Sáng tác

Sáng tác (40)

BÀI TỰA “THIỀN TÔNG CHỈ NAM” CỦA VUA TRẦN THÁI TÔNG


 

BÀI TỰA “THIỀN TÔNG CHỈ NAM”

CỦA VUA TRẦN THÁI TÔNG

NGUYỄN GIỤ HÙNG

Phần 1

MỘT BUỔI SỚM MAI

Lời mở đầu:

-Nội dung câu chuyện được ghi lại theo ký ức của một người xa quê lâu năm nhớ về “những năm tháng ấy” tại quê nhà vào giai đoạn đầu thập niên 1950, trước hiệp định Geneve 1954 ở miền Bắc nước ta.

 

      Hà Nội chưa thức giấc!

    Tôi, Thi và Uyên, cả ba chúng tôi đạp xe song song bên nhau trên đường phố Hà Nội. Chẳng ai nói với ai lời nào, nhưng sao tôi vẫn thấy thật gần gũi và thân thương với nhau quá. Gần gũi như những cây sấu mọc dọc hai bên đường, đương vươn cành, khoác vai nhau thủ thỉ dưới ánh đèn điện lờ mờ trong sương sớm.
    Tất cả cảnh vật chung quanh, bỗng dưng tôi cảm nhận như có một cái gì rất “của riêng mình” để yêu chúng hơn, để thấy mình là chúng và chúng cũng chính là mình. Cái cảm giác lâng lâng đầy hòa ái ấy, phải chăng nó xuất phát từ sự tinh khiết, yên tĩnh của một buổi sáng sớm thanh bình. Hay nó đến từ hình ảnh của Thi, người con gái đang đạp xe bên tôi mà tôi hết mực yêu thương. Tôi tự mỉm cười với ý nghĩ đó.
    Hình ảnh của tôi và Thi không thể tách rời nhau và cũng không thể tách rời ra khỏi thành phố Hà Nội. Thành phố này đã ghi lại biết bao nhiêu kỷ niệm kể từ những ngày chúng tôi vừa mới thân nhau. Tôi nhớ lại, những ngày Thi còn như con chim nhỏ truyền cành, tung tăng trên đường phố trong những dịp đi chơi cùng tôi. Nàng thường nắm tay tôi kéo đi cho nhanh hơn mỗi khi tôi la cà dừng chân hay đi chậm lại. Chợt đến một ngày, cái ấm áp mềm mại của đôi bàn tay ấy như có một điều gì khác lạ. Và tôi nhận ra một sự thay đổi lớn sâu kín trong tôi: tôi đã yêu nàng. Sự khăng khít cứ tăng lên mãi theo ngày tháng bên nhau. Và để hôm nay, không thể nghi ngờ, nàng sẽ là người đi bên tôi đến trọn cuộc đời như một định mệnh đã được an bài.
    Tôi đưa tay sang xoa nhẹ bàn tay Thi. Hai chúng tôi nhìn nhau cùng mỉm cười. Uyên cũng mỉm cười với chúng tôi một cách bâng quơ.
    Chúng tôi đạp một vòng theo bờ hồ Hoàn Kiếm, một cái hồ mang dấu tích lịch sử của thời vua Lê Lợi, và người ta từng ví nó như hình ảnh của một đóa hoa đẹp được đặt giữa lòng thủ đô Hà Nội. Vài cây cổ thụ quanh hồ chìa cành nằm xoài mình trên mặt nước, soi bóng lung linh dưới ánh đèn đường. Tháp Rùa mờ mờ trong sương.
    Tầu điện chưa chạy nên thiếu tiếng leng keng. Lác đác vài chiếc xe xích lô đi tìm khách sớm, chậm chạp, uể oải như người còn đang ngái ngủ. Thỉnh thoảng lắm mới có một hai chiếc ô–tô con chạy đi vội vã, phá tan bầu không khí yên tĩnh của phố phường.
Hà Nội vẫn ngủ!
    Ba chúng tôi vui chân đạp xe về hướng Hồ Tây. Hồ Tây là hồ lớn nhất Hà Nội. Xung quanh Hồ có nhiều thắng cảnh, cộng thêm vào với nhiều truyền tích dân gian. Có những truyền tích ngàn năm, tới bây giờ vẫn chưa ai giải mã được.
    Gió mát quá!
    Chúng tôi khóa xe bên cây cổ thụ rồi lững thững đi bộ trên con đường nhỏ dọc theo bờ hồ. Bóng chùa Trấn Quốc ẩn hiện lờ mờ. Đèn điện dọc đường Cổ Ngư và ven Hồ Tây không đủ sức phá tan đi sương sớm đang bao phủ mặt hồ. Không gian nơi đây trở nên huyền ảo, trầm mặc và thật nên thơ.
    Tôi nắm tay Thi cùng chạy lên phía trước. Uyên bước vội theo sau. Chạy được một quãng ngắn, trong lúc “ngẫu hứng”, tôi nhắc bổng Thi lên quay một vòng. Thi ép mặt vào vai tôi cười khúc khích. Tôi đặt nàng xuống rồi lại nắm tay nhau chạy tiếp. Chạy thêm một quãng nữa mới dừng chân, cùng dang tay rộng hít thở vài hơi thật dài. Tôi khoác vai Thi đi ngược trở lại phía sau đón Uyên cũng đang bước tới.
    Ba chúng tôi lại cùng đi bên nhau. Tôi hứa với Uyên, có dịp nào thuận tiện, tôi sẽ đưa Thi và nàng đi chơi một vòng Hồ Tây. Tôi sẽ giảng giải cho nàng về những thắng tích quanh vùng. Uyên nhìn tôi cảm động với đề nghị ấy.
    Vừa đi, tôi vừa kể cho Uyên nghe về những kỷ niệm ban đầu của tôi và Thi đã từng trải qua trên con đường này, thường vào những buổi chiều nhàn rỗi hay trong những ngày nghỉ học cuối tuần. Uyên bóp nhẹ vào cánh tay Thi như để chia sẻ niềm hạnh phúc của cô em. Thi không thể che dấu được sự sung sướng của mình trên nét mặt. Đôi lúc, Thi bụm miệng cười mỗi khi tôi “kể xấu” về nàng.
    Trời bắt đầu sáng dần. Hà Nội đã tỉnh dậy. Sinh hoạt của thành phố bùng lên rất nhanh. Tiếng xe cộ, tiếng rao hàng, tiếng người qua lại chẳng mấy lúc đã trở nên ồn ào huyên náo.
    Giữa những tiếng ồn ào của nơi đô hội ấy, tiếng chuông chùa Trấn Quốc bỗng ngân lên và văng vẳng vang xa. Tiếng chuông chùa dõng dạc, điểm từng tiếng một, bình thản như bước chân thiền hành của các vị thiền sư, đi để mà đi chứ không phải đi để tới nơi nào. Dõng dạc, bình thản nhưng nó vẫn huyền diệu, có khả năng đưa lòng người về với “chân như”.
    Chúng tôi nhìn nhau như hỏi ý. Và cũng không cần ai phải lên tiếng, chúng tôi cùng quay bước về phía chùa Trấn Quốc, nơi phát ra tiếng chuông ngân.
 
    Chùa Trấn Quốc nằm trên một ốc đảo ngay ven bờ Hồ Tây. Những hàng cây cau và những cây cổ thụ quanh chùa in bóng trên mặt nước. Chùa có lịch sử lâu đời. Nơi đây, Thái hậu Ỷ Lan – thời nhà Lý – thường có những buổi đàm luận với các vị sư nổi tiếng đương thời về nhiều đề tài liên quan đến Phật giáo. Cũng nhờ vào đó, ngày nay chúng ta mới có thêm những tài liệu quý báu để truy tìm ra được phần nào về lai lịch và sự phát triển của Phật giáo Việt Nam ở vào thời kỳ đầu. Chùa đã bị đổi tên nhiều lần và cũng mang nhiều dấu vết thăng trầm. Trịnh Sâm đã từng biến chùa này thành “cung hành lạc” để vui thú cùng cung nữ. Bà Huyện Thanh Quan đã có bài thơ trách cứ về sự việc này.
Chúng tôi bước theo dải đất dài, nối liền từ bờ hồ ra ốc đảo, dẫn đến cổng chùa. Chùa mang dấu vết rêu phong của thời gian hàng nhiều thế kỷ. Càng vào sâu bên trong, chùa càng được mở rộng ra. Ngoài chính điện to lớn là dẫy nhà ngang dùng làm nơi sinh hoạt và tiếp khách thập phương hàng ngày. Bên trong chính điện, ngoài thờ Phật ở chính giữa, còn thờ thần như các bà Thánh Mẫu ở hai bên hông điện, một hình ảnh về sự hòa hợp của hai tôn giáo Phật–Nho và tín ngưỡng thờ Mẫu rất riêng biệt của Việt Nam ta.
 
    Tiếng chuông “đại chung” vẫn dõng dạc ngân vang. Tôi và Thi tò mò trèo lên tháp chuông. Nơi đây, một chiếc chuông to treo trên “giá” gỗ. Tôi nghe nói chuông này được đúc vào năm Cảnh Hưng thứ ba đời Tây Sơn. Một chú tiểu độ chừng mươi tuổi, ngồi bên đánh chuông với nét mặt thật hồn nhiên. Tôi bấm tay Thi đi xuống cầu thang để đừng làm kinh động tới chú.
    Bước vào chính điện, tôi thấy Uyên đang thắp hương, đứng lẩm bẩm khấn vái trước bàn thờ các bà Thánh Mẫu. Tôi và Thi cùng thắp hương lễ Phật. Đứng bên nhau, tôi liếc mắt sang Thi thấy nàng nghiêm trang và “người lớn” hẳn lên. Tôi mỉm cười. Lễ xong, Thi quay sang hỏi tôi:
    – Em liếc thấy anh mỉm cười. Đang lễ Phật mà anh cười à?
    Tôi không trả lời Thi. Ra tới ngoài sân tôi mới hỏi đùa lại:
    – Đang lễ Phật mà em liếc anh à?
    Thi che miệng cười nhỏ.
    Uyên vén vạt áo dài ngồi xuống thềm chùa, trên nét mặt vương vất một chút gì trầm mặc, ưu tư. Nàng nói với tôi:
    – Mỗi lần bước vào chùa, em thấy lòng mình thật thanh thản. Mọi hình ảnh trầm luân của cuộc đời dường như được xóa đi trong tâm trí em. Mùi nhang thơm đưa em về một nơi nào thật an bình. Em mới hiểu các vị vua đầu đời Trần, các ngài không muốn làm vua mà chỉ thích đi tu. Vừa làm hết trọng trách với đời là vội vàng tìm về với đạo. Người xưa hay hơn chúng ta bây giờ nhiều anh nhỉ?
    Tôi nhìn Uyên và chia sẻ với lời tâm sự của nàng:
    – Anh hoàn toàn đồng ý với Uyên. Cứ như vua Trần Thái Tông, ngài trốn triều đình lên núi Yên Tử tìm cầu làm Phật. Triều đình phải đến tận nơi đó mời ngài trở về cung. Khi thắng quân Nguyên năm vừa tròn bốn mươi (40) tuổi, ngài nhường ngôi cho con là vua Trần Thánh Tông rồi vào Hoa Lư lập cung Thái Vi để tu hành. Nhưng thật ra, ngài đã thực hiện con đường đời–đạo song hành: khi làm vua lo việc nước, ngài vẫn chăm lo tu học; khi đi ẩn tu, ngài vẫn để tâm lập hậu cứ ở Hoa Lư để phòng chống quân Nguyên sau này. Uyên còn nhớ câu chuyện ấy chứ?
    – Thưa anh, em còn nhớ!
    – Tốt lắm! Về nhà nhớ nhắc anh nói thêm cho Uyên nghe về một bản văn của ngài, tức bài tựa “Thiền Tông Chỉ Nam” của vua Trần Thái Tông còn lưu lại tới ngày nay.
Uyên nhìn tôi với ánh mắt biết ơn:
    – Em cám ơn anh nhiều lắm!
    Thi cũng nắm cánh tay chị nói thêm:
    – Anh ấy đọc quên cả ăn! Em phải dục mãi anh ấy mới chịu buông sách. Anh nói phải đọc gấp vì chị sắp lên chơi.
    Uyên nắm tay Thi:
    – Chị cũng cám ơn em luôn! Hai người là một mà!
    Chợt Thi xoa bụng mình, nhõng nhẽo:
    – Em đói!
    Tôi nói đùa:
    – “Con gái mười bẩy bẻ gẫy sừng trâu” có khác, lúc nào cũng kêu đói!
    Thi nhăn mặt cãi lại:
    – Em sắp mười sáu mà!
    Tôi cười to:
    – Em thích làm người lớn! Anh tưởng em đòi tăng tuổi mình lên tới mười tám nữa đấy chứ!
    Thi biết mình bị lừa nên “véo” tôi một cái nhẹ:
    – Em ghét anh!
    Tôi và Uyên cùng cười. Tôi cũng bắt chước Thi xoa bụng mình:
    – Anh cũng đói! Để anh vào trong bếp xem có cơm chay không nhé! Cơm chay ngon lắm đấy!
    Uyên vội cản:
    – Mới sáng sớm, nhà chùa làm gì đã có cơm chay!
    Thi nhẩy nhẹ lên, khẽ vỗ tay như hoan hô ý kiến “xin ăn” của tôi. Đúng lúc có chú tiểu đi ngang qua sân, tôi liền hỏi:
    – Chú tiểu ơi, nhà chùa có cơm chay cho khách thập phương không chú!
    – Thưa thí chủ, nhà chùa chỉ ăn một bữa vào giờ Ngọ (giữa trưa) thôi ạ!
    Tôi vờ ôm bụng tỏ ra thất vọng. Tôi hỏi đùa thêm:
    – Thế nhà chùa còn cơm nguội không chú?
    Chú tiểu biết chúng tôi hỏi đùa nên chỉ mỉm cười bước vào chính điện.
    Chúng tôi sợ “thất lễ” với chú tiểu nên phải “bấm bụng” nhịn cười cho tới khi chú đi khuất.
    Thi lườm tôi:
    – Anh không tha cho ai hết! Vào chùa mà cũng còn đùa nghịch. Phật phạt anh bây giờ!
    Uyên nói ngay:
    – Anh ấy không sợ Phật phạt đâu, mà chỉ sợ cô em gái của chị phạt đấy thôi!
    Tôi nói với Uyên:
    – Phạt gì thì phạt! Cô ấy đừng “véo” và đừng “cắn” anh là được.
    Thi hỏi:
    – Thế phạt anh bằng cách nào?
    Tôi đi lùi nhanh ra phía cổng chùa, tay chỉ chỉ vào má tôi như có ý bảo “phạt anh bằng cách hôn anh đây này”. Thi phồng má “không!” một tiếng nhẹ rồi đuổi theo tôi. Tôi vừa chạy ra khỏi cổng chùa thì đi chậm lại.
    Thi nhõng nhẽo:
    – Em phạt anh! Anh phải cõng em ra xe!
    Tôi vờ ghé lưng như để cõng Thi lên. Thi nhìn chung quanh rồi cười:
    – Em tha cho anh lần này đấy!
    Nói xong nàng quay lại để đi cùng với chị.
    Tôi đề nghị:
    – Anh mời hai cô đi ăn phở nhé!
    Thi nắm tay chị kéo đi:
    – Đi ăn phở đi chị! Anh ấy mới “lĩnh lương” mà.
    Uyên rút tay ra khỏi tay Thi:
    – Ăn ngoài tốn tiền lắm! Về nhà ăn cơm với món gà kho gừng của mẹ mới gửi cho.  
   Không ăn mẹ giận đấy!
    Thi ngúng nguẩy, nũng nịu đi theo chị.
    Nắng sớm đã lên cao. Chúng tôi lấy xe, đạp thẳng về nhà.
 
 

Hình minh họa

***

Mời nghe bản nhạc:

Tỉnh thức

 

Mời xem tiếp PHẦN 2

Nguyễn Giụ Hùng

 

 

Xem thêm...

NỢ - NGUYỄN GIỤ HÙNG

THƯ GỬI BẠN

NỢ

NGUYỄN GIỤ HÙNG

 

 

Trong trần thế duyên duyên, nợ nợ,

Duyên cũng đành mà nợ cũng đành.

(Nguyễn Công Trứ)

 

Cái nợ hình dung nó thế nào?

Khiến người ngao ngán, ngẩn ngơ sao!

(Trần Tế Xương – “Cái nợ”)

 

         Chúng ta quen thuộc với “Nợ” từ thuở “mẹ cho mang nặng kiếp người” (TCS). Nợ chất cao hơn núi, trải rộng hơn biển cả. Nợ luân lưu trong vũ trụ được ví như đồng tiền luân lưu trong xã hội loài người. Nợ được trao đổi từ người này qua người khác, từ sinh vật này qua sinh vật khác một cách đều đặn và bất tận như một thứ nợ đồng lần.

         Nợ thì nhiều lắm, nó nhiều từ nghĩa đen cho đến nghĩa bóng, từ thực thể “cân đo đong đếm” được cho đến những ý niệm trừu tượng có tính xấu, tốt, lẫn linh thiêng ... Nợ không phân biệt nam phụ lão ấu, cứ có sự hiện hữu là đã có nợ rồi. Nợ không chừa một ai, nợ được coi như một định mệnh của con người, không ai tránh được, kể cả những người tưởng như suốt cả cuộc đời chỉ biết có cho vay.

         Nợ bao trùm trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Nó được thể hiện từ trong nhà ra ngoài làng xã, từ việc cỏn con cho đến việc to lớn, từ việc trang nghiêm đến việc bông lơn, từ việc ban đêm đến việc ban ngày, chỗ nào cũng có mặt của nợ. Nợ nhiều quá đến nỗi đôi khi ta đã phải quên đi hay phải tảng lờ hoặc không còn biết nó là nợ nữa. Tỷ như hơi thở của ta là món nợ truyền kiếp liên quan đến sự sống

còn, ấy thế, mà mấy ai nhớ tới đó là món nợ của ta đối với Trời Đất đâu. Nợ xảy ra trong từng “sát na”. Sống có cái nợ của sống, chết có cái nợ của chết. Nợ mang đủ sắc thái, mọi hình thức, biến hoá vô lường, lúc nào nó cũng ở bên mình ta như “cái của nợ”. Nợ không chỉ đến từ cái ăn cái mặc, cái nhà cái cửa, cái nhăn răng hì một tiếng (nói theo cụ Nguyễn Văn Vĩnh), ... nó cũng còn đến từ công ơn dưỡng dục, tình nghĩa thâm sâu, nhân quần xã hội ... kể sao cho hết.

         Nào như nợ trong thi ca của cụ Nguyễn Công Trứ, chữ “nợ” được thể hiện qua những trích đoạn sau.

        - Nợ quốc gia, nợ quân thần:

Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái

Cái công danh là cái nợ nần

Nặng nề thay đôi chữ quân thân

Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ.

(Trên vì nước dưới vì nhà)

       - Nợ tang bồng:

Mình một bóng đành rằng nông nỗi thế

Hỏi thư kiếm có hay chăng nhẽ

Nợ tang bồng giả đặng lúc này chăng

Ra tay chữa lệch cho bằng.

(Đi quân thứ)

Truyện đố kỵ sá chi con tạo

Nợ tang bồng quyết trả cho xong

Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung

Cho rõ mặt tu mi nam tử.

(Làm cho tỏ mặt nam nhi)

        - Nợ đèn sách:

Chí tang bồng hẹn với giang sơn

Đường trung hiếu chữ quân thân là gánh vác

Đã mang thân ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông

Nợ sách đèn đem nghiên bút trả xong

Cầu xe ngựa lúc đi về mới tỏ.

       - Nợ phong lưu:

Suy mới biết ở đời ai cũng hớ

Vì tài tình nên vướng nợ phong lưu

Kho trời cho tiêu phí thấm vào đâu

Chơi là lãi, dẫu chưa giàu nhưng chẳng kiết.

       - Nợ tài hoa:

Trời đất cho ta một cái tài

Giắt lưng dành để tháng ngày chơi

Dở duyên với rượu khôn từng chén

Trót nợ cùng thơ phải chuốt bài.

(Tự cao)

Chưa chán ru mà quấy mãi đây

Nợ nần dan díu mấy năm nay

Mang danh tài sắc cho nên nợ

Quen thói phong lưu hoá phải vay.

(Than nghèo)

       - Nợ tình:

Đa tình là nợ

Mắc míu vào đố gỡ cho ra.

(Chữ tình)

       - Nợ duyên:

Ừ duyên nợ ắt đà hơn một

Mà nét xuân kia vẹn cả mười.

(Bỡn cô đầu già)

       Nào nợ vật chất trong thi ca cụ Trần tế Xương:

Van nợ lắm khi trào nước mắt,

Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi.

(Than nghèo)

       Nào như nợ trong ca dao:

Bốn bề công nợ eo sèo

Chỉ vì một nỗi tôi nghèo mà thôi.

Eo sèo công nợ tứ bề

Kẻ lôi người kéo, ê chề lắm thay.

       Trong các loại nợ, có một loại nợ rất đa dạng, đầy đủ hỉ nộ ái ố nhất, đó là nợ duyên, nợ tình được ca dao đặc biệt nhắc đến.

Vô duyên vô phúc húc phải ông chồng già

Ra đường bị hỏi là cha hay chồng?

Nói ra đau đớn trong lòng

Ấy cái nợ truyền kiếp, chớ phải chồng em đâu!

 

Chồng con là cái nợ nần

Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm.

 

Mỗi người một nợ cầm tay

Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng.

 

Mực đen vô giấy khó chùi

Chồng chồng, vợ vợ, nợ đời trăm năm.

 

Nợ đòi trả trả vay vay

Nợ tình biết trả đến ngày nào xong?

 

Buồn riêng thôi lại tủi thầm

Một duyên, hai nợ, ba lầm lấy nhau.

 

Lạy trời phù hộ cho em

Cho em chóng lớn em lên cõi già

Khỏi đền duyên nợ rầy rà

Khỏi mang tiếng xấu như là những ai.

       Ấy thế, không phải nợ duyên, nợ tình lúc nào cũng đáng sợ đâu nhé mà nhiều khi người ta lại ùa nhau tự nguyện đi vác những cái nợ ấy vào thân:

Đem thân ở dưới cõi trần

Hỏi rằng duyên có nợ nần chi không

Bao nhiêu giá một ông chồng

Thì em cũng bỏ đủ đồng ra mua.

 

Một duyên, hai nợ,

Anh sợ em sắp có chồng.

Anh chẻ tre bện sáo, ngăn sông

Cầm duyên em lại để kết đạo đồng cùng anh.

 

Gió thổi pho pho, đưa đò lên Huế,

Trăng non đoài vội xế về Vinh

Em đây vốn thiệt một mình,

Có ai vô gầy dựng duyên nợ,

Gá nghĩa chung tình cho vui.

      Không được mắc vào nợ duyên, nợ tình với nhau thì mè nheo, than thở:

Gió đưa nước, nước sao vời vợi

Gió đưa mây, mây hỡi mịt mù

Anh với em duyên nợ sầm sờ

Em còn thủ tiết, mà chờ đợi ai?

 

Đường đi lên quăn quăn quéo quéo

Đường đi xuống quẹo quẹo vườn dâu

Hai đứa mình ân ái đã lâu

Ai vô đây bày mưu sắp kế

Cho duyên nợ hầu rẽ phân.

 

Nghĩ tơ duyên quá dở

Giận căn nợ bời bời

Đau lòng quá lắm em ơi

Xui chi gặp gỡ chẳng trọn đời với nhau.

      Khi được nợ duyên, nợ tình rồi thì lại phụ duyên, phụ tình nhau:

Còn tiền còn duyên còn nợ

Hết tiền hết vợ hết chồng.

 

Ngọn cỏ phất phơ, ngọn cờ phơ phất

Nồi đồng sôi, nồi đất cũng sôi.

Anh với em duyên nợ hết rồi

Để cho người khác đứng ngồi với em.

 

Ôi thôi, tôi muốn bứt rời duyên nợ

Anh đi kiếm vợ em lại kiếm chồng.

      Ngôn ngữ dân gian liên quan đến “Nợ” của ta thì giàu có lắm, như những câu tục ngữ:

      Mang công mắc nợ, nợ ngập đầu, nợ như chúa Chổm, nợ như tổ đĩa, nợ tiền kiếp, nợ van quan khất, rút ruột tằm trả nợ dâu, trả nợ quỷ thần, tất tưởi như nợ đuổi sau lưng, tốt vay dày nợ, nợ có vay có trả, may gặp duyên chẳng may gặp nợ, nhất tội nhì nợ, một là vợ hai là nợ, nhà gần chợ để nợ cho con, nặng nợ giang hồ, kéo cầy trả nợ, một vay hai nợ ... cũng ôi thôi, kể sao cho hết.

      Nhân nhắc tới thành ngữ “nợ như chúa Chổm” tôi cũng xin kể các bạn nghe một câu chuyện mang ý nghĩa của một người mắc nợ nhiều. Theo tục truyền, chúa Chổm là nhân vật có thật. Thuở hàn vi, chúa Chổm phải vay nợ nhiều lắm. Khi được tôn lên làm chúa và được rước về kinh thành Thăng Long thì chúa bị đòi nợ suốt dọc đường. Chủ nợ thật cũng có mà chủ nợ “hôi” cũng có, chúa Chổm không thể nào nhớ hết. Lúc đầu ai đòi thì trả, sau thấy càng trả nợ thì số chủ nợ càng đông

nên ra lệnh: chúa Chổm chỉ trả nợ cho tới khi chúa về đến ngã tư cổng thành Cửa Nam. Do đó, chỗ ngã tư này được gọi là ngã tư Cấm Chỉ (Ở cạnh Hàng Bông gần Cửa Nam).

      Nợ có hai đối tượng, “vay” và “trả”. Có vay thì có trả. Có vay mà không trả thì gọi là “quịt nợ”, cho vay mà không đòi thì gọi là “xóa nợ”, nợ mà cứ lần khân chưa chịu trả thì gọi là “trây nợ” dù đã “khất nợ” nhiều lần.

      Có những món nợ không phân định rõ là ai vay, ai trả, như tình tôi đối với những cô hàng xóm, “ai vay ai?” thì chỉ có “Ai” biết và “ai trả ai?” thì cũng chỉ có “Ai” biết. Trong trường hợp này thì phải hiểu nôm na đó là cái “nợ đời”. Và như thế, sự tương quan giữa người chủ nợ và người vay nợ, nếu ta quán chiếu cho sâu, quả thật không có sự cách biệt là bao. Nợ của người này chính là cái vay của kẻ khác và ngược lại. “Vay trả” đôi khi được hiểu giống như là “Đạo”. Theo Lão Tử, Đạo thì không thể nói được, nói được thì không còn là Đạo, nên thôi, tôi chẳng bàn thêm về “vay trả” ở đây.

      Muốn hiểu hết ý nghĩa của nợ thì thật gian nan. Không hiểu được ý nghĩa của nợ thì ta khó có thể biết cách trả nợ, không trả nợ đúng cách thì cũng kể như ta quịt nợ dù vô tình hay cố ý. Vay nợ, mang nợ, trả nợ đều có những ẩn số phức tạp của nó như vay ra sao, trả như thế nào đòi hỏi một trình độ ứng xử cho thích nghi cho phù hợp với từng hoàn cảnh, ý nghĩa của nó.

      Nợ có nhiều mức độ khác nhau, kẻ nợ nhiều người nợ ít. Để nhìn nợ một cách gần gũi và thực tế hơn thì nợ luôn đi kèm theo một yếu tố được thể hiện ở một mức độ nhất định nào đó là có vay có trả. Đối với những người có quan niệm có ơn phải sợ có nợ phải đền thì thái độ của những loại người này luôn luôn là muốn trả nợ cho xong.

Kiếp này trả nợ cho xong

Làm chi để nợ một chồng kiếp sau!

      Trong số những người muốn trả nợ cho xong này phải kể đến nàng Thúy Kiều đã đem cả vốn liếng nghìn vàng của mình ra trả nợ chuộc tội cho cha. (Không như Thúy Vân chỉ biết vô tình ăn no ngủ kỹ cho mập ú đến khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang chứ không chịu chia sẻ với chị theo đúng tinh thần “fair” của người Mỹ, mỗi cô một nửa, nghĩa là mỗi người còn giữ lại một nửa để dành làm vốn lấy chồng. Cười.)

      Có loại người lại không sợ nợ như:

Dầu cho nợ bắt nợ đòi

Phong lưu ta cũng cứ nòi phong lưu.

      Vì trong đời có người nọ kẻ kia đối với nợ như thế nên các cụ ta có câu:

Ở đời có bốn cái ngu

Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu.

      Nghe tôi nói thế, chẳng biết nghe câu được câu chăng, ất giáp thế nào, ba cô hàng xóm xinh đẹp trước cửa nhà tôi chạy ùa sang, nói vọng vào đòi “ngu”.

- Cho em “gác” với.

- Cho em “cầm” với.

- Cho em “lãnh” với.

      Tôi chỉ còn biết ngao ngán nhận cái ngu còn lại là “làm mai”. Ai muốn thì xin dơ tay. Các cô ấy đang hăng say đòi “ngu” cũng như các cô ấy đang hăng say đòi “được nợ” vậy.

      Các bạn ơi, vừa nghe tới chữ “làm mai” và “được nợ”, ba cô hàng xóm xinh đẹp tung cửa chạy túa vào nhà tôi.

      Nhà Phật có câu thật cao siêu “Găp Phật giết Phật, gặp Ma giết Ma.” Theo chân nhà Phật, tôi sẽ giết và nhất định giết hết ba cô hàng xóm xinh đẹp này đêm nay trong giờ thiền định. Gặp NỢ tôi cũng giết luôn: xoá nợ.

      Xin chấm dứt câu chuyện tào lao về NỢ ở đây.

Trong trần thế duyên duyên, nợ nợ

Duyên cũng đành mà nợ cũng đành

(Nguyễn Công Trứ - Già cưới nàng hầu)

 

NGUYỄN GIỤ HÙNG

 

Mời nghe bản dân ca quan họ

Nợ Duyên

 

Xem thêm...

Cười - Nguyễn Giụ Hùng

Cười 

Nguyễn Giụ Hùng 

 

     Ôi thôi, trên giải đất cong hình chữ S của đất nước ta, từ Bắc chí Nam, chỗ nào cũng vang lên những tiếng cười. Cười từ thành thị tới thôn quê, từ chỗ cao sang quyền quý tới chỗ nghèo hèn và từ trẻ tới già.

     Cười là một phần đời sống tinh thần thật phong phú và tinh tế. Nó chiếm một chỗ đứng có nhiều ưu thế trong văn hóa và văn học nước ta. Cười của ta đa dạng

lắm vì nó có đủ khả năng diễn tả mọi trạng thái hỉ, nộ, ái, ố, cũng như sự biến đổi tâm lý phức tạp trong mọi tình huống của đời sống hàng ngày.

     Cười biến hóa khôn lường như rồng bay, ẩn hiện trong mây. Ta chỉ cần thay đổi một chút âm điệu tức thay đổi một chút cung bậc, cường độ của âm thanh là ý nghĩa của "tiếng cười" thay đổi hẳn. Mà cung bậc âm thanh của cười, cũng chẳng khác cung bậc âm thanh trong âm nhạc, nó biến hóa vô cùng, nên ý nghĩa của cười cũng theo đó mà biến đổi với thiên hình vạn trạng. Đấy là chưa kể đến sự diễn tả tinh tế trên nét mặt hay thân thể khi cười. Cũng có khi cười chẳng cần đến âm thanh, nghĩa là không thành tiếng, mà nó vẫn có khả năng diễn tả đầy đủ ý nghĩa của cười một cách hữu hiệu. Do đó, chẳng ai dám tự nhận mình có thể hiểu hết được cái cười của người Việt Nam, dù được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất ấy.

     Cười không phải chỉ để diễn tả sự hoan lạc không thôi, nó còn mang một triết lý sâu xa của văn hóa, trong đó sự biến động của lịch sử và xã hội đã đóng góp vào cười một phần không nhỏ. Chính vì thế, theo tôi nghĩ, cái cười của một dân tộc chịu nhiều thử thách và thăng trầm như dân tộc ta, ắt hẳn tiếng cười ấy phải có những nét đặc thù và giầu có lắm kể cả về mặt số lượng lẫn ý nghĩa mà nhiều dân tộc khác không thể có được.

     Cười cũng được sử dụng thay tiếng nói để gửi gấm tâm tư hay tình cảm của mình cho người khác hay cho chính bản thân mình. Tiếng cười của ta mang tình thương yêu, hoan lạc nhưng cũng có khi để bầy tỏ sự chịu đựng hay phẫn nộ, hoặc đấu tranh quyết liệt lẫn ngang tàng kể cả sự hèn hạ lẫn đểu cáng, hay chỉ để "cười cười" vô nghĩa.

     Cái cười của dân ta thì phong phú như thế. Trong khi đó, trong buổi thuyết trình của ông Đỗ Thông Minh, nhà báo sống ở Nhật nhiều năm, với đề tài "Văn Hóa Nhật" được tổ chức ở San Jose, ông nói người Nhật lo ngại sau này sẽ dần dần mất đi tiếng cười của họ. Dù câu nói đó có thể chỉ là câu nói đùa hoặc có tính cường điệu của ông, nhưng khi tôi có dịp đi thăm nước Nhật gần đây, tôi thấy câu nói ấy không hẳn là không có căn cứ. Và như thế, tôi có cảm tưởng như văn hóa của ta đứng về mặt "cười" có thể "phồn thịnh" hơn, không những so với người dân Nhật mà kể cả so với nhiều dân tộc khác trên thế giới nữa.

     Các cụ ta có câu "một tiếng cười bằng mười thang thuốc bổ".

     Không phải cười chỉ là những liều thuốc bổ mà nó còn là những “dược liệu” quý báu để chữa bệnh nữa đấy, y khoa đã chứng minh điều ấy nên xin không kể ở đây. Và nhất là đặc biệt chúng được dùng để chữa bệnh tâm thần dành cho những chàng trai suốt ngày ca câu “Đời tôi yêu ai cũng dở dang ... đời tôi yêu ai cũng không thành” (bài hát) hay “Rưng rưng tôi gục xuống bàn rưng rưng” (bài hát) vì nỗi nhớ thương, thương nhớ cô hàng xóm; hay dành cho những cô hàng xóm của tôi luôn than thở, thở than cho duyên kiếp của mình “Buồn rầu, buồn rĩ, buồn nỉ, buồn non, Buồn vì một nỗi sớm con muộn chồng” (ca dao).

     Ta hãy quay trở lại với cười qua danh sách "tiếng cười" của nhà văn Nguyễn Tuân đã sưu tầm. Tôi dựa trên bảng liệt kê của cụ và thêm thắt ít chữ tự sưu tầm được, rồi thử phân loại chúng theo những hình thức khác nhau. Tôi biết sự phân loại này không mấy chính xác vì tiếng cười đôi khi được hoán chuyển qua lại, lẫn lộn với nhau tùy theo từng trường hợp mà người sử dụng muốn dùng nó vào mục đích nào.

 

     Tiếng cười được diễn tả dựa theo âm thanh: Cười hề hề, cười hà hà, cười ha hả, cười hì hì, cười hô hố, cười hăng hắc, cười hềnh hệch, cười khanh khách, cười khúc khích, cười sằng sặc, cười the thé, cười giòn giã

     Tiếng cười được diễn tả với sự biến đổi trên khuôn mặt: Cười nheo mắt, cười chảy nước mắt, cười mép, cười mũi, cười ruồi, cười trâu, cười híp mắt, cười tít mắt, cười nheo mắt, cười phổng mũi, cười hở lợi, cười chúm chím, cười ra nước mắt, cười nửa miệng.

     Tiếng cười được diễn tả với thân thể: Cười nôn ruột, cười lăn cười bò, cười ngả ngớn, cười vãi đái, cười bò lăn bò càng, cười đau cả bụng,

     Tiếng cười được diễn tả khi vui: Cười vang, cười ngất, cười phá, cười ngặt nghẽo, cười giòn giã, cười hả hê, cười ha hả, cười khúc khích, cười phào.

     Tiếng cười được diễn tả khi không được vui hay khi buồn: Cười gượng, cười chua chát, cười nhạt, cười khẩy.

     Tiếng cười diễn tả khi không vui mà cũng không buồn: Cười khì, cười xòa, cười xí xóa, cười cười.

     Tiếng cuời diễn tả khi tức giận hay khi không vừa lòng: Cười gằn, cười mỉa, cười mỉa mai, cười khẩy, cười khinh khỉnh, cười cộc lốc.

     Tiếng cười có tính cách giao tế: Cười đón cười đưa, cười theo, cười cầu tài, cười lấy lòng, cười xã giao, cười thơn thớt, cười nịnh, cười cầu hòa, cười giã lả.

     Tiếng cười dùng cho vấn đề trai gái: Cười tình, cười nụ, cười hoa, cười ba lơn, cười động cỡn, cười bù khú, cười đú đởn, cười nham nhở, cười dê, cười duyên.

     Tiếng cười diễn tả về uy quyền: Cười trịch thượng, cười Thái sư.

     Những tiếng cười nêu trên chỉ có tính cách liệt kê chứ không mang tính cách giới hạn vì chắc chắn ngoài những tiếng kể trên, còn nhiều tiếng cười khác nữa vì có những tiếng chỉ được dùng cho từng địa phương mà thôi, không phổ biến rộng rãi.

     Tiếng cười cũng có đời sống của nó, có nhiều tiếng mới đựơc sinh ra và cũng có nhiều tiếng nay ít người dùng hay không còn được dùng nữa, chúng đã trở thành "tử ngữ". Có những tiếng cười đôi khi chỉ được dùng cho một người, có khi chỉ dùng cho nhiều người, hay chỉ cho con trai hoặc chỉ cho con gái … mà không thể dùng lẫn cho nhau được. Có những cái cười như cười tủm tỉm, cười chúm chím, cười mỉm ... cười ruồi, nói chung là "cười cười" thì thật khó mà suy đoán được ý nghĩa thực của nó, nghĩa là không hiểu nổi cái thông điệp mà người cười muốn gửi đi. Lúc đó ta phải nhận diện thêm những yếu tố khác như sự diễn tả trên nét mặt, âm điệu hay tình huống xẩy ra cái cười ấy. Trong trường hợp khó khăn như thế ta chỉ nên cười góp và có khi sự cười góp một cách ngớ ngẩn lại mang họa vào thân. Khó thật!

     Ngoài ra ta còn có một loại cười đứng riêng biệt, đó là cười thầm. Cười thầm thì không thể phát ra tiếng được dù là rất nhỏ mà nó chỉ là trạng thái "cười ngầm trong bụng". Tuy cười một mình, không thành tiếng, nhưng nó lại không thuộc loại cười mỉm, cười ruồi, hay "cười cười" đâu nhé, vì cười thầm không mang tính chất diễn tả mà thông thường nó chỉ mang tính chất ẩn ý như để chê bai hay không đồng ý về một điều gì đó nằm trong ý nghĩ, cũng có khi là một ý nghĩ ngộ nghĩnh, hóm hỉnh kín đáo riêng tư của mình.

     Để hiểu được tiếng cười của dân ta thì thật vô cùng khó khăn và gian nan. Cụ Nguyễn Văn Vĩnh có ý chê trách dân ta cái gì cũng cười, vui cũng cười mà buồn cũng cười nên đôi khi làm mất vẻ trang nghiêm. (Dân An Nam ta gì cũng cười, nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang ...) Chê trách như thế cũng có phần đúng, nhưng cũng có thể cụ hơi khắt khe với cái cười của dân ta chăng? Và cũng có thể cụ chưa để ý xét hết cái cá tính đặc thù của người mình qua những câu của các cụ ta xưa kia để lại, như "khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười", đấy là chưa kể đến "vô duyên chưa nói đã cười" hay cười chỉ là động tác để "cười hở mười cái răng" mà thôi.

     Cười, nói chung không phải chỉ được diễn tả bằng những "tiếng cười" mà còn được thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau trong đời sống như sinh hoạt xã hội và cả trong văn học nghệ thuật nữa. Riêng trong văn học, qua văn chương từ bình dân cho tới bác học, cười đã đóng góp vào đó một cách sâu xa và đáng kể. Cười được thể hiện qua những câu ca dao tục ngữ dân gian dí dỏm, những truyện tiếu lâm truyền khẩu hay thành văn, hoặc những bài văn thơ trào phúng, tự trào, cũng như châm biếm, mà mỗi khi đọc lên ta không thể không cười, dù nhiều hay ít.

     Qua một vài nhận xét thô thiển trên, tôi thấy cái cười của dân ta thật phong phú làm sao. Cười còn thì dân tộc Việt Nam còn và Việt Nam còn thì cái cười ắt hẳn phải càng ngày càng phong phú hơn. Chúng ta đã may mắn được sinh ra trong một đất nước có nhiều tiếng cười như thế, đương nhiên nó phản ảnh rõ tinh thần lạc quan, đa dạng trong cuộc sống của dân ta. Vui cũng cười, buồn cũng cười, dù hoàn cảnh khó đến đâu ta cũng cố cất tiếng cười hay để trên môi một nụ cười, có thể dù chỉ là cười gượng. Cười thường là nguồn hoan lạc đem đến cảm giác dễ chịu cho mình và cho mọi người chung quanh. Từ đó ta suy ra được cái cười của dân ta cũng còn phản ảnh được nếp sống văn hóa lấy nhân bản làm gốc, vì mình và cũng vì người.

 

   NGUYỄN GIỤ HÙNG

 

Xem thêm...

CHUYỆN LÁI MÁY BAY - Phương Toàn

CHUYỆN LÁI MÁY BAY
Phương Toàn
 
▂ ▃ ▅ ▆ █☆★█ ▆ ▅ ▃ ▂ 
 
Hai vợ chồng tôi lấy nhau được hơn một năm thì vượt biên, vị chi đến nay định cư ở Mỹ được hai chục năm.
Ngày mới sang đến trại tị nạn, hăm hở lắm với những tin đồn được đãi ngộ tại Mỹ. Tôi là phi công của Không quân, vợ tôi là phụ tá nghiệm chế ở Dược khoa, chắc Mỹ chẳng bỏ rơi mình.
Đúng, Mỹ nó chẳng bỏ rơi hai vợ chồng tôi khi đặt chân đến phần đất mới này. Nó cho vợ tôi cái nghề rửa chén, và cho tôi một cái xẻng để làm helper đi đào đất chôn ống cống. Mỹ còn ưu ái hơn, cho chúng tôi mỗi đứa một số quần áo ''tốt'', tha hồ lựa ở kho Salvation Army. Hai vợ chồng từ đó biết thân phận mình, vừa làm, vừa học và vừa góp tiền cắc để gửi về giúp gia đình.
Một hôm, hình như cám cảnh cái nghề mới của tôi, vợ tôi hỏi:
- Kể cho em nghe, tại sao anh lại trở thành phi công"
- Tại anh có chí tang bồng hồ thỉ, muốn làm Đường Minh Hoàng đêm đêm du nguyệt điện.
Đây là lần đầu tiên nói dối vợ, không hiểu tại sao vợ tôi lại biết, nó bĩu môi đáp:
- Xạo ke.
***
Thú thực đời phi công của tôi bắt đầu chẳng phải vì chí tang bồng, mà nó bắt đầu bằng một sự ngẫu nhiên.
Biết khả năng mình chẳng thế nào lái nổi chiếc máy bay. Vì di truyền sao đó, có thể tại ông già bị má tôi dợt cho quay mòng mòng hoài, nên cứ ngồi lên cái gì nhúc nhích là tôi nhức đầu, kể cả ngồi võng.
Tôi ở Rạch giá, thời học trò thỉnh thoảng được về thăm quê, cứ mỗi lần xe đò chạy tới
Bình Chánh là tôi bắt đầu ói mửa như con gái có bầu. Nghĩ đến Không Quân, tôi cũng khoái lắm, khoái không phải vì bay bổng mà là vì khỏi lội sình. Nhưng cứ nghĩ sang Không Quân mà không bay được, thế nào nó cũng đuổi về Bộ Binh thì quê lắm.
Tôi gia nhập khóa 1/69 Bộ Binh, đang thụ huấn tại Quang Trung thì Không Quân sang tuyển người. Tôi chẳng tha thiết gì nhưng thằng Trương Phương Tuyên dụ:
- Ghi danh vào Không Quân, theo xe về Trung Tâm Y Khoa khám sức khoẻ, mỗi ngày mình chỉ cởi quần áo cho ông bác sĩ xem, nhảy tưng tưng mấy cái cho ổng đo, rồi vù ra phố chơi chiều về lại quân trường, đã lắm.
Tôi và nó ghi danh vào Không Quân và đúng như nó nói, hai thằng nhởn nhơ một tuần lễ đi khám sức khoẻ. Khám chẳng được là bao, nhưng chiều nào về ngang qua Ngã ba Chú Ía, hai thằng cũng không quên vẫy tay chào mấy nàng Kiều cho thắm tình Quân Dân cá nước.
Mãn khóa Quang Trung, tôi được chuyển về Thủ Đức học tiếp để chờ ngày ra trường. Một hôm chuẩn bị ra tuyến ứng chiến, tôi được lệnh trả quân trang để về Không Quân. Thằng Tuyên nói:
- Chỉ còn 6 tuần nữa ra trường, mang lon chuẩn uý, bây giờ về Không Quân mang Alpha dài dài.
Hai thằng bèn hạ quyết tâm ở lại.
Tôi nói với ông Thượng Sĩ già:
- Thượng Sĩ, tôi không về Không Quân đâu.
Ông trợn mắt lên nạt:
- Giỡn chơi cha non, quân đội chứ ở nhà hay sao" Bộ muốn làm gì thì làm hả " Đến 8 giờ tối mà không ký giấy trả đồ, An Ninh nó ghép vô tội nội tuyến là bỏ mẹ.
Nghe nói tới An Ninh là tóc tôi dựng đứng đàng sau, tôi bèn trả đồ và lấy sự vụ lệnh để về Không Quân.
Tôi được xếp học khóa 69A, toàn là những tay thông minh và gốc bự, như thằng Phan Huy Bách, ba nó là Thủ tướng Phan Huy Quát, thằng Hà Thúc Việt chi chòm ông Hà Thúc Ký, Hồ Văn Anh Tuấn con cháu Hồ Biểu
Chánh (Nó thề độc là mình không có dính dáng gì đến Hồ Chí Minh). Chỉ có tôi là bần cố nông mê muội, ngay cả ông già cũng chết ngắc ngày còn nhỏ.
Ra đến Nha Trang tôi được niên trưởng chào đón và dạy dỗ rất chí tình. Khóa đàn anh, tôi gọi là niên trưởng, khóa lớn hơn tôi gọi là đại cồ, lớn nữa thì gọi là siêu đại cồ rồi dần dà lên đến Thiếu uý sinh viên sĩ quan, Trung uý, Đại uý... Có một ông niên trưởng tự xưng là Đại tá sinh viên sĩ quan siêu đại cồ niên trưởng. Hôm mới ra Nha Trang ông bắt tôi chào con Đại bàng ở cổng, ông cầm khẩu carbine lên đạn lách cách tuyên bố:
- Bắn bỏ ba mươi phần trăm không cần làm báo cáo.
Tôi hoảng hồn. Té ra tôi chọn lầm binh chủng rồi, ở đây nó coi mạng sống con người rẻ như bèo.
Ông niên trưởng hay ví von thời gian đi lính của tôi ít hơn ngày ông khai bịnh lậu ở quân trường. Ông dạy tôi về tinh thần ''thượng mã'' của phi công, ông nói ra trận, hạ máy bay địch, nếu phi công nó nhảy dù ra thì bay ngang, lắc cánh mà chào chứ không bắn pilot. Ông dạy về chữ: ''Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè''. Ông nói:
- Tất cả mọi người đeo con rồng lên ngực, sống chết có nhau, là ăn cùng mâm, ngủ cùng giường.
Thằng Hà Thúc Việt cười phá lên , ông niên trưởng đến gần gằn giọng:
- Ông này cười cái gì"
- Dạ cười ngủ chung với Tiếp Viên Hàng Không.
Ông ngạc nhiên nhìn nó, đi tới đi lui, ngẫm nghĩ, chợt ông đừng lại gằn giọng:
- Mặt ông ngu hơn thằng chăn trâu, Tiếp Viên nào cho ngủ chung mà mơ.
Nó dí dỏm đáp:
- Dạ tại niên trưởng nói ai đeo con rồng lên ngực thì mình được ngủ chung một giường.
Ông bực lắm, với giọng kẻ cả, ông giải thích:
- Có nhiều loại rồng, rồng Không Quân là rồng khạc lửa, rồng Nữ Tiếp Viên là rồng...lộn.
Đến lượt thằng Tuyên phì cười. Ông quát:
- Ông kia cười cái gì"
Nó bí thế đáp:
- Dạ cười con rồng.
Ông trợn mắt hỏi :
- Con rồng có gì mà cườI"
Tuyên đáp bằng giọng Huế:
- Dạ, tại nó... lộn.
Cả hàng quân cười ồ lên, ông thấy mấy thằng đàn em này lếu láo qúa, ông phải ra oai kẻo chúng lờn, ông nạt tiếp:
- Rồng lộn có gì mà cười "
- Dạ con rồng lộn không có gì để cười, nhưng Nữ Tiếp Viên rồng lộn thì buồn cười.
Ông tức mình bắt hai thằng móc giò lên cửa sổ, miệng hô to một trăm lần câu: ''Nữ Tiếp Viên rồng lộn không có gì phải cười''.
Tưởng như chưa đã nư, ông đến gần một thằng thấp nhất khóa, gằn giọng hỏi:
- Tại sao ông đã xấu, mà lại còn dám lùn"
Thằng Tú ngơ ngác vài giây rồi đáp sảng:
- Dạ tại... ông già lùn.
Ông niên trưởng lại đi thêm một bài giáo khoa thư:
- Xe trước đổ thì xe sau tránh, cây đắng thì phải cố sinh trái ngọt, ông già lùn thì con phải cao, ông biết vậy mà còn ngoan cố cứ lùn. Móc giò lên đuôi bom cho tôi.
Giải quyết xong thằng Tú, ông bước sang đứa kế, ông hỏi:
- Ông tên gì?
- Khóa sinh Lê Văn Nãi, khóa 69A trình diện niên trưởng.
Ông nhìn thằng Nãi đẹp trai, cố kiếm một tội để ghép. Ông chửi:
- Gái bán Bar cũng biết ông thuộc khóa 69A, tôi hỏi tên, khai chi cả khóa. Ông họ Lê, biết Lê Long Đĩnh không"
- Dạ không.
- Mặt ông và mặt Lê Long Đĩnh giống nhau như đúc mà còn chối, Lê Long Đĩnh là vua dâm dật Lê Ngọa Triều, ông tổ mười đời của ông mà ông còn chối thì mai sau ông sẽ chối bỏ bạn bè. Từ nay mỗi lần trình diện, ông phải nói: Khóa sinh Lê Văn Nãi, cháu đích tôn Lê Ngọa Triều, ông quên thì thác cô hồn với tôi.
Ông niên trưởng chừng như thấy quá mất giờ để phạt từng thằng, ông dõng dạc tuyên bố:
- Chưa có một khóa nào ngu như khóa này, mặt ông nào cũng đần đần độn độn, tôi đếm từ một tới năm, không muốn thấy một cái chân ông nào còn đứng trên quả địa cầu.
Ông bắt đầu đếm, hàng quân như ong vỡ tổ, mỗi đứa cố gắng kiếm một vị trí để móc cẳng mình cao hơn mặt đất, không cứ là móc lên cái gì, miễn là đôi giày bốt không còn chạm mặt đất cho ông niên trưởng hài lòng.
Tôi cắn chặt hai hàm răng, sợ bật cười sẽ bị ông ra lệnh móc cẳng lên ngọn cây dương thì khốn.
***
Thấm thoắt một năm trôi qua, tôi được đi Mỹ để học lái máy bay.
Đây là lần thứ ba tôi được leo lên chìếc máy bay. Hai lần trước đều ngồi bệt dưới sàn chiếc C119 thủng đít đi từ Sài Gòn ra Nha Trang và về lại, lần nào mưa cũng hắt ướt như chuột lột, lần này chiếc máy bay của hãng Braniff International không dột mà lại có ghế đàng hoàng, cô chiêu đãi viên đẹp hết cỡ, cô ta hỏi chuyện tôi nhiều, nhưng tôi không hiểu mấy. Một lần tới bữa ăn cô hỏi:
- Do you want coffee, tea or milk"
Nhìn chiếc xe cô đẩy, tôi hiểu ngay rằng cô hỏi tôi muốn ăn uống gì không.
Tôi trả lời là Yes. Cô lại hỏi:
- You want some coffee"
Tôi lập lại là Yes, với chữ S kéo dài thêm, ý nói muốn lắm.
Cô đưa cho tôi một ly cà phê đắng nghét. Mỉm miệng cười duyên, chắc cô đoán chuyến phi cơ này đụng toàn thứ thiệt, không cần phải hỏi thêm thằng Việt, cô đưa cho nó một ly sữa tươi. Cô hỏi hai đứa :
- Do you want some sugar"
Tôi tưởng cô hỏi muốn thêm cà phê không, nên trả lời rất lịch sự:
- No, thank you Sir .
Uống xong ly cà phê đắng, tôi hỏi thằng Việt, sao mầy được uống sữa, nó trả lời cũng không hiểu tại sao. Tôi nói ở quê tao sữa bột pha ra toàn cho heo ăn, người uống đau bụng chết. Nó nói, họ đưa gì thì uống nấy chứ bộ chọn được sao" Tôi than phiền phải uống cà phê đắng, nó nói chắc Mỹ nó không uống đường, hôm nay mình sang Mỹ tập uống cà phê đắng cho quen .
Sang đến Lackland Air Force Base tôi được học Anh ngữ và mãn khóa, lúc này trình độ Anh ngữ khấm khá lắm rồi, ông thầy Anh văn dưới quê bị tôi bỏ xa. Dù sao tôi cũng phải mang ơn ông vì ông đã dạy cho tôi biết những câu vỡ lòng, như chữ ''bacon'' nghĩa là thịt mỡ, "hot dog'' là thịt chó nóng hổi và ''chase the girl'' nghĩa là rượt con gái. Tôi cũng đã biết chắc chắn rằng đồng mười xu tuy nó nhỏ hơn đồng năm xu nhưng giá trị gấp đôi.
Cuối cùng ngày chờ đợi đã đến, đó là ngày chuyển trại để đi học lái máy bay ở Fort Wolters, Texas, tôi lo lắm, vì cái bệnh say gió của mình thế nào cũng bị rớt đài. Hôm đầu tiên ra phi đạo, thằng thầy cho tôi lên chiếc TH55 nhỏ như cái trứng gà, lại không có cửa, nó bay lên tắp tít mây xanh nghiêng qua nghiêng lại phát khiếp, mỗi lần như vậy tôi phải uốn người vào trong cho máy bay thăng bằng trở lại, chỉ sợ mình rớt ra ngoài. Có nhiều lần tôi phải gồng tay lại nắm lấy thành ghế cho chắc. Sau gần một giờ biểu diễn, thằng thầy đáp xuống phi đạo, nhìn tôi cười cười, tôi ra hiệu cho nó, ý nói phải ngừng ngay tại chỗ cho tôi nhảy xuống, bằng không tôi sẽ ói thẳng vào mặt nó. Thằng thầy đứng lại cho tôi ói. Tôi ói một cách thoải mái cho dù biết rằng cú ói này sẽ chấm dứt cuộc đời bay bổng của mình.
Lạ quá, sau khi đưa máy bay vào chỗ đậu, nó khen tôi chịu đựng giỏi và tiên đoán là tôi sẽ bay được. Tôi vận dụng khả năng Anh ngữ để hỏi là tại sao ói mà bay được" Nó cười cười trả lời:
Chẳng có thằng nào mà không ói ngày nó bay thử đầu tiên cả.
Tôi mừng lắm, thì ra tôi ói là do thằng này nó chơi, có lẽ cái sự quay mòng mòng của má tôi nó không áp phê ở xứ Mỹ này. Chắc là được Chúa Phật độ trì, sau gần một năm tôi thi mãn khóa và đậu. Bạn bè có đứa xì xào rằng tôi đậu vớt.
Về nước và chuyển về Không đoàn 43 Chiến thuật ở Biên Hoà. Một hôm đi hành quân ở biên giới Kampuchia, thả Biệt kích Lôi Hổ, đang mơ mộng nhìn con suối thì đạn AK nổ như bắp rang, phi cơ tôi như cục sắt rớt cái bịch xuống sườn đồi, tôi chẳng còn nhớ tí ti gì về phương pháp đáp khẩn cấp mà trường đã dạy. Nhìn ra ngoài, thấy chiếc phi cơ móp bẹp như con cóc tía, cánh quạt chém cây rừng đổ te tua và chiếc cánh quạt cũng te tua chẳng kém ngọn cây rừng. Hai chiếc Cobra của Mỹ hộ tống bắn rocket rầm rầm làm tôi hoảng quá, rút vội cái chốt gắn khẩu đại liên cùng thằng xạ thủ phóng ra rừng chạy một mạch. Chạy khoảng 200 mét, tôi hoàn hồn chút đỉnh và mệt quá, tôi chọn chiếc gò mối cao, căng chiếc càng đại liên ra, chuẩn bị một xạ trường để chiến đấu. Thằng VC nào vô phúc nhào lên là nhất định sẽ sinh Bắc tử Nam. Tôi thấy thiếu một cái gì mà nghĩ hoài không ra, bỗng thằng xạ thủ hỏi:
- Thiếu uý, mình không có đạn à?
Lúc bấy giờ tôi mới nhớ, thì ra vác cây đại liên mà chạy, tôi quên phéng ngay thùng đạn còn nằm trên phi cơ, tôi vội tháo lấy chiếc nòng, rồi vứt cây súng M60 vào bụi rậm và... chạy tiếp.
Tôi còn một cây P38 và hai viên đạn, lúc này mới thấy nguy hiểm quá chừng, hai viên đạn thì làm được trò trống gì. Ngày lãnh súng, tôi được phát 6 viên đạn, ráp đầy các lỗ của trái khế trong ổ súng, tôi thấy hơi ít, hỏi ông Phi đoàn phó, ông nói:
- Pilot đi đâu cũng chỉ đeo có một cây súng và hai viên đạn, mày có 6 viên còn ít ỏi gì. Nghe nói thế sau này mỗi lần đi bay gần bãi trống tôi hay bắn bia và cuối cùng còn lại đúng hai viên. Trên tay còn cái nòng súng M60, tôi nghĩ, Việt cộng đội nón cối, mình lựa thế, giến cho một nòng đại liên bằng sắt lên đầu, có mà trời cứu. Nghĩ thế nên tôi vững bụng đôi chút. Cũng may lần này có hai chiếc gunship hộ tống và mấy chiếc H34 thả Lôi Hổ ở Lào đang bay về gần, xuống bốc bọn tôi về an toàn.
Thấy hai thằng Võ Trang bay vòng vòng có vẻ đỡ hơn đi thả Lôi Hổ, tôi có ý định xin về bay Gunship, chưa kịp xin thì hên quá, sếp của tôi cho tăng cường vào Phi đội Gunship. Bay Gunship thì mệt một chút nhưng không phải lơ lửng trên ngọn cây đưa bụng cho chúng bắn.
Một hôm đi hành quân ở gần Bến Thế, Bình Dương, tôi phải yểm trợ cho Bộ Binh hành quân. Quân bạn cho biết họ ở sát bờ nam con rạch, địch ở phía bắc. Tôi nghĩ thầm, mấy cha Bộ Binh hay lừa mình, thôi thì bay cách hướng Nam con rạch hai cây số, bắn về phía Bắc, rồi cách con rạch một cây số ta vòng lại, nếu máy trục trặc thì cũng rớt lên đầu quân bạn. Tôi vào trục, nhắm mục tiêu bóp cò, rocket không nổ, tôi lượn ra mới hay mình bật lầm nút. Tôi nhào vào lại, bắn được hai quả rocket, một quả tịt, một quả nổ ở hướng nam con rạch, thì thấy đạn phòng không bay tứ phía, phi cơ bốc cháy ở bình xăng, tôi phải cho máy bay, bay ở vị thế nghiêng, cho khối lửa dạt ra ngoài, kẻo nó tràn vô phòng lái.
Theo bài bản học khi ở trường lái, nếu máy bay cháy, việc đầu tiên là phải bấm nút release cho hai bó rocket rớt khỏi thân tàu, kẻo nó bắt lửa nổ là bỏ mẹ cả đám. Tôi tính làm như vậy nhưng chợt nhớ lời ông già dặn hồi nhỏ: Đánh nhau, nếu bị thằng hàng xóm đấm vào mặt, không đấm lại được, thì lấy đất cày mà phang vào mái nhà nó, gặp thằng keo kiệt, tiền sửa mái nhà làm nó đau hơn bị đấm thiệt. Nên thay vì release hai bó rocket, tôi bèn bật nút cho nó nổ ''la-phan''. Ôi thôi mười sáu quả còn lại thi nhau chui khỏi giàn phóng, quả thì nổ ở hướng bắc con rạch, quả thì bay tuốt sang bên kia sông Sài gòn nổ ở tận mật khu Bời Lời. Tôi quẹo 180 độ và cho phi cơ nhào đại xuống con rạch gần đó.
Chiếc máy bay cày tung bùn như con cá thòi lòi phóng dưới bãi sình và tôi phóng vội ra ngoài. Cụ mẹ cuộc đời, tôi bị lừa, Bộ Binh nó cách con rạch tới hai cây số. Sau này hỏi lại, tôi được trả lời là nó sợ tài bắn của tôi, nếu không nói vậy lỡ tôi bắn trúng đầu nó thì sao. Mà nó hay thiệt, nếu nó ở phía nam con rạch như lời nó nói, thì quả rocket vừa rồi đã làm nó chạy té đái trong quần.
Cũng may số tôi còn lớn, thằng Gunship 2 kề kịp và bốc tôi lên an toàn, bỏ lại chiếc máy bay cháy mịt mù ven bờ suối. Về đến Phú Lợi, tôi mới hoàn hồn hẳn và nhận ra Phi hành đoàn thiếu một người. Tôi hỏi Cơ Phi là thiếu ai, nó nói thằng Xạ Thủ nóng quá phóng ra lúc còn ở cao độ hơn trăm bộ. Và cũng may mắn là nó rớt xuống cái bàu và thằng C & C hành quân gần đó bốc lên rồi.
Hôm sau đơn vị cho biết, tôi sẽ được Anh Dũng Bội Tinh, công bắn mười sáu quả rocket, trúng hầm đạn VC gây nhiều tiếng nổ phụ, tôi còn được Chiến Thương Bội Tinh vì vết phỏng trên tay do quên mang chiếc găng tay chắn lửa Nomex, cộng thêm chiếc Phi Dũng Bội Tinh vì tôi bay hay quá, máy bay đã cháy mà còn lết cả mấy trăm thước mới chịu rớt.
***
Trời phú cho tôi cái tính hay sợ chết, sau lần chết hụt này, tôi nhắm xem có loại phi vụ nào ngon hơn bay Gunship hay không.
May thay, phi đoàn trưởng nói tôi có tướng ''sát phi''. Cả phi đoàn có không đầy hai chục chiếc phi cơ bay được, tôi đã nướng hết hai, ông không muốn mất thêm nữa, nên cho tôi bay những phi vụ liên lạc, và bay VIP thật là nhàn hạ.
Một hôm nhận lệnh bay cho Phủ Phó Tổng Thống, đáp ở bãi đáp VIP Air Vietnam. Tôi tưởng là mình sẽ chở tướng Kỳ hoặc bay theo chiếc Triệu Minh Vô Kỵ của ông, tôi đáp chỗ ấn định thì chẳng thấy tướng tá nào, chỉ thấy một ông già râu tóc bạc phơ cùng hai cô bé thơm như mít tố nữ, tháp tùng bằng một anh Đại uý với chiếc máy truyền tin PRC 25.
Ông Đại uý hách xì xằng này ra lệnh cho tôi đi Trà Vinh. Tôi hỏi Trà Vinh là ở đâu? Ông trợn mắt nhìn tôi như nhìn một dị nhân, có lẽ ông nghĩ sao có thằng phi công ngu như vậy. Nhướng đôi lông mày, ông nói Trà Vinh nó ở Vĩnh Bình. Tôi tưởng rằng mình sẽ bay vòng vòng ở Quân khu 3 nên hỏi: Vĩnh Bình có gần Phước Bình không? Ông hỏi: Phước Bình nào? Tôi nói Phước Bình ở gần núi Bà Rá trên Phước Long. Ông chán đời nói: Mình đi Vùng 4. Tôi nói là không có bản đồ đi Vĩnh Bình ở Vùng 4 vì tôi hành quân ở vùng 3 Chiến thuật, ông nói cứ bay đi rồi ông chỉ.
Tôi bay xuống Vĩnh Bình, ông liên lạc sao đó, Tỉnh trưởng ra đón vào tòa hành chánh, để lại tôi và hai em bé xinh xinh chờ ở phi trường.
Tôi hỏi:
- Hai cô đi đâu mà xuống đây?
- Dạ em đi ăn giỗ ngoại.
Bây giờ thì tôi biết là phi vụ của tôi có nhiệm vụ đưa hai cô gái về quê ăn giỗ ông ngoại.
Chiếc xe Jeep của tỉnh chạy ra chở thêm mấy người nữa, có ông già búi tó, có bà mặc bà ba. Ông Đại Uý lại ra lệnh cho tôi:
- Mình đi Chợ Lách. Tôi lại hỏi:
Chợ Lách nó ở đâu?
- Ông chán nản nhìn tôi và lặp lại câu cũ:
- Bay đi rồi tôi chỉ.
Ông khoác tay chỉ tôi bay về hướng Vĩnh Long, qua con sông Mỹ Thuận, rồi vòng vòng một hồi, ông chỉ một con sông, bảo tôi theo đó mà bay. Đến một con rạch nhỏ, ông dòm xuống một xóm làng và bảo tôi đáp xuống một con đê, gần đồn Nghĩa Quân. Ông ra lệnh:
- Tắt máy rồi mình vào đây ăn giỗ, chiều về.
Bốn thằng Phi Hành Đoàn tụi tôi nhìn nhau, tôi không dám để chiếc máy bay nằm đây cho Nghĩa Quân coi để vào ăn giỗ, sợ vợ nó xúi hút xăng về nấu rờ sô hoặc bỏ muối vào bình xăng chút ra đề khó nổ. Tôi năn nỉ ông cho bọn tôi về Mỹ Tho hay đâu đó để kiếm cơm bình dân mà ăn. Ông nói đi đâu thì đi 4 giờ trở lại đón Phái đoàn. Tôi bực mình cho phi cơ bay về Vĩnh Long đáp xuống bãi nổi ở bờ sông trước dinh Tỉnh trưởng. Một anh Địa Phương Quân ra đuổi, nói bãi đó dành riêng cho tỉnh trưởng, thằng Cơ Phi cương ẩu:
- Tỉnh Trưởng lớn bằng Phó Tổng Thống không? Phi cơ này của phủ Phó Tổng Thống.
Anh Địa Phương Quân chạy vào trong, lôi ra một anh Đại Uý, anh này khúm núm như tôi là Phó Tổng Thống vậy, anh hỏi tôi cần gì, tôi mượn một xe Jeep đi ăn cơm. Cơm xong tôi phanh ngực áo bay, tụt phẹc-ma-tuya tới gần háng cho mát, giăng võng nằm ngủ. Ông Đại Uý thỉnh thoảng ra dòm chừng, có lẽ ông thắc mắc, sao Phi hành đoàn của Phó Tổng Thống mà quá bình dân và xấu trai như vậy. Gần bốn giờ chiều, trở lại Chợ Lách đón phái đoàn. Hôm sau kể chuyện lại cho thằng Tuất nghe, nó trợn mắt:
- Mày điếc không sợ súng, vùng đó tụi tao ít thằng nào dám la cà vào, bay thấp thì AK nó bắn, bay cao thì SA 7 nó chào.
Tôi ngẫm nghĩ, phi vụ nào cũng nguy hiểm cả, như thế làm sao sống nổi cho đến ngày biết yêu. Tôi hỏi ông Phi đoàn Trưởng có phi vụ nào đỡ nguy hiểm hơn không, ông nói:
- Có, ở ngoài Phù Cát bay đỡ nguy hiểm hơn, vì toàn là cát và nước biển, có rớt cũng rớt êm êm.
Thực ra ông chỉ nói chơi thôi, vì tôi là thằng cuối cùng luân phiên thuyên chuyển sau bốn năm ở phi đoàn. Tôi ra Phù Cát, an toàn thật, vì thời điểm này Mỹ cắt viện trợ, một tháng chỉ bay vài phi vụ, còn lại là chuyên học nhảy đầm và luyện Tae Kwon Do.
Đến hôm di tản chiến thuật về Nha Trang, tôi đang uống cà phê ở Câu lạc bộ thì nghe súng nổ tứ tung, chạy ra ngoài thấy lính Không Quân chạy đầy phi đạo, tôi vội chạy ra chiếc phi cơ của mình, còn cách khoảng 20 mét thì thấy nó tự động vọt lên trời, bên trong đen ngòm là người. Quýnh quá, tôi vòng ngược trở lại, thấy một chiếc phi cơ cũng đầy là lính, trên ghế lái có một anh mặc đồ bay ngồi đó, chiếc ghế trưởng phi cơ còn trống, tôi phóng lên ngồi, cả phi cơ đều nhìn tôi. Tôi hỏi ông phi công:
- Vọt đi chứ cha, nó tràn ngập bây giờ.
Anh phi công nói:
- Em bay không được.
Tôi vội chụp cần lái, mở máy, cho phi cơ vội vọt lên trời và theo đoàn phi cơ hướng về Nam, đáp xuống Tân Sơn Nhất. Tôi hỏi ông phi công ngồi bên trái:
- Ông là phi công gì mà không biết bay"
- Dạ em chưa ra trường, với lại hôm nay máy bay nhiều quá, mà em thì không có Checklist để mở máy.
Đó là phi vụ cuối cùng của tôi, nó chấm dứt cuộc đời bay một cách vô duyên, có lẽ cũng giống như nó đã bắt đầu cuộc đời bay bổng vô lý của tôi. Nó không bắt đầu bằng mộng mây trời và cũng không kết thúc bằng những chiến công oanh liệt.
Phi công của Không Quân toàn là những anh hùng, những người hào hoa và bay bướm, không hiểu tại sao lại đọa ra một thằng như tôi, vừa cù lần vừa dấm dớ. Hơn 5 năm khoác chiếc áo bay, tôi chẳng làm được cái gì nên tích sự, ngoại trừ lừa được một người con gái khờ, đó là má bầy trẻ của tôi bây giờ. Cho tới nay bà vẫn tin là tôi ngon lắm, hơn hẳn những thằng phi công khác, cho dù cứ mỗi lần tôi gáy, thì theo thói quen, bà vẫn đồng ý bằng câu trả lời cũ ''xạo ke''.
Hiện nay đã''An cư lạc nghiệp'' tại Mỹ, tuy cũng rất cùi đày chẳng kém ai, nhưng vào cuối tuần, tôi cũng hay la cà ở quán cà phê nghe anh em bàn chuyện thế sự.
Quán cà phê chỗ tôi ở, có đủ mọi chuyện dài ''Nhân dân tự vệ'', từ những ông đội đá vá trời một thuở, bây giờ làm Lã Vọng ở nhà ăn trợ cấp, đến những người biết quá nhiều nghề, chẳng nơi nào xứng đáng cho ông làm, bèn đi thụt bi-da chờ thời. Tôi biết mình từng là pilot xạo ke thủa nọ, không dám gáy nồ trước đám đông, chỉ ngồi nghe kể chuyện thế thái nhân tình.
Hôm qua, có một ông sau khi kể thành tích long trời lở đất, thấy tôi ngồi im như Bụt, ông hỏi:
- Thế chú ngày xưa làm gì"
Bản tính bần cố nông của tôi tự nhiên vùng lên, không tự chế được mình, tôi gáy:
- Bay cho Phủ Phó Tổng Thống.
Cả quán bi-da quay lại nhìn tôi, có nhiều câu bàn tán nhưng một câu tôi thấy thấm thía nhất do một anh thanh niên nói: “Xạo ke.”
Chuyện đóng góp vào cuộc chiến của tôi không có gì đáng ghi vào công trận, mà toàn là những chuyện làm mất mặt pilot và binh chủng. Tôi chỉ mong các phi công của Không lực thứ lỗi cho vì tôi bắt đầu nhận ra chân lý: ''Nhận cái dở mình có, hay hơn đánh bóng cái hay mình không có''.
Tuần rồi dự lễ ra trường của đứa con gái, nhìn lên câu khẩu hiệu mà lớp 2001 dùng làm kim chỉ nam cho cuộc đời tương lai của chúng, tôi suy nghĩ mãi. Câu nói rất giản dị của Tony Arata: 'I will do my dreaming with my eyes wide open and I will do my looking back with my eyes closed''.
Tuy phải lưu vong ở quê người, ngày ngày đóng vai thằng phu ống nước, kiếm đồng bạc nuôi con ăn học, khó có hy vọng trở về quê cũ cầm lại cần lái chiếc trực thăng, tôi vẫn cầu mong sao, kiếp sau nếu có làm người, tôi sẽ cố gắng trở thành một phi công đàng hoàng hơn để xứng đáng với lời hát: ''Phi công ra đi lướt trên ngàn mây gió''.
Tôi cũng mong sao tập thể phi công không buồn lòng khi có một thằng ''Pilot ke'' dám kể chuyện ''Xạo ke'' mà tỏ ra chẳng ''ke'' gì về dĩ vãng, ở cái mảnh đất tạm dung này. Thật là đa tạ, đa tạ.
 
Phương Toàn
 

--

 * Cám ơn nhà văn Yên Sơn chuyển.

 

'Flying Anachronism': Douglas A-1 Skyraider Was a Vietnam War Warrior ...

Xem thêm...
Theo dõi RSS này