình của kiến trúc sư Brinelleschi (1377-1446), một trong những người khởi xướng của phong trào Phục hưng trong lịch sử châu Âu.

Bên cạnh giáo đường là Tháp chuông (Campanile) cao 89m, công trình do Giotto bắt đầu xây dựng từ năm 1334 và được các học trò của ông hoàn thành vào năm 1359 (Giotto mất năm 1337). Tháp chuông có hình vuông (bốn cạnh bằng nhau), dáng vẻ rất thanh thoát nhờ những cửa sổ rất cao ở mỗi tầng, mái tháp bằng phẳng chứ không nhọn như các tháp chuông khác, do đó du khách có thể lên đến mái tháp để thưởng ngoạn toàn cảnh thành phố Florence.

Đối diện với giáo đường là Nhà rửa tội (Baptistère) Saint Jean, có hình bát giác, được xây dựng từ giữa thế kỷ XI. Ngôi nhà này có ba cánh cửa bằng đồng, với những hình ảnh chạm trổ rất công phu, tái hiện lại những câu chuyện trong Kinh thánh. Đặc biệt, cánh cửa thứ hai và thứ ba là công trình của Ghiberti (1378-1455) là những tuyệt tác về điêu khắc trên đồng. Cánh cửa thứ ba đẹp nhất, được Michel-Ange gọi là Cánh cửa thiên đàng, thể hiện hết sức sinh động nội dung Cựu Ước (Ancien Testament) trong Kinh thánh.


Gíao đường nổi bật giữa các công trình kiến trúc khác khi nhìn từ trên cao

Kho tàng tác phẩm nghệ thuật thời kỳ Phục hưng
Người ta nói rằng gần một nửa công trình kiến trúc cổ và tác phẩm nghệ thuật của nước Ý nằm ở Florence, đặc biệt là các tác phẩm thời kỳ Phục hưng.
Về nhà thờ, ngoài thánh đường Santa Maria del Fiore, còn có các nhà thờ nổi tiếng đều được xây dựng từ thời Trung cổ.

Các dinh thự cổ nguy nga lộng lẫy có quy mô rất hoành tráng hiện nay là trụ sở của nhiều bảo tàng và galerie tranh.
Các nhà thờ và dinh thự kể trên đều lưu giữ nhiều tác phẩm tranh và tượng, bích họa, phù điêu vô cùng quý giá. Trong đó, có hai viện bảo tàng nổi tiếng nhất ở Florence là Viện hàn lâm nghệ thuật (thế kỷ XIV) và Viện bảo tàng Uffizi, được xây dựng từ năm 1560. Đây là nơi lưu giữ những tác phẩm hội họa và điêu khắc vô giá của những người khổng lồ của nền văn hóa Ý thời kỳ Phục hưng: Botticelli, Michel Ange, Léonard de Vinci, Raphaël, Andrea del Sarto, Fillippino Lippi, Titren, Tintoret, Véronèse…


Piazza della Signoria với mái hiên Loggia dei Lanzi, nơi có nhiều tác phẩm điêu khắc rất đẹp.


Chàng David ( bản copy)


Thần Herculus


Perseus ( con của than Zeus) cầm thủ cấp của Medusa ( vốn là cô gái xinh đẹp bị biến thành con quái vật) trong thần thoại Hi Lạp


Menelaus nâng đỡ thân thể Patroclus
( câu truyện liên quan đến cuộc chiến thành Troy, Patroclus là em họ Achilles và là người đóng giả Achilles đánh nhau với quân thành Troy và bị Hector giết, Menelaus là Vua xứ Sparta, vì vợ ông là Helen đi theo chàng trai Paris của thành Troy nên nhờ anh mình tiến đánh đòi lại vợ)


Herculus đang chế ngự Centaur đầu người mình ngựa


Cưỡng đoạt Polyxena – Rape Polyxena
( Polyxena là con gái của Vua thành Troy, sau khi chiếm được thành Troy và giết 2 người anh Achille định mang xác đi, bức tượng mô tả Polyxena cố gắng ngăn cản và hi sinh thân mình để đòi lại xác của hai người anh. Sau này Achilles đã yêu cô và chỉ ra điểm yếu của mình – gót chân và dẫn tới cái chết của Achilles)

Các viện bảo tàng ở Florence hầu hết là bảo tàng nghệ thuật. Ngoài ra, còn có Bảo tàng lịch sử khoa học, trưng bày những hiện vật và tư liệu về sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên vào các thế kỷ XVI, XVII và XVIII. Trong bảo tàng này, du khách có thể chiêm ngưỡng những bản đồ thời Trung cổ, những dụng cụ đo thời gian và nhiều dụng cụ khoa học cổ xưa khác. Đặc biệt ở đây còn lưu giữ chiếc kính thiên văn do Galilée (1564-1642) chế tạo và còn giữ cả một ngón tay của ông.

Ponte Vecchico

Cầu được xây từ thời La Mã (lần đầu được tài liệu ghi nhận là năm 996), kết nối giữa hội trường thành phố Palazzo Vecchio và Palazzo Pitti. Một bên đầu cầu vẫn còn hòn đá khắc lời của nhà thơ Dante.
Nhìn từ xa bạn khó mà nghĩ rằng đó là một cây cầu. Bởi không có xe cộ chạy qua, không có thành cầu, chỉ có hai dãy nhà cổ như đang nằm lơ lửng ngang qua sông Arno. Những căn nhà be bé này có từ sau trận lụt năm 1333, với mục đích được ban đầu là để làm cửa hàng buôn bán. Thời ấy, nhờ có làn gió mát mẻ và không khí trong lành trên sông, những người thợ thuộc da quyết định nhóm họp ở đây để kinh doanh, hy vọng gió sông có thể làm bay đi mùi khó chịu của da thuộc mà họ phải ngâm suốt 6 tháng trong nước tiểu ngựa.

Không lâu sau, thấy mảnh đất này “địa lợi”, những người bán hàng lưu niệm, bán thịt, thợ vàng cũng đua nhau kéo về đây lập nghiệp. Được sự cho phép của quan tòa, chính quyền thành phố, cảnh sát khu vực và chủ đất, những người bán để mặt hàng kinh doanh lên chiếc bàn của họ trên cầu. Nếu một thương nhân làm ăn thất bát, không trả được tiền thuê mặt bằng trên cầu, cảnh sát sẽ đến đập gãy chiếc bàn mà họ dùng để bày bán hàng hóa. Mất bàn đồng nghĩa với việc không thể làm ăn được nữa.
Dưới chân cầu Ponte Vecchio, nước sông Arno vẫn cứ trôi đi nhịp nhàng với thời gian. Hàng thế kỉ đã trôi qua, có một cây cầu như Ponte Vecchio vẫn đứng đó

Trong Thế chiến thứ hai, tất cả cầu trên sông Arno đều bị phát xít Đức phá hủy, chỉ có cầu Ponte Vecchio là còn nguyên vẹn. Hai bên thành cầu là những dãy hàng quán nhỏ chuyên bán đồ nữ trang và lưu niệm. Trên mặt cầu, còn có một hành lang có mái che bắt đầu từ Viện bảo tàng Uffizi bên khu phố cổ, vượt qua sông Arno trên cầu Vecchio và chạy đến dinh thự Pitti bên kia bờ sông.

Chúng tôi dừng lại giữa cầu để ngắm nhìn con sông Arno thơ mộng lững lờ chảy bên dưới, ghé vào những gian hàng nhỏ bên cầu, với những du khách tấp nập mua hàng lưu niệm – một cảnh tượng thú vị hiếm có.

Âm nhạc Ý có  tình ca nhắc đến cây cầu này, đó là  bài “O mio babbino caro”, bài hát nói về tâm trạng đang trong thời yêu đương của một cô gái. Cô năn nỉ bố mua cho chiếc nhẫn cưới, nếu không thì sẽ lên cầu Vecchio nhảy xuống sông Arno tự vẫn.

Hãy cùng nghe giai điệu nhẹ nhàng từ bài hát ấy

Quảng trường Michel-Angelo

Điểm đến cuối cùng trong ngày của chúng tôi là quảng trường Michel-Ange rộng lớn, nằm ở vị trí cao 100m so với mặt biển, từ đây có thể nhìn toàn cảnh Florence và bao quát cả những ngọn đồi bao quanh. Có thể nhìn rõ cầu Ponte Vecchio với những hàng quán trên thành cầu. Xa hơn nữa là những nhà thờ với tháp chuông, những tòa lâu đài vượt lên trên mái ngói của những ngôi nhà cổ.

Ngay giữa quảng trường là bức tượng David cao 5m, tác phẩm của Michel-Ange (1475-1564). Đây là phiên bản bằng đồng, còn nguyên bản bức tượng bằng đá cẩm thạch cũng cao 5m được lưu giữ trong Viện bảo tàng nghệ thuật Florence. Michel-Ange mất bốn năm để hoàn thành bức tượng này, khi ông mới 26 tuổi.

David là nhân vật trong Kinh thánh, nổi tiếng vì đã giết chết tên khổng lồ Goliath bằng cách dùng ná bắn đá vào giữa trán của hắn và về sau trở thành vua của người Do Thái. Bức tượng David của Michel-Ange đã đạt đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật điêu khắc, là tác phẩm vô giá trong kho tàng nghệ thuật của nhân loại. Ai đã đến Florence cũng mong được chiêm ngưỡng bức tượng David, hoặc chí ít cũng được xem phiên bản của bức tượng này.


Cảnh Florence nhìn từ quảng trường Michel Angelo

Rời quảng trường , trở về những con phố cổ. Khu nhộn nhịp nhất Florence là quảng trường Nhà thờ lớn và quảng trường Signoryia, trung tâm hành chính của thành phố. Nơi này, theo truyền thuyết, Dante – cha đẻ của văn học và ngôn ngữ Italy ngày nay đã lần đầu gặp Beatrix – nàng thơ của đời mình. Nơi này, nền cộng hòa Florence đã trỗi dậy và đã sụp đổ.

Những con phố của Florence ngày nay vẫn mang bóng dáng thời trung cổ: dài dằng dăc và quanh co, chật hẹp và u ám, bị bủa vây bởi các bức tường đá xám xịt, luôn dẫn tới một tu viện lạnh lẽo hay mở ra quảng trường mênh mông, đông đúc người qua lại.


Nữ nghệ sỹ biểu diễn ở quảng trường

Nhịp sống nơi đây chậm rãi, rất hiếm khi du khách thấy cư dân địa phương tỏ ra vội vã hay gấp rút trong bất kì hoàn cảnh nào. Những chiếc Vespa cổ lỗ thong thả lướt trên đường, những quán café vỉa hè lúc nào cũng đông khách. Có vẻ như người Florence rất biết cách tận hưởng mỗi ngày trôi qua trong cuộc đời của họ.


Cảnh chiều trên dòng sông Arno

Những danh thắng khác vùng Tuscany
Chúng tôi chọn một chương trình thăm quan từ một hãng du lịch nổi tiếng tại Florence có tên là Walkabout Florence, tour sẽ đưa chúng tôi tới những nơi nổi tiếng nhất của vùng Tuscany

Thành phố Siena – Bước lại Tuscany thời Trung cổ

Như rất nhiều thành phố nhỏ xinh đáng yêu mang dáng hình của thời Trung Cổ, chuyến thăm tới Siena có giá trị cho dù chúng tôi chỉ có vài giờ ở đây, Trái tim của Siena chính là quảng trường trung tâm với tên là Il Campo, được biết đến với cuộc đua ngựa truyền thống hai lần vào mùa hè trong một nămm khán giá xem phim chắc không quên Siena và quảng trường này trong bộ phim 007 mang tên Quantum of Solace.

Truyền thuyết kể rằng Siena xây dựng bởi Senius, con của Remus – một trong hai anh em song sinh nổi tiếng được một con chó sói cái cưu mang và sau này đã lập nên thành Rome, vì thế bạn có thể thấy biểu tượng của Siena mang hình một con sói cái đang cho cặp song sinh bú . Thành phố Siena được xây dựng trên 3 ngọn đồi với trung tâm là quảng trường Campo mà thời kỳ La Mã, quảng trường này chính là là nơi hội họp của các vị chức sắc.

Quảng trường Campo hình con sò, trũng ở giữa được bao quanh bởi nhiều tòa nhà trong đó có Palazzo Pubblico, nhà thờ Duomo of Siena và Torre del Mangia

Hàng năm tại quảng trườn
Tháp này được xây đúng bằng chiều cao của nhà thờ Doumo of Siena như một chỉ dấu cho rằng quyền lực của chính quyền và nhà thờ vào thời điểm đó là bình đẳng

g này có một sự kiện nổi tiếng thế giới là hội đua ngựa có tên Palio di Siena tổ chức vào ngày 02 / 7 avà ngày 16/8 thu hút hàng trăm ngàn du khách và cư dân trong vùng ghé thăm

Ngọn tháp Torre del Mangia nghĩa là tháp của kẻ phàm ăn, để tưởng nhớ người trông coi đầu tiên của tháp được xây dựng trong khoảng thời gian từ 1338 – 1348 Là tòa tháp cao thứ 3 trong các tòa tháp còn ttòn tại từ thời trung cổ của Ý, nó cao 88m xếp sau Tòa Cremona Torrazo ( 112m) và toà Asinelli ( 97m) ở Bologna như đã đề cập trên phần dầu


Hòa theo dòng du khách chúng tôi lọt vào những con phố nhỏ lát gạch ngoằn ngoèo nằm giữa những dãy nhà cổ kình, cho dù vào tháng 7 này, Siena như vào thời điểm nóng nhất trong năm, nhưng tôi vẫn cảm thấy lòng như dịu lại dưới bóng nhà hai vệ đường

Theo chân hướng dẫn viên, chúng tôi tới tòa nhà được coi là Ngân hàng cổ nhất thế giới hiện còn hoạt động đó là Banca Monte dei Paschi di Siena, được thành lập từ năm 1472 của ngừoi trị vì Cộng hòa Siena lúc đó và cho đến hôm nay Ngân hàng này vẫn hoạt động trải qua gần 550 năm không bị gián đoạn


Đến ngày hôm nay Ngân hàng có 3000 chi nhánh khắp nước Ý với khoảng 30 ngàn nhận viên, 4,5 triêu khách hàng, đứng thứ 3 trong số các ngân hàng lớn nhất thuộc Ý

Nhà thờ Duomo, được xây dựng giữa năm 1215 và 1263 và được thiết kế bởi Nicola Pisano, một nhà thiết kế kiến trúc Gothic nổi tiếng. Nếu bạn nhìn từ trên trời bạn có thể thấy rằng việc xây dựng trông giống như cây thập tự Latin, và bên trong nhà thờ là một số tác phẩm quan trọng của nghệ thuật: như Lễ Herod của Donatello, Saint Jerome của Bernini và Saint Peter và Florentine Pietà bởi Michelangelo.

Nhà thờ Siena không hoành tráng như thành đường ở Florence, nhưng sự tinh xảo trong nghệ thuật Gothic vẫn còn in đậm trên kiến trúc và ở các bức tranh nằm ở phòng triễn làm trong nhà thờ

Fattoria Poggio Alloro

Rời Siena chúng tôi tới một nông trại trồng nho, olive. Nói tới Tuscany những người sành rượu vang đều nhật trí rằng, ở đây là nơi sản xuất ra những chai rượu vang nổi tiếng hơn bất cứ vùng nào trong nước Ý, đó là bởi khí hậu và thổ nhưỡng ở đây tạo ra được những giống nho ngon nhất.

Nơi chúng tôi tới thăm là nông trại có tên Fattoria Poggio Alloro

Phong cảnh vùng nho với hình ảnh xa xa của những tháp ở thành phố San Gimognano


Nho trắng đang vào lúc trưởng thành


Một bữa trưa được dọn ra với 3 loại vang của nông trại . Thật là một bữa ăn ngon và ấn tượng ( from Fattoria Poggio Alloro website)

Sau bữa trưa điểm thăm quan tiếp theo là San Gimignano

San Gimignano
Thành phố San Gimignano chính thức có tên trong lịch sử từ thế kỷ thứ 10. Thành phố lấy tên của vị giám mục Saint Gimignano, người tỉnh Modena của Ý để tưởng nhớ đến vị anh hùng giúp dân đánh đuổi quân xâm lược.

Thành phố San Gimignano, hay còn có cái tên “Thành phố của những ngọn tháp đẹp” tọa lạc trên ngọn đồi tại tỉnh Siena, vùng Tuscany. Có đến 14 tòa tháp thời Trung cổ vẫn còn nguyên vẹn, hình thành nên đường chân trời độc đáo mà bạn có thể nhìn thấy dễ dàng khi tham quan thành phố. Ngày xưa, nơi đây có đến 72 tòa tháp do các lãnh chúa thời Trung cổ xây dựng nhằm phô trương sự giàu có và quyền lực của mình. Trong thời Trung cổ, San Gimignano có vị trí thuận lợi nằm trên con đường giao thông tấp nập Via Francigena nên thành phố đã nhanh chóng trở thành một trung tâm buôn bán tấp nập cho những người đến hay đi từ Rome, Ý.

Để vào thăm quan trung tâm lịch sử của thành phố San Gimignano, khách thăm quan sẽ phải đi qua bức tường thành bao quanh thành phố được xây dựng từ thời trung cổ.Những công trình được xây dựng phía trong bức tường thành này được gọi chung là trung tâm lịch sử của San Gimignano.

Phía sau bức tường thành dài là 4 quảng trường Trung cổ lớn với 2 con đường chính là Via San Matteo và Via San Giovanni, 14 tòa tháp cổ, Nhà thờ, cung điện, bảo tàng khảo cổ, bể giặt quần áo công cộng, bảo tàng tra tấn…

Trung tâm lịch sử của San Gimignano nằm trên một ngọn đồi và được bao bọc bởi một cánh rừng ngập tràn oliu, hoa hướng dương và nho vì thế càng làm cho những công trình ở đây thêm phần đẹp và lãng mạn.

Thời trung cổ , thành phố San Gimignano hưng thịnh chủ yếu nhờ vào việc sản xuất hương liệu, nhiều nhất là chế biến nghệ tây thành hương liệu rồi bán cho các thành phố khác. Chính thời kỳ giàu có đó, giới quý tộc, lãnh chúa ở đây đua nhau xây dựng tháp để tượng trưng cho quyền lực, của cải của mình, đồng thời để canh giữ kẻ thù – những thế lực đối đầu

Đầu tiên chỉ có vài ba tháp được xây dựng, sau đó để ganh đua nhau, giới quý tộc ở đây đã cho xây dựng hàng loạt tháp, giai đoạn nhiều nhất ởSan Gimignano có tới 72 tháp.
Hiện nay, San Gimignano còn lại 14 tháp và trong số các tháp còn lại đó chủ yếu được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ XI đến thế kỷ thứ XIV.

Những khu mua sắm dọc theo những con đường của San Gimignano nổi tiếng với những sản phẩm hảo hạng như dầu ô liu, rượu và pasta. Ngoài ra, cũng có những cửa hàng bán khăn trải bàn làm bằng tay, những sản phẩm vải sợi cũng như những đồ gia dụng được làm bằng gỗ ô liu do thợ thủ công địa phương chế tác. Cửa tiệm dọc đường Via San Matteo và Via San Giovanni vẫn giữ được cấu trúc thời trung cổ. Bạn sẽ thấy rằng những kinh nghiệm thú vị vì mua sắm ở đây rất khác xa với bất kỳ khu phố mua sắm hiện đại nào.

Điểm cuối trong chương trình là thành phố có tòa tháp nghiêng nổi tiếng : Pisa
Pisa

Tọa lạc tại Piazza dei Miracoli (Cánh đồng của những điều kỳ diệu), miển Trung Pisa, phía Tây Bắc nước Ý, tháp nghiêng Pisa là một trong bốn công trình quan trọng của khu phức hợp gồm nhà thờ,nhà nguyện và nghĩa trang được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

Tháp nghiêng Pisa được xây dựng vào năm 1173 để chứng minh cho thế giới biết sự giàu có, thịnh vượng của thành phố Pisa, nơi đã sản sinh ra những thủy thủ tài ba, nhà hàng hải lỗi lạc từng chinh phục nhiều vùng đất mới từ Jerusalem tới Carthago, Ibiza, Mallorca, Châu Phi, Bỉ, Anh, Nauy, Tây Ban Nha và một số nơi khác.
Ban đầu tháp được xây thẳng đứng trên nền đá thô, với phần chân tháp âm xuống dưới đất 3m. Tuy nhiên vì diễn ra cuộc chiến với Florence nên việc thi công bị đình trệ.

Năm 1180, mọi việc bắt đầu lại, người ta hoàn thành được 3 tầng tháp, lúc này nền đất bị lún và tháp bắt đầu nghiêng, cũng vì vậy tháp đã được kèm thêm chữ nghiêng ngay từ khi việc xây cất chưa hoàn thành. Để hạn chế độ nghiêng, những nhà thiết kế đã cố xây dựng các cột và mái vòm phía bắc cao hơn. Nhưng chiến tranh với Florence một lần nữa lại xảy ra, do đó việc xây tháp tạm dừng để ưu tiên cho cuộc chiến.

Sau gần 100 năm, tòa tháp vẫn trong tình trạng dở dang và đất dưới móng tiếp tục sụt dần. Năm 1272, công trình được xây dựng tiếp, người ta cố gắng điều chỉnh độ nghiêng nhưng không đạt kết quả như mong đợi và đến năm 1278 sau khi hoàn thành 7 tầng thì công trình bị hoãn lại.

Mặc dù tháp bị lún dần và nhiều lúc ở mức báo động nhưng điều này cũng không ngăn các nhà chức trách và công nhân tiếp tục quá trình xây dựng của họ. Cuối cùng tháp nghiêng Pisa cũng được hoàn tất vào khoảng giữa những năm 1360 – 1370. Và để giữ cho tòa tháp cân bằng họ đã đặt tháp chuông trên tầng 8 nghiêng nhiều về hướng bắc.

Theo thời gian, độ nghiêng của tháp ngày càng tăng lên, người ta lo sợ đến một lúc công trình vĩ đại này sẽ sụp đổ. Đã có lúc các nhà chức trách phải đóng cửa tham quan để bảo dưỡng. Cho đến nay sau nhiều nỗ lực của các nhà nghiên cứu tháp nghiêng đã được dựng thẳng hơn chỉ còn nghiêng 3,9 độ và có thể tồn tại trong ít nhất 200 năm nữa.


Tháp Pisa và “tháp” Peroni

Ngày cuối cùng ở Florence, chúng tôi quyết định đi tới một địa danh rất nổi tiếng nằm ở tỉnh Genoa được rất nhiều khách du lịch khen ngợi , đó là Cinque Terre – năm ngôi làng đầy màu sắc

Cinque Terre – Những sắc màu rực rỡ

Cinque Terre tiếng Ý có nghĩa là năm vùng đất nằm trên dải bờ biển Địa Trung Hải , thuộc tỉnh Genoa . Vùng đất này gồm năm làng chài có tên lần lượt Riomaggiore – Manarola – Corniglia – Vernazza – Monterosso nằm trên 5 mỏm núi nhô ra biển, Núi không to ra, cũng chẳng bị phá đi hay san phẳng, do vị trí đặc biệt như thế nên 5 ngôi làng nhỏ từ bao đời nay vẫn xinh xắn nguyên vẹn, hầu như không bị mở rộng hay xây dựng thêm.

Trừ những xe chuyển hàng hoặc xe của dân làng có giấy phép đặc biệt, ôtô của khách du lịch như chúng tôi không được vào làng, xe chúng tôi thả mọi người tại bãi đỗ gần nhất rồi từ đó chúng tôi sẽ dùng các đường khác nhau để đến thăm từng làng : đường bộ, đường sắt và đường biển Chuyến thăm của chúng tôi vì chỉ thực hiện trong ngày nên chúng tôi sử dụng nhiều nhất là đường sắt là các đường hầm trong lòng núi, nối làng này tới láng kia trong khoảng 10 phút đi tàu
Nếu có thời gian dài hơn, bạn có thể đi bộ leo núi ( hiking) sẽ còn có nhiều thứ thú vị hơn


Cảnh ở ngồi làng đầu tiên Riomaggiore


Đường bộ treo leo với cảnh biển Địa Trung Hải nối đến làng thứ hai, con đường này được du khách rất thích sử dụng vị địa thế đẹp và vào những khoảng thời gian bình minh hoặc hoàng hôn


Via del Amore – Con đường tình yêu nối hai làng Riomaggiore và Manarola

Những ngôi nhà cheo leo ở làng Manarola. Nhà ở Manarola và các làng khác ở Cinque Terre đều được xây theo dạng hình tháp (tower house) dựng đứng theo sườn núi, nhà sau cao hơn nhà trước, không nhà nào chắn mất cảnh biển của nhà nào


Lối đi trong làng Manarola

Trừ làng ở giữa trong 5 làng – Corniglia ở hẳn trên cao và không có bến cảng cho tàu bè vào từ đường biển, 4 làng còn lại đều vào được bằng thuyền. Làng nhỏ phố nhỏ, mỗi làng dường như chỉ có một phố chính ở giữa, hai bên là hai dãy nhà hàng, cửa hiệu, trên cao hai bên sườn núi là những đường nhỏ lên nhà dân, những ngôi nhà hình tháp.


Ăn trưa tại làng thứ 3 Corniglia


Làng thứ 4 – Venazza


Khách du lịch thỏa sức bơi và phơi nắng
Làng thứ 5 Monterosso



Chúng tôi đi thuyển sang làng 5

Làng Monterosso được coi là làng rộng và đông du khách tới thăm vì có bãi tắm dài và nước trong . Làng được chia làm hai phần khu phố cổ và khu mới cách nhau bởi một đường hầm dành cho người đi bộ


Dù cát không mịn nhưng đươc coi là bãi tắm ít ô nhiễm nhất Địa Trung Hải



Khu mới của làng có nhiều khách sạn và nhà cao tầng


Tự thưởng thức một ly bia ở điểm dừng chân cuối cùng

Kết thúc những ngày thăm quan Florence chúng tôi ra ga nam tiến tới Roma – Thành phố vĩnh hằng


Ga Florence buổi sáng

III. Roma và Vatican

Trong quá trình tìm tư liệu cho bài viết tình cờ tôi đọc được bài viết rất hay về Rome của bạn Chitto viết từ năm 2009 trên diễn đàn phuot.com, tuy đã nhiều năm nhưng vẫn y nguyên tính thời sự như chuyến thăm này của tôi, mượn gần như nguyên phần viết của bạn Chitto về thành phố Rome và bao gồm Vatican để chia sẻ cũng các bạn


Những gì còn lại của Rome hơn 2700 năm trước

Rome, tên đúng tiếng Latin gốc là Roma. Thực tế hiện nay ở Italia người ta dùng Roma để chỉ thành phố cổ (nội thành), Rome để chỉ cả khu vực rộng lớn hơn bao quanh thành cổ.

Lịch sử Roma cũng là lịch sử của Roman (La Mã), của nền văn minh bao quanh Địa Trung Hải.

Truyền thuyết về Roma là một câu truyện cổ tích đậm màu sắc Hy Lạp, và người La Mã yêu truyền thuyết đó đến độ nó xuất hiện ở khắp nơi, không chỉ ở Roma mà còn khắp nước Italia.

Truyền thuyết Thành Roma

Truyền thuyết kế tục Thần thoại Hy Lạp về thành Troy huyền thoại, đô thành vĩ đại nhất châu Á. Khi quân Hy Lạp tấn công và tiêu diệt Troy, một vị vương tử là Aeneas, con một người em của vua Priam và Nữ thần Aphrodite đã mang cha già, vợ con, và đặc biệt là những bức tượng thờ thiêng liêng của tổ tiên dân tộc mình chạy sang vùng bán đảo Italia. Tại đây ông tạo dựng vương quốc của mình, đóng đô tại Alba Longa, kế thừa các đô thành Troy huy hoàng trong quá khứ.

Aeneas truyền được 13 đời, đến vua Numitor. Em trai của Numitor là Amulius đã cướp ngôi của anh, giam cầm anh mình. Được một lời tiên đoán rằng đứa con do con gái Numitor sinh ra có thể lật đổ mình, kẻ cướp ngôi buộc người con gái của Numitor, tên là Rhea Silvia trở thành thánh nữ hiến tế, giam cầm để giữ trinh tiết trong đền thờ.

Nhưng nàng công chúa Rhea Silvia đã được thần Ares (thần chiến tranh, tên Latin là Mars) yêu thương trong đền, nên sinh đôi hai đứa con trai. Chúng liền bị bỏ trong một cái giỏ để ra ngoài đồng trống cho chết. Nhưng nước sông Tiber dâng lên, cuốn cái giỏ ấy đến một bờ bụi. Và tại đó, một con sói cái đã cho hai anh em bú sữa lớn lên.

Đến ngày nọ một người chăn cừu phát hiện hai đứa trẻ trong ổ sói, đã đem về và đặt tên là Romulus và Remus, nuôi chúng trưởng thành, thành những chàng trai phi thường. Trong cuộc đấu thể thao tại kinh thành, Amulius nhận thấy đây không thể là con của một người chăn cừu, và hỏi cặn kẽ. Hai anh em sau khi biết được thân phận mình đã giết Amulius, giải phóng cho mẹ và lấy lại ngôi cho ông ngoại Numitor.
Thấy vùng Alba Longa của ông ngoại quá chật hẹp, hai anh em đã tìm đến nơi họ được con sói cái nuôi dưỡng, xây dựng lên thành phố của riêng, cùng nhau cai trị. Romulus chọn đồi Palatine để dựng thành phố, cạnh con sông Tiber.

Khi Romulus đang xây dựng tường thành, thì người em Remus bước qua bức tường xây dở. Đó là điềm gở báo rằng thành phố sẽ bị xâm chiếm và sụp đổ. Trong cơn giận dữ, Romulus đã giết người em của mình, và trở thành vị vua duy nhất. Romulus chiêu mộ tất cả những người lưu lạc, tha hương, tội phạm, tù bỏ trốn…, đến vùng đất của mình.
Thành phố ấy từ đó mang tên ông là Roma, và quốc gia được xây dựng từ nó cũng mang tên Roman.

Rhea Silvia trở thành Tổ mẫu của La Mã, và Romulus cũng trở thành vị thần Quirinus của La Mã.

Như vậy, người La Mã cho rằng tổ tiên của họ có họ nội là thần Chiến tranh Ares – mà họ gọi là Mars, họ ngoại là vua đô thành vĩ đại nhất châu Á và thần Aphrodite – mà họ gọi là Venus.

Năm mà Roma được dựng, cũng là năm Remus bị giết là năm 753 TCN. Từ đó năm 753 TCN được coi là năm khai sinh của Roma và La Mã, trở thành năm gốc trong các hệ thống lịch La Mã, cho đến tận những năm 300 mới dùng năm sinh Jesus là năm gốc.

Bức tượng con sói cái cho Romulus và Remus bú có từ thời La Mã trở thành biểu tượng của thành Roma và La Mã. Bạn có thể gặp nó ở rất nhiều nơi tại Rome cũng như các thành phố khác ở nước Italia.
1.Thời kì vương quốc Etrusca (753 TCN – 509 TCN)

Trước khi Romulus khai sinh Roma năm 753 TCN, đây là vùng đất của dân bản xứ. Dân di cư Etrusca đến từ Tiểu Á đã dựng lên vương quốc của họ. Đây chính là nguồn gốc của truyền thuyết Numitor đến từ Troy. Lúc ấy tại bán đảo Italia có cả người Hy Lạp di cư, người Latin bản xứ.

Vương quốc Etrusca xây dựng Roma trên 7 quả đồi, và truyền được 7 đời vua (con số 7 là số thần thánh, bắt nguồn từ văn minh Babylon).
Bảy quả đồi đó là: Palatium (Palatine) ở trung tâm, và 6 đồi Aventinus, Caelius, Capitolium, Esquiliae, Quirinalis, Viminalis bao quanh.
Năm 509 TCN, người Etrusca bị đánh đuổi, người Latin chiếm Roma, bắt đầu thời kỳ Cộng Hòa La Mã nổi tiếng

2. Thời kỳ Cộng hòa La Mã (509 TCN – 31 TCN)

Người Latin chiếm Roma năm 509 TCN, thiết lập nền cộng hòa, quyền lực thuộc về Viện Nguyên lão gồm 300 người, bầu ra một số vị Chấp Chính có nhiệm kỳ. Thời kỳ này La Mã mở rộng khắp quanh Địa Trung Hải, được gọi là thời Thái bình La Mã – Pax Romana, mặc dù họ phải chống trả với các cuộc chiến tranh với Carthage từ Bắc Phi tiến đánh.

Viện Nguyên lão họp tại một nơi gọi là Foro Romano, chính là từ gốc của Forum – Diễn đàn ngày nay.

Julius Ceasar là vị tướng danh tiếng, đánh dấu sự kết thúc của thời Cộng hòa La Mã. Ông chưa bao giờ là Vua La Mã, nhưng nhiều tài liệu gọi ông là Hoàng đế, và tên ông cũng mang nghĩa là Vua La Mã (Ceasar – Xêda – Hoàng đế).

3. Thời kỳ Đế quốc La Mã (31 TCN – 476)

La Mã trở thành Đế quốc, với sự cai trị của Hoàng đế chứ không phải Viện Nguyên lão nữa. Trong giai đoạn này Thiên Chúa giáo phát triển ở Roma, mà nổi tiếng nhất là sự kiện vụ cháy thành Roma dưới thời vua Nero, và sự tàn sát người Thiên Chúa giáo sau đó.

Năm 313, Hoàng đế Constantinope cải sang đạo Thiên Chúa, Roma trở thành Kinh đô của tôn giáo này. Đến năm 395 thì La Mã chia đôi, và năm 476 thì Tây La Mã sụp đổ.

4. Thời kỳ bị tranh giành (476 – 800)

Các thế lực tranh giành đất Italia và Roma, lúc thì đế quốc Đông La Mã Byzantine nắm giữ, lúc thì các tộc Goth, tộc Frank, German tiến đánh Roma. Các Giáo hoàng phải khéo léo để tồn tại, duy trì quyền lực và truyền đạo trong lòng các thế lực chiếm đóng.
5. Đế quốc La Mã thần thánh (800 – 1433)

Năm 800, vua Charlemange người Frank thôn tính Tây Âu, và Giáo hoàng vội vàng phong ông là Đại đế La Mã để ông bảo vệ mình, từ đó thiết lập Đế quốc La Mã Thần thánh (Holy Roman Empire). Đế quốc này bị xâu xé, rồi thâu tóm bởi rất nhiều vua châu Âu. Các nước Đức, Phổ,…, cũng từ Đế quốc này mà tách ra sau này. Bán đảo Italia cũng bị chia cắt thành nhiều tiểu quốc. Giáo hoàng nắm giữ một vùng đất quanh Roma gọi là Lãnh địa Giáo hoàng (Papal State)

6. Thời kỳ Phục hưng (1433 – 1798)

Lúc này quyền lực của Giáo hoàng đạt đến đỉnh cao, thời kỳ của sự phục hưng trong nghệ thuật, khoa học, nhưng chưa hề giải phóng trong tư tưởng, chính trị.

Các tiểu quốc Italia xâu xé bán đảo, Giáo hoàng giữ vững ngai vàng tại thành Roma, can thiệp vào các cuộc giao tranh, tranh giành chính trị ở cả châu Âu và các vùng thuộc địa của các nước. Đây là thời kỳ của các nhà truyền đạo đi khắp châu Á, châu Phi, châu Mỹ.

Những học thuyết cổ hủ của Roma đã lung lay và sụp đổ dưới sự phát triển của khoa học.

7. Italia thống nhất (1798 – nay)

Italia được thống nhất rồi bị chia cắt, cuối cùng chính thức trở thành một quốc gia hoàn toàn thống nhất vào năm 1870 dưới thời vua Emmanuel. Lãnh địa Giáo hoàng bị xóa bỏ, các Giáo hoàng chỉ còn một mảnh đất nằm lọt trong Roma, đến nối Giáo hoàng Pius IX tự gọi mình là “người tù Vatican”.

Roma trở thành Thủ đô của đất nước Italia thống nhất cho đến ngày nay, và Vatican chỉ còn là một quốc gia nhỏ bé nằm trong lòng nó, một quốc gia kì lạ nhất thế giới nhưng đầy quyền lực.
Rome là Kinh đô của Thiên Chúa giáo nói chung và Công giáo La Mã nói riêng, nên để hiểu Rome hơn, cũng cần biết sơ qua về lịch sử Công giáo La Mã tại Rome.

Lịch sử Công giáo La Mã tại Rome

Thiên Chúa giáo (chính xác hơn là Kitô giáo) được thiết lập với sự rao giảng của Jesus Christ (chúa Giêsu Kitô) tại đất Do Thái, lúc đó đang do La Mã cai trị.

Năm 27: Jesus chịu phép rửa từ Gioan Tẩy giả (St. John the Baptist), và thu nhận đồ đệ. Jesus chọn một người đánh cá làm trưởng đồ đệ, đặt tên cho ông là Peter (với nghĩa gốc là Tảng đá) với câu nói được ghi trong Kinh thánh “Ngươi là Peter, trên tảng đá này ta sẽ xây Giáo hội của ta, và ta trao cho người chìa khóa để vào nước thiên đàng”.

Năm 30: Chúa Jesus bị đóng đinh trên Thập giá tại Jerusalem, rồi Phục sinh. 10 ngày sau, Peter và các Tông đồ khác làm phép rửa cho 3000 người, chính thức bắt đầu sự nghiệp rao giảng đạo. Giáo hội Thiên Chúa giáo hình thành.

Năm 33: Hai tông đồ Peter và Paul cùng đến Roma truyền đạo, Peter trở thành Giám mục đầu tiên của Roma.
Thiên Chúa giáo tại Roma lúc đó là tôn giáo phi pháp trong tầng lớp thường dân, hoạt động lén lút tại ngoại ô, hành lễ dưới những căn hầm.

Năm 64: Vụ hỏa hoạn khủng khiếp tại Roma trong 6 ngày thiêu trụi 1/2 thành Roma. Hoàng đế Nero, để xoa dịu sự căm giận của dân chúng, đã đổ lỗi cho tín đồ Thiên Chúa giáo và hành hình họ bằng những cách tàn khốc nhất như cho thú dữ ăn thịt, thiêu sống, đóng đinh, dìm sông…
Peter cũng bị bắt và bị đóng đinh lên cây thập ác giống Jesus, nhưng ông không dám sánh với Chúa bởi việc chết trên thập ác giống Chúa, nên đã xin để quay ngược đầu xuống. Do đó Peter bị đóng đinh và cắm ngược bên bờ sông Tiber ngoài thành Roma đến chết. Xác ông được chôn ngay ở bờ sông. Trước khi chết, ông nói rằng “Chính nơi đây sẽ dựng lên đền thờ của Chúa”.

Peter trở thành Thánh Tông đồ của TCG. Nơi mộ ông giờ là Đại Giáo đường St. Peter vĩ đại và tòa thánh Vatican.

Tác phẩm văn học nổi tiếng Quo Vadis viết về thời kì này, đã được dựng thành phim.
Khi người TCG bị Nero tàn sát, các đồ đệ đã khuyên Peter tạm lánh đi. Ông vừa rời Roma đến ngoại ô thì bỗng gặp một người đi ngược lại, mà ông bỗng nhiên nhận ra đó chính là Chúa Jesus. Hoảng hốt, ông hỏi “Domino, Quo Vadis” (Thưa Chúa, người đi đâu?), nhưng Chúa không trả lời mà tiếp tục đi về phía Roma đang tràn ngập máu người TCG.

Peter hiểu rằng ông không thể bỏ các tín đồ, và vội vàng quay lại Roma, rồi bị bắt và bị đóng đinh trong sự thanh thản vì đã theo trọn vẹn con đường của Jesus.

Nơi Peter gặp Chúa, về sau được dựng một nhà thờ mang tên Domino Quo Vadis.
Năm 70, Ngôi đền thứ hai ở Jerusalem sụp đổ, năm 100, Tông đồ cuối cùng là John cũng chết.

Sau khi bị tàn sát, TCG với giáo lý của mình vẫn phát triển từ Roma ra toàn La Mã, lan rộng khắp trong tầng lớp bình dân, các Hoàng đế La Mã ra sức tàn sát nhưng càng giết nhiều thì lại càng nhiều người theo. La Mã đã coi TCG nguy hiểm hơn bệnh dịch.

Năm 313: Hoàng đế Constantine I, trước một trận đánh, bỗng nhìn thấy trên trời dấu hiệu Thập giá và dòng chữ “vì dấu hiệu này mà thắng”, ông thắng trận đó và ra lệnh công nhận Thiên Chúa giáo là Tôn giáo chính thức, cho phép phát triển. Cuối đời ông cải đạo Thiên Chúa và tuyên bố TCG là Quốc giáo. Các hoàng đế La Mã về sau đều theo TCG.

Ngay sau đó, Nhà thờ TCG đầu tiên – St. John Lateran được xây dựng, là tòa Giám mục của Roma, là Tổ đường của mọi nhà thờ Công giáo sau này.

Năm 325: Công đồng TCG đầu tiên ở Nicaeas, xác nhận các niềm tin tôn giáo, xây dựng các hội thánh, mà Roma là một trong số đó.

Năm 330: Constantine rời đô về Constantinople, gọi đó là Roma Mới. Roma tạm thời mất vị trí thủ đô.

Năm 395: La Mã chia đôi về địa lý: Đông La Mã nói tiếng Hy Lạp, thủ đô ở Constantinople, Tây La Mã nói tiếng Latin, thủ đô ở Roma.

Khi đó TCG có 5 Giáo hội (Church): Roma, Constantinople, Alexandria, Antiorch, Jerusalem, với 5 vị Giáo Trưởng (Patriarch) 4 ở Đông, chỉ có Roma ở Tây La Mã. Giáo trưởng Roma và Constantinople tranh giành nhau vị trí lãnh đạo.

Tại Roma, do đó có 5 Tòa Thánh đường Giáo trưởng (Patriarch Basilica), đại diện cho 5 Giáo hội TCG.
Năm 404: Một tu sĩ TCG đã nhảy vào giữa hai võ sĩ giác đấu can ngăn họ, và bị đâm chết. Hoàng đế Honorius ra lệnh từ đó chấm dứt trò dã man này.

Năm 452: Rợ Goth do Attila Hun lãnh đạo tấn công Roma. Người La Mã sợ kẻ này đến nỗi gọi ông ta là “Kẻ trừng phạt từ Chúa”. Giáo hoàng Leo I đàm phán và Attila tha cho Roma. Nhưng sau đó rợ Vandals chiếm Roma và cướp hết các báu vật của Roma.

Năm 476: Rợ German tấn công, Tây La Mã sụp đổ. Giáo hội Constaninople trở thành kinh đô TCG, giáo hội Roma trở thành bậc dưới.

Sau đó người Đông La Mã (Byzance) đuổi German, Roma thuộc Byzance, như là một thành phố phụ thuộc. Các giáo hoàng Roma phải được Thượng phụ Constantinople công nhận thì mới hợp pháp. Hoàng đế La Mã phương Đông cai trị trên cả giáo hoàng.

Năm 800: Vua người Frank là Charlemagne đánh chiếm toàn bộ tây Âu, tiến vào Roma. Giáo hoàng vội phong ông là Đại đế La Mã để ông bảo vệ mình. Đế quốc của Charlemangne sau này bị chia cắt, và Roma thuộc về Đế quốc La Mã Thần thánh (Holy Roman Empire).
Để hợp thức hóa vùng đất rộng lớn mà mình chiếm giữ, trong đó có cả Roma, các giáo hoàng đưa ra một văn bản của Charlemagne ghi rằng ông đã trao tặng giáo hoàng vùng đất ấy. Nhưng văn bản đó thực chất là giả mạo.
Lãnh địa Giáo hoàng lúc thì độc lập, lúc thì phụ thuộc Đế quốc La mã thần thánh.
Sau khi có được Lãnh địa Giáo hoàng, với quyền lực cả về Tinh thần và Thế tục (Thần quyền và Thế quyền: quyền Giáo Trưởng và quyền làm Vua), và tuyên bố Thần quyền cao hơn Thế quyền, các Giáo hoàng nhiều lần xung đột với Hoàng đế của Đế quốc La Mã thần thánh.

1054: Giáo hoàng đòi quyền Tối thượng trên Thiên Chúa giáo, nên xảy ra Đại Ly giáo (Great Schism), Giáo hoàng Roma và Thượng phụ Constantinople rút phép thông công của nhau. Thiên Chúa giáo chính thức chia đôi: Công giáo La Mã ở phương Tây, Chính Thống giáo ở phương.

1095: Giáo hoàng Roma phát động Thập tự Chinh (Crusades) đi lấy lại Thánh địa Jerusalem.

1204: Quân Thập tự chinh chiếm được Constantinople, các Giáo hoàng thỏa được cái hận xưa kia bị Byzance cai trị, lúc này Thượng phụ Constantinople lại ở dưới quyền Giáo hoàng. 57 năm sau Thập tự chinh mới rút khỏi Constantinople.

1232: Chính thức thành lập Tòa án Dị giáo (Inquisition), một Cơ quan tàn bạo, khủng khiếp nhất trong lịch sử. Trong suốt 600 năm tồn tại, Tòa án Dị giáo đã thiêu sống 5 triệu phụ nữ, tàn sát 50 triệu người ở châu Mĩ, và cả chục triệu người khác trong các nhà tù.

Từ đây, quyền lực của Giáo hoàng ngày càng bành trướng, các Giáo hoàng dần rời xa yếu tố tinh thần, mà sa vào thế tục. Roma cũng được xây dựng huy hoàng, với vô số nhà thờ, của cải mang tập trung.

Lúc này các Giáo hoàng vẫn ở tại Cung điện Lateran.
1305: Nước Pháp hùng mạnh đã bắt giáo hoàng về Avignon nằm trên đất Pháp, Roma vô chủ.

1378: Giáo hoàng trở về Roma, thấy Cung điện Lateran đổ nát quá, mới chính thức đổi sang Vatican.

Thế kỉ 15 – 16, thuộc địa Châu Mĩ được khai thác. Vàng từ châu Mĩ đã được dát lên rất nhiều nhà thờ ở Roma. Các giáo hoàng càng ăn chơi suy đồi. Roma xa xỉ cực độ. Cái mũ miện ba tầng đính ngọc trở thành biểu tượng của Vatican, có thể thấy trên hầu hết các công trình của thời kì này ở khắp Roma.

1529: Trước sự suy đồi của Roma, Luther viết 95 điều phản kháng, từ đó hình thành Tin Lành, tách khỏi Công giáo. Tòa án Dị giáo lại tàn sát vô số người Tin Lành.

Các giáo hoàng cũng dần phải cải cách. Roma phục hưng, Đại giáo đường St. Peter được xây dựng, nhiều công trình đẹp khác được làm trong thời kì này.

1870: Nước Italia thống nhất được thành lập. Lãnh địa Giáo hoàng bị xóa bỏ, Roma (Rome) thuộc Italia, các giáo hoàng thành “người tù Vatican”

1908: Văn phòng thánh – lãnh đạo Tòa án Dị giáo khủng khiếp – được chuyển thành Bộ Giáo lý và Truyền bá Đức tin.
Nhà thờ (Basilica)
Rome có đến gần 900 cái nhà thờ, chỗ nào cũng có, phố nào cũng giáp ít nhất một nhà thờ. Nhiều lúc không để ý là không biết ở đó có nhà thờ, chỉ đến lúc nhìn lên nóc thấy cây thập giá thì mới nhận ra. Nhà thờ đa phần bên ngoài khá bình thường, tường đá, gạch không trang trí. Có chăng là mặt tiền được dựng lại đẹp hơn cạnh bên, nhưng không so sánh được với các nhà thờ Gothic.

Quan trọng nhất trong các nhà thờ là 4 Giáo trưởng Thánh đường, theo thứ tự là
1. Nhà thờ St. John Lateran – Thánh đường Giáo trưởng Roma.
2. Nhà thờ St. Peter – Thánh đường Giáo trưởng Constantinople
3. Nhà thờ Santa Maria Maggiore – Thánh đường Giáo trưởng Antiorch.
4. Nhà thờ St. John Outside the Walls – Thánh đường Giáo trưởng Alexandria
Đúng ra còn nhà thờ Giáo trưởng Jerusalem, nhưng bé và ít người nói đến.

Các nhà thờ Santa Maria là thờ Đức Mẹ Mary, còn các nhà thờ khác thì vô thiên lủng, mang tên tất cả các vị thánh tông đồ: Peter, Paul, John, Mathew,….

Di tích La Mã cổ

Colosseum

Công trình này bắt đầu được xây năm 70, sau vụ tàn sát người Thiên Chúa giáo vài năm, cũng là năm Ngôi đền Thứ hai của Jerusalem bị phá hủy. Colosseum là Đấu trường và cũng là Hí trường, nơi diễn ra các cuộc Giác đấu giữa các võ sĩ (Gladiator), giữa các võ sĩ với thú dữ như sư tử, gấu,…, là nơi hành hình các tội nhân, lại cũng là nơi diễn các vở kịch, đại nhạc hội cho công chúng xem. Mảnh đất nơi đó vừa thấm đầy máu vừa ngập đầy hoa.

Con đường hướng đến Colosseum leo cao dần lên một triền đồi, còn Colosseum nằm dưới chân đồi, nên lúc đầu, tớ chỉ nhìn được ba tầng trên của nó, còn tầng dưới khuất. To thật, chiếm cả một góc trời.

Xuống dưới chân dốc, càng thấy sự to lớn của công trình này. Nếu ngày nay với kĩ thuật hiện đại, các sân vận động to lớn không có gì lạ. Nhưng Colosseum đã rất cổ, từ 2000 năm trước, chỉ bằng đá và gạch mà người La Mã có thể dựng được lên nó, đứng vững trong hai nghìn năm, thì quả là đáng khâm phục.

Colosseum được xây dựng thành 4 vòng, mỗi vòng ngoài cao lên. Một phần vòng ngoài cùng đã đổ, nên có thể thấy rõ cấu trúc bên trong. Thoáng trông, tớ cảm tưởng như nó vòng trôn ốc vậy.

Colosseum tạo thành nhiều mái vòm trống bên dưới, và thế là người ta lấy rào sắt vây hết lại, để ngăn người ngoài vào. Có điều cái rào ấy xấu tệ, nó dựng tua tủa, chọc vào mắt người nhìn, lạc lõng với công trình cổ.

Xưa kia, tại mỗi vòm cuốn của Colosseum có một pho tượng, tượng những vị thần La Mã, hoàng đế La Mã, tướng La Mã, và cả những người chiến thắng trong các cuộc đấu. Trò giác đấu đến tận năm 404 mới dừng, sau khi một tu sĩ TCG chết vì can hai võ sĩ giác đấu tại đây. Các hoạt động khác đến khi Tây La Mã sụp đổ mới dừng.

Nếu ai đã xem phim Võ sĩ Giác đấu (Gladiator) sẽ thấy cảnh tái hiện lại Colosseum gần 2000 năm trước, với các khán đài chật ních người, cờ xí, hoa chăng xung quanh các cây cột.

Vòng ngoài cùng, cao nhất của Colosseum đã bị đổ một nửa sau một trận động đất bảy trăm năm trước. Gạch đổ thành từng đống lớn. Người dân Roma đã lấy gạch đá ấy về xây nhà, và người vét sạch những viên đá cuối là các Giáo hoàng.
Truyền thuyết kể rằng khi quân La Mã tấn công Jerusalem vào năm 70, đã phá hủy Ngôi đền Thứ hai của người Do Thái, tức là Đền thờ Thiên Chúa. Họ mang những tảng của Ngôi đền về Roma, làm móng cho Colosseum. (ở Jerusalem chỉ còn lại Bức tường Phía tây của Ngôi đền đó).

Do vậy mà khi xây dựng lại Đại giáo đường St.Peter vào năm thế kỉ 16, các giáo hoàng đã sai lấy đá móng của phần tường đổ về xây, vì cho rằng nó là đá từ Đền Thánh Jerusalem. Hơn 2000 tảng đá móng từ Colosseum đã được đem về dựng lên tòa nhà thờ lớn nhất thế giới, mà các Giáo hoàng coi đó là Ngôi đền Thứ ba.

Trước khi xây Colosseum, khu đất đó đã từng là nơi hành hình các tín đồ TCG, bằng cách đóng họ vào cột, tẩm dầu mỡ làm đuốc sống cho các đêm hội của Nero. Do đó các Giáo hoàng cũng tuyên bố Colosseum là Nơi thánh của các vị thánh Tử vì đạo. Cái biển đá đóng trên lối vào chính, và cây thập giá ở cửa Colosseum khẳng định điều đó. Hàng năm, vào lễ Phục sinh, Giáo hoàng lại làm lễ diễn tả lại Con đường Khổ nạn của Chúa ngay trên những vòng tường của Colosseum.

Một trong những điều đáng kinh ngạc nhất là ngoại trừ phần móng và một số con đỡ, vị trí quan trọng làm bằng đá, còn thì Colosseum chủ yếu xây bằng gạch nung. Cứ tưởng tượng một bức tường gạch thẳng đứng cao đến gần 50m, tương đương nhà 15 tầng (Cột cờ Hà Nội, kể cả cột sắt treo cờ chỉ có 40m), không xây liền mà toàn là các vòm đỡ nhau, thật quá giỏi.

Thông thường các vòm được làm bằng đá sẽ chắc chắn hơn, gồm càng ít viên đá càng chắc, vì lực dồn đều ra. Nhưng vòm bằng gạch thì không hiểu gắn kết kiểu gì, vì cả trăm viên gạch mới nối thành một vòm. Dù biết người La Mã đã biết dùng một loại ximăng, nhưng ximăng gì mà sau 2000 năm không hỏng, trong khi xi măng của mình giờ chỉ vài chục năm đã bong tróc, nứt vỡ…

Nhiều người có thể cho rằng Colosseum không có gì đáng xem, còn với tớ, nó thực sự là một điểm đến có ý nghĩa. Có thể nó không đẹp, không nguyên vẹn, nhưng nó là biểu tượng về công sức, trí tuệ, nỗ lực đã thành công của những kiến trúc sư và thợ xây cổ đại.

Hình Colosseum cũng được dập nổi trên mặt sau đồng 1 cent tại Italia (Đồng Euro chung, mặt trước giống nhau nhưng mặt sau thì tùy nước nào sẽ in của nước ấy)
Ngay cạnh Colosseum là một công trình nhỏ hơn rất nhiều nhưng cũng rất đẹp và nhiều ý nghĩa.

Đó là Cổng Constantine (Constantine Arch / Arco di Constantino), được xây dựng năm 315 để kỉ niệm chiến công của hoàng đế Constantine. Trong số 3 cổng còn nguyên vẹn hiện nay tại Roma, đây là cổng xây muộn nhất. Phía bên kia cổng là đồi Palatine, ngọn đồi trung tâm, nơi Romulus khai phá thành Roma.

Hình thức dùng Cổng để kỉ niệm Chiến thắng (Khải hoàn môn) được người La Mã mượn từ người Hy Lạp cả nghìn năm trước, và đến lượt nó, lại được các vương quốc khắp châu Âu bắt chước. Dễ thấy Khải hoàn môn của Pháp, của Bỉ; Cổng Cẩm thạch của Anh,…, có hình dáng y hệt cổng này.
Cổng Constantine làm bằng đá cẩm thạch, cao 21, ngang 26 và dầy 8 mét. Trên cổng trang trí bởi rất nhiều phù điêu cẩm thạch, diễn tả lại những chiến công của Constantine và cả những vị hoàng đế trước ông. Có những phù điêu, tượng được làm cùng thời với cổng, có cái được lấy từ nơi khác đem đặt vào. Qua thời gian, đá cẩm thạch trắng và vàng đều đã đổi màu, nhưng những nét điêu khắc vẫn còn rất rõ.

Xưa kia, những đoàn quân La Mã sau khi thắng trận sẽ đi qua cổng này, người dân đứng trên Colosseum (như tớ đang đứng) sẽ chiêm ngưỡng toàn bộ đoàn quân chiến thắng. Đoàn người đi qua cổng rồi đi vòng quanh đồi Palatine, qua cổng Severius, nơi các Nguyên lão, Quý tộc đón chào, rồi qua cổng Titus ra khu dân cư bên ngoài. Khu khai quật phía trước cổng chỉ rõ con đường diễu hành đó.

Do năm 313 là năm Constantine ra lệnh công nhận Thiên Chúa giáo là tôn giáo chính thức hợp pháp ở La Mã, nên với người Thiên Chúa giáo, cổng này cũng coi như một công trình kỉ niệm chiến thắng của Thiên Chúa trước các tôn giáo khác. Không phải vô cớ mà cổng này đã được trùng tu lại trước Năm Thánh 2000 (Holy Jubilee Year)
Roman Forum hay Foro Romano trong tiếng Ý, hay Fora Romanium trong tiếng Latin, là khu trung tâm hành chính, quyền lực của La Mã cổ đại. Chữ Forum – diễn đàn – từ đây mà ra.

Bên cạnh con đường chính dẫn vào có một ngôi đền cổ rất lớn dựng từ năm 121, nay đã đổ gần hết. Ngôi đền thờ các nữ thần, cả thần Tình yêu và Sắc đẹp Vệ Nữ (Venus) và Nữ thần thành Roma. Ngôi đền dài bằng và rộng gấp rưỡi một sân bóng đá, nay chỉ còn một phần tường vòm cuối. Xung quanh, những hàng cột đá đứng đó như dấu tích của một thời xa xưa. Đền dựng trên một nền đất cao, không biết là cao tự nhiên hay đắp lên, vì xung quanh toàn thấy xây vòm như cổng?

Bên trái con đường chính vào khu Forum là đồi Palatine. Cuối con đường vào, đánh dấu khu Forum là cổng Titus bằng cẩm thạch cũng rất đẹp.

Cả một khu vực khá rộng chứa các di tích quan trọng nhất của La Mã cổ đại. Toàn khu vực gồm 3 khu chính: Forum, đồi Palatine, đồi Capitoline, giới hạn ở mặt nam bởi Trường đua lớn Circus Massimus, phía bắc bởi Đài tưởng niệm Emanuele, phía đông bởi Colosseum.

Trên thực tế khung cảnh Forum quá nhiều đổ nát, toàn nền đá gạch, cột đứng trơ trọi, lộn xộn đan xen, chồng lên nhau.

Đồi Palatine là cung điện cũ của các Hoàng đế La Mã, cũng chỉ còn nền và một số bức tường trên bề mặt. Tuy nhiên có thể thấy những phần ngầm trong lòng đồi rất rộng lớn, cả một khu vườn Liberian lưng chừng đồi.

Đồi Capitoline là đỉnh cao nhất, xưa kia trên đó có những ngôi đền thờ, ngày nay là bảo tàng. Capitoline với nghĩa trung tâm đã là gốc của từ Capitol (thủ đô, thủ phủ) ngày nay
Không như cổng Constantine bị rào kín mít, cổng Titus để cho người đến thăm thoải mái đi qua lại và sờ mó.


Cổng Titus

Cổng Titus xây bằng cẩm thạch trắng, bên ngoài trang trí ít, nhưng vòm cổng phía bên dưới được điêu khắc đá rất đẹp, với những hình ô vuông trong đó có những bông hoa tròn. Kiểu trang trí này còn gặp rất nhiều trên trần các nhà thờ ở Roma, cầu kì hơn, chi chít hơn.

Trên nóc của cổng ghi đại khái rằng: Nghị viện và Nhân dân La Mã xây tặng hoàng đế Titus cái cổng này. Cũng là do vua và cho vua cả, nhưng ghi thế ít ra cũng thấy là có sự dân chủ hơn các giáo hoàng về sau nhiều lắm.

Bước qua cổng Titus, phế tích của Forum rải rác khắp nơi. Những nền nhà, những chân cột,… của các ngôi đền, các tòa hội đường, phòng họp, nơi bàn việc…. dầm mưa dãi nắng.



Xa kia là hàng cột của ngôi đền Saturn – thần Bầu trời, gần hơn là của đền Castor, rồi đền Antonius, Faustina, tòa nhà Vestal, đại đường Maxentius, đại đường Aemilla, viện Nguyên lão,… tất cả chỉ còn là phế tích. Phải tưởng tượng nhiều lắm mới có thể hình dung cái bãi gạch đá đổ nát này ngày xưa đã từng sừng sững những công trình, tấp nập các Nguyên lão, quý tộc, tướng lĩnh La Mã thế nào.

Ngọn tháp vươn đằng xa đánh dấu đỉnh đồi Capitoline với tòa nhà bảo tàng. Bên phải, xa nhất là Đài tưởng niệm Emanuele bằng đá trắng.

Thực tế khi đi vào giữa khu Forum, cảm giác không được thoải mái lắm. Có một cái gì đó lộn xộn, chồng chéo, khúc khuỷu ở đây.

Tôi tưởng tượng đến một khu vực – dù chỉ còn nền móng – thì ít ra cũng phải có quy hoạch rõ ràng, đường thẳng, rộng, các khối nhà đối xứng, cân đối.

Nhưng khu Forum này, cái nọ xọ sang cái kia. Đền nằm giữa các khu hội đường. Đền thì cái to cái nhỏ, cái nền cao cái nền thấp (do móng còn lại đến nay), cái thò cái thụt, khiến cho con đường xuyên qua giữa khu Forum không thẳng, mà phải quặt sang phải.


Hai cổng Titus và Severus đánh dấu hai đầu của khu, nhưng chúng không thẳng hàng. Các tòa nhà trong khu cũng cái quay ngang, cái nằm dọc. Cái thì cửa quay ra đầu này, cái quay ra đầu kia…

Hình ảnh của những cung điện đền đài đổ nát được nhiều họa sĩ vẽ, với một vẻ đẹp điêu tàn, thường là trong nắng chiều, với những đám mây lớn và bầu trời rộng. Những bức tranh đó cuốn hút bởi nó cho tôi thấy một thế giới cổ kính mà khi đọc truyện cổ tích, tôi có thể tưởng tượng ra rõ ràng.

Và trong số đó, chắc chắn đã có một bức tranh vẽ về những mái vòm Maxentius này. Tôi không nhớ nổi chính xác bức tranh như thế nào, vì xem nó đã quá lâu. Nhưng khi đứng dưới mái vòm, thì kí ức lại trở về, và tôi thấy mình đang đứng trong bức tranh ấy, trên trang giấy ấy. Và những gì trong tưởng tượng thuở trẻ con, nay thành hiện thực…

Cái cảm giác này còn trở lại rất nhiều, khi được đến xem tận mắt những nơi mà mình đã từng đến, từng đến rồi…
Cung điện Tiberian xưa đứng trên lưng chừng đồi Palatine, nằm giữa một vườn cây. Ngày nay cây cối xanh tươi, nhưng cung điện chỉ còn đống gạch.

Bên sườn đồi, có một khu sân lộ thiên khá lớn, gọi là Stadium. Đó là nơi giải trí của hoàng đế, với những dãy cột hình ôvan, hình tròn. Nơi đây xưa kia người ta biểu diễn xiếc, các trò với thú, với lửa…. để hoàng đế và quần thần ngồi xung quanh hoặc bên trên xem. Bên ngoài là khu nhà tắm hoàng gia, dành riêng cho hoàng đế và các cận thần.


Đồi Capitoline, điểm cao nhất của Roma cổ, nằm bên khu Forum, nhìn xuống Forum từ nóc một ngọn tháp cao. Xưa kia nơi đây là đền thờ các vị thần. Thời gian đã kéo sụp các công trình, và đến thế kỉ 16, một cung điện được dựng lên.

Đường lên là một con dốc rất thoải, những bậc được tạo ra rất rộng và dốc xuống, khiến cho có thể dễ dàng đi lên. Ngay bên cạnh là một con dốc cao hơn lên nhà thờ Santa Maria.

Michealangelo là tác giả kiến trúc của công trình này, mà nay thành nhà bảo tàng. Bức tượng đồng phía trước là hình ảnh của một vị hoàng đế La Mã. Cái sân trước tòa nhà này nhìn từ trên cao xuống đẹp hơn, vì nó được vẽ bởi những vòng cung rất đẹp.
Tòa cung điện trên đồi Capitoline theo kiến trúc Phục Hưng, với những khối tường, cột thanh nhã, cầu thang chéo có hai pho tượng thần biển ngồi ôm “cái sừng sung túc”. Hình ảnh “cái sừng sung túc” của thần thoại Hy Lạp được đưa vào nghệ thuật Phục Hưng rất nhiều.

Hình tượng này bắt nguồn từ câu truyện về thần Zeus, thời thơ ấu, để trốn tránh người cha là thần Cronus chuyên nuốt sống các con, mẹ Zeus là Rhea đã đem dấu Zeus cho con dê cái Amenda nuôi dưỡng. Một ngày kia Zeus đùa nghịch và với sức mạnh của một vị thần, đã bẻ gãy một chiếc sừng của người bạn – nhũ mẫu đó. Hối hận vì việc đó, Zeus về sau dùng cái sừng đó đựng các phẩm vật thần thánh khi ban phần thưởng cho người khác. Cái sừng của sự sung túc từ đó đi vào điêu khắc khắp nơi.

Trevi Fountain


Trevi Fountain ( from internet)

Trong hàng chục đài phun nước ở Rome, đài phun nước Trevi (Fontana di Trevi) nổi tiếng nhất. Đài được làm bằng đá cẩm thạch, ngay ở một mặt của cung điện Poli.

Thời xa xưa, địa điểm này là cuối của một số đường dẫn nước vào thành Rome, và đã có một đài phun nước ở đây từ trước Công nguyên. Theo truyền thuyết thì đầu nguồn nước từ núi đá được những vị tiên – trinh nữ rót xuống, nên trên đài phun có hình tượng của những trinh nữ này.

Đài phun nước nổi tiếng vì vẻ đẹp hoàn hảo trong điêu khắc kết hợp với nước, và còn vì một truyền thống tin rằng khi ai đứng quay lưng lại mà ném một đồng xu, nó rơi xuống nước thì người đó sẽ còn quay lại Rome.

Hàng tuần, người ta đều phải làm một việc là vớt hết xu ở đáy bể nước đi.

Đài phun Trevi lúc nào cũng đông nghịt người. Tìm được một lúc chụp ảnh không hề dễ.

Nước dưới đài phun có màu xanh ngọc rất đẹp, không phải vì nước xanh, mà là vì đáy bể được sơn màu xanh.
Khi chúng tôi đến vào thời gian này, đài phun nước đang được đóng lại để sửa chữa, đành chịu mặc dù rất tiếc, vài tấm ảnh dưới đây cho thấy một góc của nó


Đài phun nước Trevi là nổi tiếng nhất Rome, sau đó có lẽ là đài phun nước ở quảng trường Navona (Navona piazza)

Cách không xa quảng trường Navona là một công trình thời La Mã nổi tiếng: Đền Pantheon.

Đền Pantheon


Source: Internet

Đền này được xây từ thời La Mã, đầu Công nguyên, thờ các vị thần La Mã. Các vị thần La Mã có gốc từ các vị thần Hy Lạp, như Jupiter vốn gốc là Zeus; Venus gốc là Aphrodite; Mars gốc là Ares; Mercury gốc là Hermex…


Source: Internet

Công trình bằng đá này rất nổi tiếng vì kiến trúc của nó, kiến trúc đứng vững hai nghìn năm với một mái vòm vĩ đại, trong suốt một nghìn năm trăm năm không có mái vòm nào vượt qua được, đến tận khi nhà thờ St.Peter được xây xong.

Ngày xưa, trên bề mặt hình tam giác là phù điêu tạc về các vị thần La Mã, và xung quanh các góc cũng có các vị thần đứng. Dòng chữ lớn phía trước đền ghi vị hoàng đế La Mã đã dựng ngôi đền này.


Tiếp tục với điện Pantheon, tòa điện cổ đại có mái vòm lớn nhất thế giới từ đầu Công nguyên cho đến khi nhà thờ St.Peter chiếm vị trí đó 1500 năm sau.


Source: Internet

Điện Pantheon là điện “Bách thần” để thờ các vị thần của Đa thần giáo La Mã, từ Jupiter, Juno, Mars, Venus… đến thế kỉ 7 thì chuyển thành nhà thờ Thiên Chúa giáo. Các tượng thần La Mã bị dỡ bỏ để thay vào đó là tượng Đức Mẹ và các thánh cho đến ngày nay.

Il Vittoriano


Là đài kỷ niệm Victor Emmanuel, vị vua đầu tiên của nước Ý thống nhất

Ông vua của xứ Sardinia và dành chiến thắng trong quân đội Áo ở Lombardy, Victor Emmanuel đã trở thành một biểu tượng của Risorgimento – phong trào cho một Ý thống nhất. Sau khi quân đội của ông tham gia lực lượng với Garibaldi và đánh bại quân đội của Đức Giáo Hoàng, Vương quốc Ý được công bố vào năm 1861 với Victor Emmanuel là vua.

Năm 1885 xây dựng đài tưởng niệm bắt đầu sau khi một thiết kế bởi Giuseppe Sacconi, người chiến thắng trong một cuộc thi kiến trúc. Độ dốc phía bắc của Capitoline Hill đã được xóa để nhường chỗ cho tượng đài. Di tích La Mã và nhà thờ thời Trung cổ đã bị phá hủy trong quá trình này.

Sacconi không bao giờ nhìn thấy tượng đài của ông đã hoàn thành; ông qua đời vào năm 1905 và được kế nhiệm bởi ba kiến trúc sư: Manfredo Manfredi, Pio Piacentini và Gaetano Koch. Tượng đài mới và biểu tượng quốc gia của Ý đã được khánh thành vào năm 1911, tại lễ kỷ niệm lần thứ năm mươi của vương quốc.
Khối kiến trúc được xây bằng đá cảm thạch trắng dài 135m và cao 70m phủ lên diện tích 17.000 m2

Thăm Vatican city



Vatican là một Quốc gia, một Thành phố rất nhỏ, nhưng đây là trái tim của Công giáo La Mã, là Kinh đô, Thánh địa, Đền Thánh thứ Ba của hơn một tỉ tín đồ Công giáo, và là Điểm đến của gần một tỉ tín đồ Thiên Chúa không phải Công giáo khác. Tín đồ Công giáo Việt Nam gọi là La Mã Hoàng cung.

Nói đến Tòa Thánh, chắc chắn phải nói đến đầu tiên là Tòa Đại Giáo đường, Đền thánh Phêrô, tức Nhà thờ Saint Peter (San Pietro Basilica), tòa Giáo đường vĩ đại nhất trên thế giới, Giáo đường Mẹ (Mother church) của các nhà thờ Công giáo. Bên cạnh đó là Cung điện Thánh Tông đồ (hay còn gọi là Điện Tông Tòa – Apostles Palace) là nơi ở của Giáo hoàng, cùng Bảo tàng, Thư viện, Nhà nguyện với muôn vàn tác phẩm kinh điển huy hoàng.

Có thể sẽ có nhiều ý kiến khác nhau về Đại giáo đường Thánh Peter, về sự xa hoa rực rỡ theo Chủ nghĩa Phô trương của nó. Nhưng nó thực sự là một công trình vĩ đại, một tác phẩm bất hủ thể hiện tài năng công sức của con người., các Giáo hoàng cho rằng theo Kinh thánh Cựu Ước, thì xưa kia vua Solomon đã dành vô số của cải châu báu mà cha là vua David đã tích lũy cả đời để dựng lên Ngôi nhà của Chúa với tất cả sự rực rỡ huy hoàng để vinh danh Thiên Chúa, thì nay các Giáo Hoàng cũng dùng toàn bộ của cải của các con chiên để dựng Ngôi nhà của Chúa, cũng không có gì là sai cả.
Đại Giáo đường Thánh Phêrô ngày nay chứa đựng trong lòng nó một lịch sử lâu dài. Theo Lịch sử và Chính thống Công giáo, thì Nhà thờ này là Nhà thờ Giáo trưởng Constantinople, tức là về danh nghĩa chỉ đứng hàng thứ hai, sau Nhà thờ Giáo trưởng Roma – Saint John Lateran. Nhưng trên thực tế thì trong 400 năm qua, đây là nhà thờ Lớn nhất và quan trọng nhất của Giáo hội (Holy See).

Sơ lược lịch sử

Dưới thời La Mã Cộng hòa, nơi đây là ngoại thành Roma, chỉ là ngọn đồi Vaticano um tùm. Dưới thời hoàng đế Nero, nơi đây dựng một trường đua. Một cột đá từ đền Ramset ở Ai Cập có niên đại 13 thế kỉ TCN được dựng ở đây.

Năm 64, sau vụ hỏa hoạn Roma, nhiều tín đồ TCG bị hành hình ở đây. Đặc biệt là Thánh Peter, Tông đồ trưởng của Jesus bị đóng đinh cắm ngược đến chết, và được chôn ở khu vực này.

Năm 326 khi Constantine Đại đế công nhận Thiên Chúa giáo, Nhà thờ St.Peter được dựng lên trên chỗ được cho là mộ của thánh Peter, và mất 30 năm mới xây xong. Tuy vậy Giám mục Roma (tức Giáo hoàng) không ở đây mà ở nhà thờ St.John Lateran.

Sau khi La Mã sụp đổ, năm 800, Đại đế Charlemagne đăng quang ở Nhà thờ St.Peter. Lãnh địa Giáo hoàng được thiết lập như là quà tặng của Charlemagne.

Năm 1326, Giáo hoàng bị người Pháp bắt dời Tòa thánh về Avignon, đến năm 1370 mới trở về Roma, thấy Nhà thờ St.John Lateran đổ nát quá, mới chuyển sang ở bên St.Peter.

Năm 1506, Giáo hoàng quyết định phá bỏ nhà thờ cũ để dựng lại. Trong suốt những năm sau đó, công trình được thay đổi thiết kế nhiều lần dưới bàn tay nhiều công trình sư, trong đó có cả danh họa Raphael, bản thiết kế của nhà điêu khắc Michelangelo là bản cuối cùng (năm 1548).

Đến năm 1626 nhà thờ mới hoàn thành, sau 120 năm xây dựng.
Sau khi xây xong nhà thờ, lại mất gần 20 năm nữa để tạc các bức tượng quan trọng nhất; và 30 sau khi xây xong, thì Bernini mới bắt đầu xây Quảng trường phía trước. Quảng trường và các bức tượng mất 10 năm để hoàn thành, kết thúc năm 1667.

Như vậy, tính cả Nhà thờ và Quảng trường, thì mất 160 năm.

Tuy vậy, cho đến tận những năm 1948 vẫn còn có những bức tượng được tạc và đặt thêm vào trong Nhà thờ.
Khi xây xong, Nhà thờ là Tòa nhà lớn nhất, cao nhất, tốn kém nhất thế giới. Nó dài hơn 200 mét, chỗ rộng nhất 140 mét, cao nhất 120 mét, chứa được 60 nghìn người.


Quảng trường thánh Peter (San Pietro Piazza) mở rộng hai hành lang như vòng tay chào đón mọi người. Khi thiết kế quảng trường này, Bernini đã lấy ý tưởng St.Peter là Nhà thờ Mẹ, dang rộng đôi cánh tay. Tận cùng cuối hai vòng tay ấy, là Nhà thờ và mái vòm nổi bật trên nền trời xanh.

Quảng trường lớn nhất Roma này là mang ý tưởng tượng trưng cho Gió – Không khí theo triết học cổ. Quả thật, đến đây ta thấy sự rộng mở khoáng đạt, mà vẫn nằm trong vòng tay ôm ấp. Vẫn có thể thấy dãy đồi xa phía sau, vẫn có thể nghe tiếng những chiếc xe chạy quanh. Nhưng chỉ một lát nữa, là ta sẽ bước vào một thế giới khác, thế giới của tôn giáo, của đức tin, của sự xa hoa và tuân phục.
Ở một khoảng cách rất xa, Nhà thờ St.Peter trông cũng như bao nhà thờ khác, nhưng thực ra mặt tiền của nó cao đến 50m, rộng hơn 100m. Và cây thánh giá trên đỉnh mái vòm vươn tới độ cao hơn 130m. Tiếng chuông từ bên dưới hai chiếc đồng hồ tròn có thể vọng xa hàng cây số.

Hành lang hình vòng cung với bốn hàng cột cẩm thạch tạo thành một lối đi rất đẹp ôm trọn Quảng trường. Trên nóc là 140 pho tượng các vị thánh Công giáo tạc bằng cẩm thạch. Trong gần mười năm, hàng chục nhà điêu khắc đã được huy động để tạc chúng. Họ đã làm ngày đêm bằng đức tin, sự cống hiến cho nhà thờ, với nhiều người gần như không công.

Khối nhà vuông phía xa chính là Cung điện Tông đồ, hay Cung điện Giáo hoàng (Apostles Palace, Papal Palace). Phòng làm việc của Giáo hoàng ở tầng trên cùng của tòa nhà ấy. Hàng tuần, vào ngày thứ tư, nếu không quá ốm yếu hoặc công du, Giáo hoàng sẽ xuất hiện tại một cửa sổ và ban phúc cho đám đông gồm tín đồ và cả những kẻ tò mò đứng bên dưới quảng trường.

Nổi bật giữa Quảng trường St. Peter là chiếc cột đá Ai Cập gọi là obelisk đứng sừng sững. Chiếc cột nặng đến 300 tấn này được làm từ thế kỉ 13 Trước CN, nằm ở ngôi đền của Ramset II. Người La Mã khi chiếm Ai Cập đã chuyển nó về thành phố Alexandria, và rồi đến đầu Công nguyên mang nó về dựng ở trường đua, là nơi mà sau đó dựng lên Nhà thờ St.Peter.

Trong khi xây dựng nhà thờ, Bernini đã quyết định dời chiếc cột về chính giữa phía trước nhà thờ, và trở thành tâm điểm của Quảng trường. Như vậy chiếc cột đã bị di chuyển 3 lần, đứng ở Ai Cập 1300 năm, đứng ở Alexandria 100 năm, đứng ở trường đua 1500 năm, và lại đứng đây 500 năm nữa. Không biết trong tương lai nó có còn bị chuyển đi lần nào nữa không?

Mặt tiền của Nhà thờ, có một hàng chữ to tướng, đại khái ghi niên đại hoàn thành mặt tiền này, cùng với Hiệu của vị Giáo hoàng đang tại vị khi đó. Cái thú ghi tên mình lên các công trình hình như ở đâu cũng vậy.
Phía trên nóc có tượng của Chúa Jesus, John Tẩy giả và 11 Tông đồ nữa. Riêng hai thánh Peter và Paul thì có tượng đứng ở trước
Peter và Paul là hai Tông đồ đã đến Roma, và đều tử đạo tại đây. Peter – theo Công giáo – là Tông đồ Trưởng của Jesus, và Jesus trao toàn quyền lãnh đạo Giáo hội cho Peter. Nhà thờ St.Peter được tin là xây ngay trên mộ của thánh Peter, còn nhà thờ St. Paul được cho là xây trên nơi có mộ của thánh Paul.

Trong các bức tượng, thường thánh Peter cầm chiếc Chìa Khóa, vì theo một câu Kinh thánh, Jesus đã nói với Peter rằng: Ta trao cho ngươi Chìa khóa vào nước Thiên đường.
Còn thánh Paul cầm kiếm, với ngụ ý trừng phạt kẻ có tội.

Tượng thánh Peter và Paul, tượng trưng cho Thưởng – Phạt, khiến tôi liên tưởng đến hình tượng ông Thiện – Ác tại chùa.

Cái ban công ở chính giữa tầng hai, chỉ được dùng trong dịp ra mắt của Giáo hoàng mới
Một trong những hình ảnh thu hút du khách ở Vatican là các anh lính Thụy Sỹ bảo vệ Tòa Thánh. Có tổng cộng 100 anh, phải là người Thụy Sỹ và tín đồ Công giáo. Chọn Thụy Sỹ là vì nước này thường trung lập trong các cuộc chiến tranh.


Đội quân này được thành lập 500 năm trước và được Michelangelo thiết kế cho một bộ quần áo rất đặc biệt, với sọc xanh đỏ vàng, ống thụng mà túm, cổ trắng xếp nếp. Vũ khí của các anh vẫn rất cổ điển, y hệt 500 năm trước. Việc bảo vệ bằng vũ trang hiện đại do các anh cảnh sát của Italia đảm nhiệm, còn các anh này chỉ mang tính truyền thống và biểu tượng thôi.

Tận cùng hai đầu của tiền sảnh dài hơn 100 mét, là hai pho tượng cẩm thạch hai kị sĩ tuyệt đẹp do Bernini tạc, cùng với bức rèm cũng bằng cẩm thạch mềm mại như lụa. Đó là hai vị Hoàng đế vĩ đại, một có công lớn nhất với Thiên Chúa giáo nói chung một có công lớn với Công giáo nói riêng.

Đó là Đại đế Constantine, hoàng đế La Mã đã chính thức công nhận Thiên Chúa giáo là quốc giáo năm 313, và là hoàng đế đầu tiên chịu phép rửa tội, cải đạo sang TCG. Người thứ hai là Đại đế Charlemagne, vua người Frank đã thâu tóm gần hết tây Âu, và đăng quang ngôi Hoàng đế tại nhà thờ này năm 800. Và theo Nhà thờ công giáo, thì Charlemagne đã trao tặng Giáo hoàng một vùng lãnh thổ rộng lớn trong đế quốc của mình làm Lãnh địa giáo hoàng. Về sau các nhà sử học đã chứng minh rằng tài liệu về điều đó là do các Giáo hoàng giả mạo ra hòng hợp thức hóa vùng đất mình chiếm.

Dầu gì thì hai vị Đại đế, cũng là hai vị tướng tài ba này đã được Công giáo tôn lên như là Vua Hộ giáo, và chủ đề về Constantine, Charlemagne được dùng rất nhiều trong nghệ thuật TCG.
Bước qua cửa vào trong Nhà thờ, do đi cổng bên nên chưa thấy hết được tầm vóc của tòa nhà thờ này. Nhưng ngay lập tức, pho tượng để ở bàn thờ đầu tiên bên phải thu hút tôi rất mạnh. Đó là tác phẩm kinh điển Pietà của Michelangelo.



Source from internet

Pietà là tên gọi chung của các tác phẩm mô tả cảnh Đức Mẹ Maria bế xác của Jesus sau khi được hạ từ Thập ác xuống. Đó là một thời khắc thiêng liêng, khi mà người Mẹ bế xác con trai của mình, trong nỗi đau đớn khôn cùng, nhưng lại cũng thần thánh vô cùng, vì người Mẹ đó biết rằng con trai mình là con của Chúa, và sự Chết đó là để cứu vớt tội lỗi cho loài người, sự Chết đó vinh quang và cao cả.

Không ai có thể hiểu được tâm trạng của bà Maria khi đó, người ta chỉ cố gắng mô tả lại qua các tác phẩm nghệ thuật, mang một tên chung là Pietà.

Tôi đã đọc cuốn sách về Michelangelo từ khi còn bé, nên khi nhìn thấy pho tượng, một cảm xúc thân quen và khâm phục, phấn khích tràn ngập. Michelangelo tạc pho tượng từ một tảng đá cẩm thạch nguyên khối khi mới 22 tuổi, và 2 năm sau hoàn thành. Toàn khối tượng cao gần 2m, ngang 2m.

Khi trưng bày pho tượng ra trước công chúng, người ta không nghĩ rằng đó là tác phẩm của một chàng trai 24 tuổi, và cho đó là của một nghệ sĩ khác. Michelangelo – với sự bồng bột tuổi trẻ, đã khắc tên mình lên dải áo bắt chéo qua vai Đức Mẹ, để không ai có thể xóa đi được. Về sau ông hối hận, nhưng không thể sửa được. Và đó là tác phẩm duy nhất của ông có khắc tên ông.
Pho tượng là sự tương phản, hài hòa tuyệt vời giữa những nếp gấp tầng lớp của vải vóc với thân thể, cơ bắp trần trụi, giữa sự thất vọng tột cùng và bình yên vĩnh cữu, giữa cái động và cái tĩnh, sự sống và cái chết.

Tay phải bà Maria cố gắng bế trọn xác Jesus, tay trái đang vươn ra trong một nỗi đau khổ, người ngả ra sau như để ngắm con trai mình rõ hơn. Cả cơ thể bà đang trong một sự chuyển động rõ ràng, với bàn tay trái còn chưa kịp buông xuống. Ngược lại, thân thể Jesus hoàn toàn bất động, với đôi mắt nhắm nghiền, miệng hơi hé, cánh tay buông thõng lạnh lẽo, thân xác hoàn toàn dựa vào vòng tay Người Mẹ.

Nhưng khuôn mặt của bà Maria lại không thể hiện sự đau đớn, ngược lại, lại rất thanh thản, bình yên, dường như bà đang ngắm người con Đang Ngủ chứ không phải Đã Chết. Khuôn mặt bà rất trẻ, bởi theo niềm tin TCG, Đức Mẹ Đồng Trinh thì không bao giờ già. Dường như bà biết rằng con mình đã chết cho một lý tưởng cao cả, và hơn nữa, con mình sẽ sống lại….

Trước đây, đã có một kẻ điên khùng đã dấu búa vào và đập bức tượng, định phá hủy nó, may mà đã bị ngăn chặn kịp. Nhưng từ đó người ta đã dựng một tấm kính lớn chắn trước bức tượng, và người xem cũng chỉ ngắm được ở xa xa. Đó là điều rất đáng tiếc với tôi, vì tôi thực sự muốn được ngắm nó thật gần, hơn cả bức Mona Lisa.

Tòa nhà hoành tráng này được dựng theo phong cách Phục Hưng và Baroque, nhưng người ta còn thêm một cụm nữa, đó là “theo Chủ nghĩa phô trương”. Quả thật, tại tất cả mọi góc, mọi vòm, mọi cột, mọi đỉnh, mọi mảng tường, mảng trần, mảng sàn… của nhà thờ đều là những tác phẩm nghệ thuật lớn, khiến cho người ta phải nhìn, phải ngắm rõ nhiều.

Thậm chí là nhiều quá. Có thể thấy cẩm thạch màu được làm rất cầu kì ở khắp nơi. Trong toàn bộ Nhà thờ này có 26 bàn thờ là nơi có thể hành lễ, 20 tượng đài các Giáo hoàng, hàng chục tượng các Thánh, các thiên thần… mà mỗi một trong số đó đều là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp.

Bên cạnh đó, kiến trúc, cách bố trí cửa sổ lấy ánh sáng, mái vòm,…, cũng khiến người ta kinh ngạc về sự tuyệt vời trong thiết kế cũng như xây dựng. Các cửa sổ được làm rất khéo léo hài hòa, sao cho ánh sáng đi vào không tán xạ ra ngay, mà phải chiếu thành từng luồng, từng tia lớn, tạo cảm giác thần thánh kì diệu.

Nhưng chừng ấy thứ, mà đập vào mắt người ta cùng lúc, thì thật là nhiều quá, quá nhiều. Cứ như được dọn một bàn rất nhiều thức ăn, cái nào cũng thơm, cũng ngon, cũng đẹp, tên cũng kêu. Khi đó nhìn tổng quan lại, sẽ thấy bội thực và thậm chí chán ngán, không biết nên bắt đầu từ đâu và nếm thử cái gì.

Bước vào nhà thờ St. Peter, đầu tiên là cảm giác choáng ngợp, sau đó là cảm giác bội thực và không biết nên nhìn ngắm cái gì nữa. Những bàn thờ lộng lẫy bên cạnh? Những chiếc cột lớn với các vị thánh đứng cả trên lẫn dưới? Những cạnh cột với khuôn mặt các vị giáo hoàng và các tiểu thiên thần? Những vòm cột với các thần Sức mạnh, Chân lý, Khôn ngoan… có cánh bay lượn? Những vòm trần đầy hoa văn dát vàng? Những mái vòm nhỏ vẽ hình thiên đường với các thánh thần như đang bay? Hay thậm chí là sàn dưới chân với những hoa văn cẩm thạch màu sắc sặc sỡ?
Gian chính giữa của nhà thờ dài hơn trăm mét, bề ngang hàng chục mét, với một mái vòm khảm những viên đá dát vàng lộng lẫy. Một khoảng sáng lòa rực lên ở cuối cánh, đó là trung tâm của nhà thờ, chỗ giao nhau của hai cánh chữ thập. Đó cũng là chỗ bên dưới của mái vòm lớn do Michelangelo thiết kế.

Giữa bốn cột lớn nhất đỡ mái vòm lớn là Bàn thờ chính do Bernini dựng lên, bàn thờ Trung tâm, quan trọng nhất của Giáo hội Công giáo La Mã.

Bàn thờ chính (High Altar tiếng Italia là Baldachin) là Trung tâm của Nhà thờ St.Peter. Chỉ duy nhất Giáo hoàng được làm lễ tại bàn thờ này. Cũng có ngoại lệ khi Giáo hoàng quá yếu không thể làm lễ, hoặc đã mất mà chưa có người thay thế, khi đó một vị Hồng Y được chỉ định sẽ thay mặt, nhưng cũng không được làm đầy đủ các nghi thức như Giáo hoàng.

Chính bên dưới Bàn thờ này, sâu xuống lòng đất là nơi được cho là mộ của Thánh Peter. Nhà thờ vốn xây trên nền một nghĩa địa với các hầm mộ cổ đại từ thời La Mã, nên việc tìm thấy một số bộ hài cốt là điều dễ hiểu. Nhưng liệu đó có phải là hài cốt Peter hay không thì không ai dám khẳng định.

Bàn thờ bằng đá cẩm thạch, chỉ để một Thánh giá có hình Chúa Jesus và sáu chân nến rất cao. Che cho Bàn thờ là mái lọng che được đúc bằng đồng, cao đến 20 mét do Bernini thiết kế. Bốn chiếc cột uốn lượn, theo truyền thuyết là kiểu từ thời vua Solomon của Do Thái, 1000 năm TCN, với những dây leo nhỏ mạ vàng và các thiên thần, tượng trưng cho cảnh vườn Địa đàng Eden. Bên trên là các thiên thần “người lớn” và thiên thần “trẻ con”, và tận cùng là một cây thánh giá cao.

Chính giữa mái lọng là hình một con chim bồ câu đang bay từ trên xuống, tượng trưng cho Thánh linh Thần khí của Thiên Chúa đang tỏa xuống.

Nhiều đồ đồng của Nhà thờ cũ đã được nấu chảy để đúc lên tác phẩm đồ sộ này.
Là tâm điểm của Nhà thờ và Giáo hội Công giáo, Bàn thờ chính của nhà thờ St.Peter là nơi thiêng liêng nhất, chứ không phải vị trí cuối cánh ngắn như các nhà thờ châu Âu khác. Khi làm lễ, Giáo hoàng sẽ quay mặt ra cửa chính, quay lưng lại đầu nhà thờ, tức là mặt quay về hướng đông, hướng của Jerusalem. Điều đó giải thích tại sao nhà thờ này có hướng ngược với hướng truyền thống ở châu Âu là cửa hướng Tây, đầu nhà thờ hướng đông.

Cũng khác với các nhà thờ chỉ có bàn thờ ở đầu cánh ngắn của hình Chữ thập, Chủ lễ đứng ở bàn thờ, tất cả mọi người ở đằng sau. Tại nhà thờ St. Peter, khi làm lễ thì mọi người sẽ ngồi ở xung quanh, cùng hướng về tâm điểm là bàn thờ.

Như vậy, cái trục từ trên xuống: Đỉnh cây Thập giá trên đỉnh tận cùng (137m), Mái vòm lớn (120m) đỉnh Lọng bằng đồng (20m), Bàn thờ chính sẽ trở thành cái Trục của điểm Cực Thánh, xuyên sâu xuống đất là Mộ thánh Peter.

Trên cái trục ấy, có hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa: Trên đỉnh mái vòm, nơi cao nhất có khảm hình Chúa Cha (Father), đỉnh lọng có hình con chim bồ câu tượng trưng Chúa Thánh Thần (Holy Spirit), và trên bàn thờ có tượng Jesus là Chúa Con (Son).

Sự sắp đặt ấy chỉ nhà thờ St.Peter mới đạt được sự hoàn thiện như thế.
Đỡ lấy mái vòm lớn đường kính đến hơn 40m là bốn chiếc cột khổng lồ thiết diện ngũ giác. Bốn cạnh cột quay ra ngoài, cạnh quay vào bàn thờ chính giữa tạo thành một bề mặt rất lớn, tha hồ cho trang trí.

Vào năm 1622, sau 120 năm xây dựng thì các cột đó vẫn chưa có gì trang trí, năm 1627 mới đúc xong mái lọng bằng đồng, thì Giáo hoàng khi đó đã quyết định làm bốn pho tượng lớn của các vị Thánh “thánh tích”, bất chấp số tiền phải bỏ ra rất lớn. Và Bernini cùng ba người đồng sự đã tạc bốn pho tượng đứng ở bốn góc. Năm 1638, pho đầu tiên mới tạc xong, mất 6 năm, các pho khác còn lâu hơn.

Đó là bốn pho tượng của các Thánh: Longinus, Veronica, Andrew, Helena, bốn thánh liên quan đến bốn Thánh tích, bốn Báu vật thiêng liêng nhất của Thiên Chúa giáo mà nhà thờ có được.


Thánh Longinus là người lính La Mã có nhiệm vụ canh chừng Jesus đang bị đóng đinh trên thập giá. Để thử xem Jesus chết hẳn chưa, Longinus đã dùng giáo đâm vào cạnh sườn Jesus. Sau đó Longinus đã cải đạo rồi tử vì đạo, và mũi giáo đâm Jesus trở thành một Thánh tích. Nhà thờ St.Peter đang giữ báu vật được cho là mũi giáo này.


Thánh Veronica là người phụ nữ, tín đồ đã lấy một tấm vải phủ lên mặt Jesus sau khi hạ xác Jesus từ thập giá xuống. Tấm vải đó được lưu truyền, và Tòa thánh tuyên bố đang giữ tấm vải đó. Trên mặt vải có in hình mờ mờ một mặt người nhắm mắt có râu, được cho là khuôn mặt của Chúa Jesus. Trong những dịp đặc biệt, tấm vải đó được đem ra cho mọi người xem.


Thánh Andrew là anh trai thánh Peter, thánh Tông đồ duy nhất trong bốn pho tượng, là đồ đệ đầu tiên được Jesus gọi theo mình. Andrew đi truyền giáo và bị đóng đinh trên cây thập giá kiểu chữ X rồi bị chặt đầu. Tòa thánh cũng giữ đầu lâu của thánh Andrew trong một thời gian dài trước khi trả nó về nơi ông bị giết.


Thánh Helena là người duy nhất không cùng thời với Jesus mà là 3 thế kỉ sau. Bà là Thái hậu, mẹ của hoàng đế Constantine. Khi con trai cải đạo, bà thái hậu khi đó đã 80 tuổi đã sang tận Jerusalem hành hương, đồng thời tìm được những mảnh vỡ còn lại của cây Thánh giá cùng những cái đinh đã đóng vào mình Jesus để đem về La Mã.

Bốn báu vật đó đều đang hoặc đã từng được gìn giữ tại nhà thờ này, và các vị thánh này cũng được coi như ngang với các thánh Tông đồ. Sâu dưới đất dưới các cây cột là nhà nguyện của các vị ấy. Các báu vật được giữ rải rác. Mũi giáo, tấm vải, đinh để ở căn phòng trong cây cột, một phần cây thánh giá để ở gian bên. Đầu thánh Andrew được trả về bản quán.
Những bức tượng thể hiện phong cách thời Phục Hưng – Baroque tuyệt vời. So với những pho tượng nặng nề toàn nếp gấp quần áo cổ điển, những pho tượng này tràn đầy sinh lực, là hình tượng ca ngợi vẻ đẹp hoàn mỹ của con người.

Dù là các vị thánh thiêng liêng, nhưng các vị ấy hiện lên với một dáng vẻ rất ngươi thường, đầy sức sống, như đang thở, đang bước đi, đang kêu lên. Thánh Longinus mắt ngước lên sửng sốt trước điềm kì lạ bay ngang qua; tóc của ông bay phất phơ, và ông bước lên trước dang tay như đón nhận Thần khí của Thiên Chúa. Áo ông bay ngược để lộ bộ ngực trần khỏe mạnh, bàn tay phải nắm chặt cây giáo thiêng. Cùng dáng vẻ đó là thánh Andrew đứng choãi chân trong niềm tín phục vô cùng, sẵn sàng hi sinh cho đạo. Chân ông hằn lên lớp vải rất sống động.

Thánh Veronica là pho tượng “sống” nhất. Tưởng như bà đang lao ra khỏi chỗ của mình, tay dâng cao mảnh vải có in hình mặt Chúa, như đang kêu lên hân hoan về sự hiện diện của Chúa. Dáng vẻ cầm mảnh vải của pho tượng đặc biệt đến nỗi động tác cầm mảnh vải tương tự trong đấu bò Tây Ban Nha được gọi là “động tác Veronica”.

Thánh Helena thì cổ điển hơn, với những lớp áo xòe rộng, nhưng cũng rất thanh thoát siêu phàm.

Bên trên mỗi pho tượng ấy là một ban công, mà trong những dịp đặc biệt, người ta sẽ đứng trên đó giơ cao Báu vật cho mọi người xem. Trên nữa là bức khảm hình tròn các thánh khai đạo rất lớn, đường kính đến hơn 8 mét. Những hàng chữ trên nền mạ vàng đều cao đến 2m. Mái vòm tròn bao trùm đường kính 42m
Thẳng trên Bàn thờ chính là mái vòm kì vĩ của nhà thờ St.Peter, công trình thế kỉ theo thiết kế của Michelangelo, có sự chỉnh sửa của Giacomo. Mái vòm cao và lớn bậc nhất thế giới. Khi Michelangelo mất năm 1564, mới xong phần đế mái vòm dựa trên bốn trụ, đến năm 1593, tức là mất 30 năm, mái vòm mới hoàn thành.

Vòm chia làm 16 cánh, với 16 ô cửa rất lớn lấy ánh sáng. Các cửa được thiết kế sao cho chỉ có 1 – 2 luồng sáng chiếu vào nhà thờ. Bên trên là 16 múi, với hình khảm chúa Jesus, các Tông đồ, Đức Mẹ, John tẩy giả,…, các vị thánh tử đạo, các thiên thần. Tít trong ô tròn trên đỉnh là hình Chúa Trời – Thiên Chúa Cha đang bay từ trời xuống.

Dòng chữ vòng quanh chân vòm ghi lại câu trong Kinh thánh khi Jesus nói với Peter (Peter có nghĩa là Tảng đá): “Ngươi là Peter, và trên tảng đá này Ta sẽ dựng lên Giáo hội của ta”. Câu này được Tòa thánh Roma sử dụng để khẳng định vai trò quan trọng nhất của thánh Peter trong số các Tông đồ, và do đó, của Công giáo La Mã trong toàn bộ Thiên Chúa giáo.
Câu này cũng mang một nghĩa đen: Nhà thờ St.Peter được xây dựng ngay trên phần mộ của thánh Peter, nên Giáo hội có nhà thờ này cũng là Giáo hội chính thức do Chúa dựng nên.

Mái vòm là một kiệt tác kiến trúc và hội họa vô song. Đứng dưới nó có cảm giác đứng dưới một bầu trời, một vũ trụ thu nhỏ, với ánh sáng, hình ảnh.

Dù nói gì, cũng không thể phủ nhận sự kì vĩ của nó cũng như tài năng của những người xây nên nó.
Một tác phẩm bằng đồng nằm ở tận cùng nhà thờ, là chiếc Ngai thánh Peter (Cathedral Petri). Nếu với các nhà thờ truyền thống TCG khác, thì đây là nơi quan trọng nhất. Nhưng với nhà thờ St. Peter, thì do bàn thờ chính là quan trọng nhất (thể hiện Thiên Chúa), nên nơi này chỉ là quan trọng thứ hai, nơi thờ thánh Peter, cũng như kê chiếc ngai của Giáo hoàng ngồi.

Chiếc ngai và toàn bộ xung quanh được làm bằng đồng mạ vàng. Bên dưới ngai có bốn vị thánh đỡ chân, là bốn vị khai mở TCG. Bên trên ngai là hai tiểu thiên thần đỡ chiếc mũ miện ba tầng.

Trên nữa là bức phù điêu rực rỡ thể hiện Thánh linh Thần khí của Thiên Chúa từ trời xuống, thể hiện ở con chim bồ câu xòe cánh. Vòng kính lấy ánh sáng mặt trời tự nhiên đằng sau tạo thành một vầng hào quang quanh con chim bồ câu. Xung quanh là các thiên thần mở rèm mây chiêm bái Chúa Thánh Thần.

Bên dưới Ngai của thánh Peter chính là ngai của Giáo hoàng ngồi. Toàn bộ tổng thể ấy thể hiện Giáo lý Công giáo: Thánh Peter là Tông đồ trưởng, nền tảng của Giáo hội, là Đại diện của Chúa. Và Giáo hoàng là người kế tục thánh Peter, tiếp tục đại diện Chúa Ki Tô (Vicar of Christ) trên trần thế.

Bàn thờ này các Hồng Y có thể làm lễ, nhưng chiếc ngai bên dưới chỉ dành cho Giáo hoàng được ngồi.
Ở giữa là Bàn thờ chính, là thánh giá với tượng Chúa Con (the Son: Jesus), mái Lọng bên trên có hình con chim bồ câu là Chúa Thánh Thần (Holy Spirit), trên cùng là mái vòm lớn với đỉnh cao nhất có hình Chúa Cha (the Father), là Ba Ngôi Thiên Chúa (Trinity; God).

Mười sáu cửa sổ mở ra các hướng lấy ánh sáng. Bốn vị thánh khai giáo ngự trên đỉnh các cây cột và bốn vị thánh mang thánh tích đứng ở dưới.

Đằng xa là Ngai thánh Peter bên dưới hình tượng Chúa Thánh Thần.
Tượng thánh Peter bằng đồng. Pho tượng này từ nhà thờ cũ, đúc khoảng thế kỉ 13, đến nay đã gần 800 năm. Pho tượng to hơn người thật một chút, hình thánh Peter một tay cầm chìa khóa Thiên đường, tay kia đang làm dấu ban phước.

Chân phải của tượng thò ra ngoài bệ, các tín đồ thường đến hôn chân, còn người khác chỉ sờ chân. Qua nhiều thế kỉ, bàn chân phải ấy bị mòn vẹt đi không còn hình ngón nào nữa. Chân trái cũng có tương lai không khác mấy khi người ta suốt ngày sờ.

Vào những dịp lễ, người ta lấy vải quý phủ lên tượng như khoác áo choàng kín mít, đội lên đầu tượng chiếc mũ miện ba tầng tượng trưng cho vị trí Giáo hoàng của thánh Peter. Lúc ấy chắc là cũng giống mấy pho tượng mẫu đội mũ mặc áo vải của ta.
Trong mấy chục tượng đài các Giáo hoàng, tượng đài Giáo hoàng Alexander VII có lẽ là đặc biệt, và độc đáo nhất.

Tượng đài với hình Alexander VII ở trên không có gì đặc biệt lắm. Chỉ có phần bên dưới, do Bernini tạc thì lạ kì. Đó là hình một tấm vải rất lớn màu đỏ phủ xuống, được tạc từ một khối cẩm thạch đỏ nguyên khối rất lớn. Nét tạc mạnh mẽ và sống động như tấm vải thật.

Từ dưới tấm vải, là một bộ xương người khô thò lên, đầu lâu cười nhăn nhở, tay cầm một cái đồng hồ cát. Bộ xương làm bằng đồng mạ vàng, thể hiện cho Thần Chết. Thần Chết chui từ dưới lớp vải đang báo hiệu thời gian của con người sẽ hết, ai cũng sẽ chết, ngay cả Giáo hoàng cũng sẽ chết.

Hai bên là hai tượng thần. Vị thần bên phải đứng lên quả địa cầu. Ngón chân cái của vị thần ấy dẫm lên một cái chốt mạ vàng, cái chốt ấy cắm đúng vào nước Anh, bởi vào thời gian tạc tượng, thì sự Ly giáo của Anh quốc là một mối lo lớn trong lòng giáo hoàng Alexander VII, do đó Bernini đã tạc pho tượng này thể hiện điều đó.

Một tượng đài khác là của giáo hoàng Pius VIII, ông đang quỳ dưới chân Chúa Jesus, và hai thánh Peter, Paul đứng ở hai bên. Thật lạ là trong nhà thờ Thiên Chúa giáo lớn nhất thế giới này lại không có tượng Chúa Jesus nào to lớn cả, và bức tượng ở đây là to nhất.

Cánh cửa bên dưới tượng đài dẫn vào một khu quan trọng của Tòa Thánh, đó là phòng Đồ thánh và Kho báu, một toà nhà lớn nằm sát nhà thờ, nay trở thành bảo tàng. Phía ngoài của khu này được vào tự do, có một tấm đá cẩm thạch lớn khắc tên của các vị giáo hoàng, tính từ thánh Peter, đến nay đã có 256 vị, tính cả John Paul II vừa mất.

Phía bên trong của Kho báu có Báu vật là một phần của cây Thánh Giá ngày xưa Jesus bị đóng đinh, do thánh Helena mang về từ Jerusalem. Nơi đó vào phải mất tiền.
Từ nóc nhà thờ St.Peter nhìn xuống khu Bảo tàng và thư viện của Vatican. Ngay sát chân nhà thờ là nhà nguyện Sistine nổi tiếng, nơi diễn ra các cuộc bỏ phiếu bầu Giáo hoàng.

Trong lịch sử, vào thế kỉ 13 đã có lần cuộc bỏ phiếu kéo dài đến cả 4 năm trời mà không thể nào bầu ra được Giáo hoàng, do yêu cầu phải 2/3 đồng thuận, mà các Hồng Y không thống nhất được với nhau, và có các vua chúa châu Âu can thiệp, đút lót hối lộ nhằm đưa người thân mình vào ngôi vị đó.

Người dân Roma tức giận vì sự chậm trễ đó đã trèo lên dỡ cả nóc nhà thờ khi đó (không phải nhà nguyện Sistine), cắt khẩu phần thức ăn, để cho các vị Hồng Y đói rét mà phải làm nhanh lên cái công việc bầu bán. Có 3 vị Hồng Y đã chết trong 4 năm đó, và cũng từ sau đó, luật lệ trong bầu Giáo hoàng được quy định chặt chẽ hơn, để không thể kéo dài quá lâu được.
Tất cả có 13 pho tượng, gồm tượng Jesus ở chính giữa, 12 tượng thánh ở hai bên, trong đó không có thánh Peter và Paul (vì đứng ở dưới rồi), mà thay vào đó là tượng John Tẩy giả và một vị thánh khác. Những pho tượng này cao đến 6m.

Cũng vì tượng để trang trí mặt tiền nhà thờ, có lẽ những nhà điêu khắc thế kỉ 16-17 không nghĩ đến việc về sau sẽ có nhiều du khách được lên tận nóc nhà thờ để ngắm nghía, nên mặt sau các bức tượng đều được làm rất sơ sài, qua quýt, chứ không cẩn thận cầu kì như mặt trước. Có bức mặt sau chỉ là một mặt đá phẳng lỳ, nguyên khối thô ráp.

Nhà nguyện Sistine

Source from internet

Bên cạnh Đại giáo đường St.Peter là một ngôi nhà nguyện nổi tiếng: Nhà nguyện Sistine. Nơi này được dựng làm nhà nguyện riêng của Giáo hoàng, tuy nhiên về sau trở thành nơi làm lễ thường xuyên trong năm, và nổi tiếng nhất là nơi họp Hội đồng Hồng Y để bầu Giáo hoàng mới.

Nhà nguyện được Micheal Angelo trang trí trong suốt những năm cuối đời, với những bức trann tường kì công và vĩ đại. Đây là tác phẩm hội họa lớn nhất thời Phục Hưng, gồm nhiều họa sĩ bên cạnh Micheal Angelo. Có quá nhiều câu chuyện, truyền thuyết về tòa nhà nguyện này.
Nhà nguyện được dựng theo kích thước của Đền Solomon trong Cựu Ước, dài 40m, rộng 13m, cao 20m, là kích thước của Đền thờ Thiên Chúa mà vua Solomon đã dựng từ xa xưa, Ngôi đền Thứ nhất. Được dựng từ thế kỉ 14 và trang trí đẹp đẽ, nhưng do sau đó tường bị nghiêng, nên được dựng lại trong khoảng 1473 – 1484, và được trang trí trong những năm sau đó.



Source from internet

Trần nhà nguyện là bức tranh mà Micheal Angelo đã nằm ngửa để vẽ trong 4 năm, từ 1508 đến 1511. Trần nhà là bộ Sáng Thế kí (Genius) bằng tranh vĩ đại, kể về sự Sáng thế của Thiên Chúa, tạo ra Con người, và Con người phạm tội với Thiên Chúa, Đại hồng thủy. Xung quanh các tranh về các nhà tiên tri của các dân tộc, các cảnh cuộc đời Moses, David, và phả hệ tổ tiên của Jesus.

Tác phẩm vĩ đại này trở thành kinh điển cho hội họa Phục Hưng, đề cao vẻ đẹp của con người, nâng con người lên ngang với Thiên Chúa trong vẻ đẹp hình thể.
Lần lượt từ dưới lên trên là các cảnh: Chúa tạo ra ánh sáng; Chúa tạo ra Mặt Trời; Chúa tạo ra Đất và nước; Chúa tạo ra Adam; Chúa tạo ra Eva; Adam và Eva phạm tội bị đuổi khỏi vườn Eden; Noah lập đàn tế Thiên Chúa; Đại hồng thủy; Noah say rượu.

Theo Giáo lý TCG, không được tạo ngẫu tượng Thiên Chúa, do đó không có hình vẽ, hay bức tượng nào miêu tả Thiên Chúa trong suốt hàng thế kỷ. Người ta chỉ có thể dùng hình ảnh một vầng sáng chói lòa, hoặc hình con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần, còn Thiên Chúa – Chúa Cha thì không có hình tượng.

Nhưng đến thời Phục hưng thì đã khác. Michelangelo đã vẽ trực tiếp hình ảnh Thiên Chúa như là một ông già vạm vỡ lực lưỡng, đầu râu tóc bạc, mặc tấm đơn giản, có lúc choàng rộng, lúc ngắn, cộc. Đó quả là những tư tưởng rất đổi mới, đề cao vẻ đẹp con người : Thiên Chúa hoàn mỹ cũng chỉ đẹp như con người mà thôi.
Bức tranh vẽ Adam khỏa thân bên trái, giơ tay trái ra đón nhận. Thiên Chúa ngồi trong một đám mây giơ tay phải ra, hai ngón tay trỏ của hai người gần chạm vào nhau. Chúa trao linh hồn cho Adam theo cách đó.

Trong bức tranh này, Thiên Chúa rất đời thường, lực lưỡng như một lực sĩ, tay chân, bộ ngực vạm vỡ y như Adam. Michelanglo đã dùng ý tưởng trong Kinh thánh: Thiên Chúa tạo ra Adam theo hình dáng của mình, do đó Chúa phải giống Adam. Chúa mặc áo cộc, quần cộc, đôi chân choãi tự nhiên, và quàng tay trái qua cổ một người đàn bà, có thể là hình ảnh của linh hồn Eva (khi đó chưa có).

Trong suốt 500 năm, có vô vàn ý kiến quanh bức họa này, về ý tưởng sâu xa mà Michelangelo gửi gắm. Nhiều người công nhận một điều là đám mây mà Chúa ngồi có hình dáng giống hệt bộ não người, với vòng vải hồng là Đại não, dải lụa xanh là hành tủy, thân thể Chúa chính là phần não trong, và các thiên thần ẩn hiện giống hệt các nếp gấp trên não.

Điều này cũng không phải là đáng ngạc nhiên, bởi cũng như Leonardo Da Vince và một số họa sĩ, điêu khắc gia khác, Michelangelo cũng nhiều lần mổ xác người để nghiên cứu. Việc ông nắm rõ hình dáng, màu sắc của não bộ là dễ dàng.

Nếu chấp nhận ý kiến đó, thì phải chăng Michelangelo muốn nói rằng: Linh hồn của con người nằm chính ở bộ não? Và cái thiêng liêng nhất Thiên Chúa trao cho con người chính là ở bộ não siêu phàm ???

Source from internet

Bức tranh tường lớn nhất thời Phục Hưng, tác phẩm vĩ đại nữa của Michelangelo: “Ngày phán xét “. Bức tranh ở đầu tường phía đông của nhà nguyện, được vẽ trong 7 năm, từ 1534 đến 1541 (30 năm sau khi vẽ xong trần nhà nguyện, khi hoàn thành ông 66 tuổi).


Source from internet

Bức tranh mô tả vào ngày Tận thế, các linh hồn đến trước Chúa Jesus để chờ nghe phán xử. Nguyên bản bức tranh Michelangelo vẽ, tất cả các nhân vật, chỉ trừ Chúa Jesus, đều khỏa thân, vì con người trần trụi vào ngày phán xử cuối cùng. Tuy nhiên Giáo hoàng sau đó đã yêu cầu học trò của ông phải vẽ quần áo cho các nhân vật. Học trò của ông đã vẽ những mảnh vải nhỏ vào chỗ-mà-ai-cũng-biết-là-chỗ-nào-ấy, còn đến ngày nay.

Trong bức vẽ này có hai nhân vật đáng chú ý, một là hình ảnh người đàn ông bị lột da, Michelangelo vẽ như là chân dung tự họa của mình; và một hình ảnh người đàn ông bị rắn cuốn quanh ở góc dưới, giống hệt như viên Thủ quĩ của Tòa thánh, người rất keo kiệt trong việc trả công cho ông trong suốt những năm đó.

Các bức tranh trong bảo tang Vatican

Bảo tang Vatican được thành lập vào năm 1506 do Giaó hoàng Julius thành lập để trưng bày những kiệt tác được Giáo hội Công giáo mua lại trong nhiều thế kỷ trước. Những kiệt tác này, trong đó bao gồm những bức tranh, tác phẩm điêu khắc và hiện vật lịch sử, hiện thu hút hơn 5,5 triệu du khách mỗi năm.
Có nhiều bộ sưu tập nhỏ hơn tạo nên bộ sưu tập của Bảo tàng Vatican, trong đó mỗi bộ sưu tập nhỏ lại tự hào về các tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp, nhưng có một vài điểm nổi bật đặc biệt mà du khách nên ưu tiên. Phòng trưng bày nghệ thuật Pinacoteca Vaticana có những bức tranh và tranh thờ nổi được tạo ra bởi những Danh họa bậc thầy, bao gồm Giotto, Raphael và da Vinci cũng như tác phẩm đặc trưng của Caravaggio The Entombment of Christ (Lễ chôn cất Chúa Jesus). Bảo tàng Museo Pio – Clementino có các điển hình về tác phẩm điêu khắc Hy Lạp và La Mã. Ngoài ra còn có các bộ sưu đồ sộ gồm các hiện vật của Ai Cập cổ đại, nghệ thuật tôn giáo đương đại và bản đồ trang trí của Ý qua các thời đại.

Dưới đây là các bức tranh và tượng tôi đã chụp khi thăm quan bảo tàng


Trường học Athens

Trường Athenes là bức tranh tường khổ lớn được Raphael vẽ tại phòng chữ ký (Stanza della Segnatura) của Giáo hoàng ở Vatican. Tranh được vẽ vào khoảng 1509-1510. Bức tranh như một cuộc hội ngộ của những triết gia trong hai nghìn năm. Trường học Athens không đơn giản chỉ là một ngôi trường theo nghĩa bình thường, mà ở đó là tập hợp những vĩ nhân của nhân loại, mỗi nhà hiền triết, nhà khoa học đều được Rafael nổi bật hóa vị trí của mình trong bức tranh, có thể hiểu đây là ngôi trường đặt nền móng thiết lập hệ tư tưởng cho loài người”. Hai ông tổ của nghành triết học, thầy trò Plato và Aristotle chễm chệ vào đứng giữa bức tranh như đại diện cho hai trường phái triết học tương phản nhau . Plato với ngón tay phải chỏ lên cao tượng trưng cho Trời, còn Aristote để xấp lòng bàn tay như đối chọi với Trời, hình ảnh tượng trưng cho Đất. Đó là phong cách của hai triết gia, một người theo đuổi lý thuyết siêu hình, còn một người bảo vệ những logic khoa học thực tế. Ở phía bên trái, những người theo hướng của Plato như đang nghiên cứu sự huyền bí của vũ trụ, còn phía bên phải những nhà triết học theo Aristotle đang chăm chú theo dõi những quy luật phát triển tự nhiên của con người Siêu hình và thực tế lồng vào trong cùng một tổng thể bức tranh như để tôn vinh sự cần thiết của cả hai trường phái này. Hai triết gia, một người “ngước” lên Trời, một người “hướng” xuống Đất, cùng nhau đứng dưới mái vòm Athens mở ra bầu trời xanh. Socrates đứng bên trái (gần Plato) đang thuyết giảng luân lý cho học trò . Còn bên phải, Euclid đang thể hiện một minh họa hình học cho những người xung quanh Quả đất tượng trưng cho kiểu triết học khoa học tự nhiên và con người, còn quả cầu Thiên đàng biểu trưng cho thần học, một mối liên hệ mật thiết giữa nghiên cứu bản chất tôn giáo, Chúa Trời với trí tuệ con người. “Trường học Athens” của Rafael miêu tả nền tư tưởng “Hi Lạp cổ đại” tại La Mã thời Phục Hưng (thế kỷ 14,15,16).

Cuộc tranh luận về Bí Tích Thánh Thể

“Cuộc tranh luận về Bí Tích Thánh Thể” là một trong hai bức tranh tường nổi tiếng mà Raphael đã vẽ ở phòng Stanza delta Segnatura (Phòng chữ ký) trong bảo tàng Vatican theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Julius II (1453-1513).
lấy cảm hứng từ hoạt động của Giáo hội trong nỗ lực minh định về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi – bắt đầu từ Công đồng Nice (nhóm họp năm 325), Công đồng Constantinople (nhóm họp năm 381) liên tục đến thời đương đại . Phần dưới này của bức tranh thể hiện các cuộc tranh luận trong nỗ lực minh định đó của Giáo hội. Ở đây, ngay sát bàn thờ Thánh Thể, có sự hiện diện của Thánh Augustinô (áo xanh, bên phải) và Thánh Tôma tiến sĩ (đang chỉ hai tay về Mình Thánh Chúa, bên trái) – hai vị Thánh đã nỗ lực đào sâu giáo lý Chúa Ba Ngôi. Chung quanh, chúng ta có thể nhận thấy hình ảnh của các Giáo Hoàng, các nhà thần học và các nhà thông thái của Giáo hội… Theo mô tả của Vasari, người mặt áo vàng nổi bật ở dưới cùng là Đức Giáo Hoàng Sixtus IV (1414-1484), và người mặt áo đỏ đứng ngay ở phía sau là nhà thơ vĩ đại (và là nhà thần học) Dante Alighieri (1265-1321)- tác giả Thần Khúc… Ở vị trí trung tâm là Chúa Giêsu trong hình ảnh là Đấng Phục Sinh. Với hình ảnh này, Raphael đã thể hiện ý nghĩa về sự hiệp nhất hai bản thể: bản thể Thiên Chúa, và bản thể nhân loại, trong một ngôi vị là Chúa Giêsu. Ở hai bên Chúa Giêsu là Đức Mẹ Maria và Thánh Gioan Tẩy Giả. Rộng ra hai cánh, theo mô tả của Vasari, là Ađam, Giacóp, Môsê, Đavit, Thánh Phêrô, Thánh Phaolô, và các Thánh “Tử Vì Đạo”… Bản thân sự hiện diện của các thành phần rộng rãi này, là một minh chứng cho sự hiệp thông nơi Thiên Chúa.


Hải chiến Ostia


Vụ hỏa hoạn ở Borgo


The Coronation of Charlemagne


The Mass at Bolsena


Sala di Costantino (1517-1524)


Crowning of the Virgin ( Tấn phong Đức Mẹ Đồng Trinh)


The transfiguration of Christ ( Đức Chúa Biến Hình)

Một trong những bức tranh bất hủ của danh họa Rafaello, người Italia, hiện đang được cất giữ trong bảo tàng viện Vatican: đó là bức họa Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê.

Trong bức tranh, người ta thấy có ba tầng. Ở tầng cao nhất của bức tranh là khuôn mặt và toàn thân Chúa Giêsu trong cảnh chiếu sáng rực rỡ giữa các tầng mây. Ở tầng dưới của bức tranh và kề sát với Chúa Giêsu là ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong tình trạng ngây ngất trước sự biến dạng rực rỡ của Chúa Giêsu. Và ở tầng thấp nhất của bức tranh, người ta thấy một nhóm môn đệ và một gia đình đang quây quanh một em bé đang đau liệt: tất cả đều chìm ngập trong một khung cảnh ảm đạm, mờ ảo.

Madonna di Foligno


Lament over the dead Christ


“Đóng đinh Thánh Peter”


Last Communion of St. Jerome , by Domenichino


St Jerome in the Wilderness ( Thánh Jerome ở vùng hoang dã là bứctranh còn dang dở của Leona De Vinci)


The Adoration of the Magi. by. Raffaellino del Colle.


Madonna of Monteluce by GIULIO ROMANO


Saint George Killing the Dragon’ by Giuseppe Mazzolini


The Raising of Lazarus or the Resurrection of Lazarus by Girolamo Muziano


Armida and Rinaldo by Bonatti, Giovanni


Martyrdom of St Clement, Pier Leone Ghezzi


The Entombment of Christ ( Lễ chôn Đức Chúa), by Caravaggio


La Fortuna by Guido Reni.


Adam and Eve in the Garden of Eden Paradise by Wenzel Peter


Crowning of the Virgin, Angels, Saints and Donors – Fra Filippo Lippi


Madonna and Child with Sts Francis, Laurence, John the Baptist, Peter, Dominic


Martyrdom of St. Erasmus – Nicolas Poussin

Một số bức tượng trong bảo tàng Vatican

Thần Apolo
.

Tượng thần sông Arno

Laocoon chiến đấu với rắn thần

Laocoon vốn là thầy tư tế của thành Troy, làm nhiệm vụ trông coi đền thờ Apollo. Quân Hy lạp tấn công Troy mãi không được bèn lập kế làm 1 con ngựa gỗ to bỏ lại trước cổng thành Troy rồi giả vờ rút quân. Dân thành Troy thấy con ngựa đẹp bèn tìm cách đưa vào trong thành. Laocoon biết được quỷ kế đó bèn cảnh báo dân Troy và tìm cách chứng minh là trong con ngựa có chứa quân lính. Nữ thần Athena, vốn trợ giúp cho quân Hy lạp bèn phái 2 con rắn thần đến quấn chết 3 cha con Laocoon.

Nhóm tượng được làm từ 4 khối đá cẩm thạch ghép lại một cách tài tình. Mô tả sự chống cự tuyệt vọng của 3 cha con khi bị rắn thần quấn chết. Từ gương mặt, cử động của thân người đến sự căng cứng của các cơ bắp, tất cả đều hoàn hảo và mẫu mực. Khi được phát hiện, phần tay phải của Laocoon bị mất. Đã nổ tra tranh cãi giữa các nghệ sỹ, điêu khắc gia xem tư thế của cánh tay phải sẽ như thế nào. Michealangelo khi đó cho rằng cánh tay phải sẽ gập lại. Các nghệ sỹ khác thì cho rằng nó phải kéo dài ra. Giáo hoàng khi đó mới thành lập hội đồng nghệ thuật để quyết định và chỉ định Raphael làm trọng tài. Cuối cùng phương án tay phải giơ lên cao được chọn.
Năm 1906 một nhà khảo cổ học đã tìm thấy phần cánh tay bị mất của 1 bức tượng và gửi đến Vatican. Mãi tới những năm 50 của thế kỷ 20, Vatican mới quyết định đó chính là 1 phần tay phải của Laocoon và gỡ phần tay đắp thêm trước đây ra, gắn phần tìm thấy vào. Chính xác như Michelangelo đã phán đoán trước kia, đúng là thiên tài.


Belvedere Torso.
Đây là phần sót lại của 1 bức tượng có lẽ là Hercules. Được trưng bày khá trang trọng, có rào bao quanh, nhiều người nhìn nó trông khá xấu xí, nhưng Michelangelo không nghĩ thế. Với ông đây là pho tượng rất đẹp. Khi giáo hoàng đề nghị ông điêu khắc thêm những phần bị mất, ông đã từ chối và nói nó quá đẹp, không nên thay đổi bất kỳ cái gì. Có lẽ chỉ thiên tài mới hiểu được thiên tài. Ở thời ông thì ông là đỉnh. Cạnh tranh với ông thì chắc chỉ có các nghệ sỹ cổ đại thôi và có thể vì thế, ông cũng không muốn xúc phạm tiền nhân.


Đây là mái vòm nơi đặt bức tượng trên
.

Chậu tắm từ thời Nero làm từ một phiến đá tím quý hiếm và rất lớn bên Ai cập, xung quanh là các tượng hoàng đế Rome


Nữ thần Hera, vợ thần Zeus


Tượng hoàng đế Claudius. Claudius vốn là hoàng đế khá kém cỏi nhưng ở đây lại lấy hình tượng của thần Zeus, đầu đội vương miện kết bằng lá sồi, dưới chân là con đại bàng. Nhiều hoàng đế Roma ngày xưa rất thích lấy các hình ảnh thần thánh để tạc tượng mình



Trần nhà được trang trí tuyệt đẹp


Trần nhà phủ suốt bằng các bức tranh khắp đường đi

Vừa đi bộ lại phải ngửa cổ lên ngắm

Ngày cuối cùng ở Ý, chúng tôi tiếp tục theo tour đi về phía Nam tới thăm hai địa danh nổi tiếng cùng nằm trong danh sách di sản Unesco từ lâu, đó là thành phố bị trôn vùi Pompeii và danh thắng Amafi

Pompeii – Thị trấn từng bị trôn vùi 1600 năm


Ngôi đền thần Jupiter

Bạn đã từng xem bộ phim “ Thảm họa Pompeii “ , bộ phim lấy bối cảnh từ thảm họa núi lửa kinh hoàng trong lịch sử đổ xuống thành phố phồn hoa Pompeii thời kỳ La Mã huy hoàng cách đây 2000 năm
Ngược lại dòng lịch sử, Pompeii từng là một thành phố vô cùng văn minh và giàu có của người La Mã cổ đại. Họ đến và xây dựng thị trấn này từ khoảng 600 đến 700 năm trước công nguyên , rồi cho đến một ngày định mệnh vào tháng 8 năm 79 sau công nguyên, Miệng núi Vesuvius nứt ra, sức nóng từ bên trong lòng đất làm chảy khối đá bên trên của ngọn núi, theo sức nóng, nham thạch đã được phun lên cao 33km (20.5 miles) và kết tụ thành những viên bi đá rơi xuống. Hàng triệu, hàng tỷ những viên bi đá ấy đã từ từ rơi xuống thị trấn Pompeii trong trong nhiều ngày đêm liên tiếp.


Hình hài một người ôm mặt vì không thể thở được lưu giữ trong khu trưng bày

Rồi vào một buổi sáng, tiếp theo những cơn mưa đá là một luồng không khí cực nóng từ miệng núi lửa đã phun ra bao trùm cả thị trấn, những người dân còn bám trụ lại với nhà cửa tại Pompeii đều chết ngay lập tức. Phổi của họ chứa đầy bụi nóng, da thịt và nội tạng khô đi thật nhanh, những thân xác của các nạn nhân liền được phủ kín, chôn vùi bởi bụi và đá. Cả thị trấn bị trôn vùi dưới lớp bụi đá dày từ 4-9m và đi vào truyền thuyết một đô thị sầm uất bị mất tích trong suốt 1600 năm


Các cổ vật được tìm thấy

Cho tới một ngày vào năm1599 khi một người nông dân đào giếng tìm nước, bất ngờ phát hiện ra những đoạn tường với các bức tranh tường và một số cổ vật đầu tiên, nhưng sau đó nó bị lấp lại và sự khai quật phát lộ chính thức chỉ được tiến hành vào năm 1748 bới kỹ sư người Tây Ban Nha Rocque Joaquin


Khu vực được coi như Forum của thị trấn, nơi tập trung sinh hoạt cộng đồng



Nhưng “khu phố” với các cửa hàng bán bánh được quy hoạch ngay ngắn


Nhà hát ngoài trời cổ xưa nhìn không khác với nhà hát ngày nay về bố cục, Tất cả đều được xây theo hình vòng tròn hoặc vòng cung. Các dãy ghế được cưa, đẽo, khắc bằng đá, xếp từ thấp đến cao


Đặc biệt là khu nhà tắm công cộng còn khá nguyên vẹn


Đường đi lối lại được đặt thấp để thoát nước và hai bên đều có vỉa hè

Một điều ngạc nhiên trong đô thị này có cả một nhà trọ với quầy tiếp tân được xây bằng đá vẫn còn nguyên vẹn giống như các quầy reception hiện nay, tiếp sau đó là dấu vết của những căn phòng nhỏ. Một điều thú vị là những du khách tham quan đã bật cười khi bước vào một căn nhà được giới thiệu là “thanh lâu”, nằm đối diện “khách sạn”. Có lẽ nơi đây được xây lên và họ “ăn theo” cái “khách sạn” kia để buôn hương, bán phấn. Căn “thanh lâu” này có tám phòng rất nhỏ, mỗi phòng có một cửa sổ và một bệ đá. Trên tường vẫn còn rõ nét các bức họa vẽ cảnh những đôi trai gái đang hành lạc mây mưa. Cuối dãy của “thanh lâu” có một căn phòng dùng làm phòng tắm rửa và toilet, được che chắn bởi một bức tường đá. Dấu tích của căn“thanh lâu” cổ này cho thấy mãi dâm là một nghề rất xưa, đã có từ thời cổ đại.

Một số ảnh về thanh lâu này

Phòng ngủ có cả gối

Các bức họa trên tường ( ảnh từ internet)

Sự kiện và câu chuyện này xảy ra đã quá lâu – 2000 năm, biến cố Pompeii với lịch sử hiện đại con người thật là dài, và cho dù những phần khai quật ở Pompeii hôm này mới chỉ chiếm 40% trong tổng thể thị trấn xưa kia nhưng càng lang thang giữa những khối đá gạch còn sót tôi cảm thấy khâm phục về những giá trị mà nên văn minh La Mã đã mang đến cho các thế hệ về sau.

Amafi coast và Làng Positano

Lần đầu tiên tôi biết tới làng Positano nằm trên bờ biển Amafi khi xem cuốn tạp chí National Geographic, tôi bị ấn tượng mạnh với bức ảnh đẹp đến ngạt thở. Những ngôi nhà với màu sắc sặc sỡ xếp từng lớp trên núi, dưới là nước biển xanh ngắt với những con thuyền màu trắng, tôi nghĩ đây là một trong những nơi đẹp nhất hành tinh


(source from internet)
Làng Positano vốn là một bến cảng của cộng hòa Amalfi vào thời trung cổ, đã từng thịnh vượng vào thế kỷ 16 và 17, tuy nhiên tới giữa thế kỷ 19, cả thị trấn đã rơi vào một thời điểm gian khó , khi đó, hơn nửa số dân làng đã rời bỏ mảnh đất này ra nước ngoài, chủ yêu là nước Mỹ. Cho tới tận nửa đầu thế kỷ 20 Positano vẫn chỉ là một làng đánh cá nghèo, tới những năm 50, sau thế chiến 2, khách du lịch bắt đầu tới ngôi làng đặc biết sau khi một nhà văn có tên John Stanbeck viết một bài báo trên tạp chí Harper’s Bazaar vào tháng 5 năm 1953 về ngôi làng này


Đường đi trong thị trấn rất nhỏ chỉ dành cho một chiều xe, chỗ đỗ xe hạn chế và đắt đỏ


Từ bãi đỗ thong dong đi bộ ngắm những cãn nhà nhiều màu sắc xây sát núi


Lần theo những bậc thang dẫn xuống bãi tắm


Khá đông khách bơi


Đầy đủ phương tiện phục vụ cho các hoạt động ở biển


Thưởng thức ly bia sau khi thăm ngôi làng

Positano còn nổi tiếng về những vườn chanh trĩu quả và các sản phẩm từ nó, đây là đặc sản Limoncello một loại brandy độc nhất vô nhị với hương vị say đắm tới ngây ngất mà chỉ người Ý mới nghĩ ra. Limoncello được chế biến bằng cách ngâm vỏ chanh trong rượu mạnh để tinh dầu chanh tiết ra thành những màu vàng xanh tươi rói sau đó được pha thêm với đường.
Rượu được dùng sau bữa ăn tối, hãy uống một ly để cảm nhận vị ngọt nhẹ và hương thơm dịu dàng đặc trưng kết tinh từ nắng trời và gió biển đón trên những sườn núi bờ vịnh Sorrento, hơi ấm từ ly rượu sẽ lan tỏa khắp người và bạn sẽ muốn bay lượn ra bãi biễn Amalfi xinh đẹp để đùa với sóng, gió và cát

Chia tay Positano – cũng là điểm cuối cùng trong chuyến hành trình nước Ý, tôi nhớ đến câu nói của John Stanbeck nhà văn Mỹ người đã mang lại nguồn cảm hứng cho bao du khách khi đọc bài viết về Amafi Coast của ông “Positano là một giấc mơ không có thật khi bạn đang có mặt ở đó và nó bỗng nhiên trở nên hiện hữu khi bạn vừa mới bước chân đi”

Trên đường trở lại Rome , chúng tôi dùng lại trên bờ vinh Sorrento – ngắm nhìn địa danh đã đi vào bài hát nổi tiếng có tuổi đời hơn một trăm năm “ Trở về Sorrento” , xin mượn vài câu hát trong bài thay như lời chia tay của chúng tôi với nước Ý – điểm hẹn tươi đẹp

Biển hiền hòa lớp sóng đẹp bao la.
Đời ta như rộn vang ngàn câu ca.
Ôi đất nước xanh tươi như mộng đời.
Lưu luyến trong tâm hồn bao người

 

TêHát

Sưu tầm

Chỉnh sửa lần cuối vào %AM, %28 %679 %2017 %11:%04
Cùng chủ đề này « Làm Thinh World’s Strongest Man »
back to top