Khoa học kỹ thuật

Khoa học kỹ thuật (91)

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO và MỐI NGUY HIỂM

 TRÍ TUỆ NHÂN TẠO và MỐI NGUY HIỂM

ĐẶC ĐIỂM THUYẾT NGỘ ĐẠO

Ngày nay công nghệ AI (Artificial Intelligence – trí tuệ nhân tạo) thịnh hành, nhưng lợi bất cập hại, như tiền nhân mỉa mai: “Lợi thì có lợi mà răng chẳng còn.”

 

Mới đây, một ấn phẩm Công giáo có uy tín đã đăng bài đầu tiên trong một loạt ba bài báo. Vừa trở về từ cuộc họp thành viên Hiệp Hội Các Nhà Xuất Bản Công Giáo (ACP – Association of Catholic Publishers), trong đó có ba phiên thảo luận đột phá về trí tuệ nhân tạo, một đồng nghiệp đã đọc bài báo và nghĩ rằng có điều gì đó có vẻ hơi sai lệch. Anh ấy nghĩ rằng anh ấy đã phát hiện các yếu tố trong văn bản AI và xem nhanh, tôi đồng ý. Tôi đã sao chép bài viết và dán vào một công cụ AI được thiết kế để phát hiện nội dung do AI tạo ra. Công cụ xác định rằng 82% văn bản là do AI tạo ra. Tài liệu “nguyên bản” duy nhất là một đoạn trích dẫn được rút gọn từ một thông điệp của Thánh GH Gioan Phaolô II và một câu duy nhất giới thiệu đoạn trích dẫn đó.

 

Không chỗ nào trong bài báo hoặc hạn mức ghi nhận có lưu ý rằng AI đã được sử dụng để tạo ra nội dung. Không có ghi chú của biên tập viên giải thích nguồn gốc của nó, điều này khiến tôi tin rằng các biên tập viên của ấn phẩm không biết người có tên gắn liền với bài báo đã gửi gì. Chính tác giả giả định đã cung cấp một tiểu sử dài, trong đó tác giả lưu ý rằng chủ đề của loạt bài gồm ba bài này rất gần gũi và thân thiết với ông.

 

Chủ đề là gì? Tính độc đáo của nền giáo dục Công giáo.

 

Điều trớ trêu này có thể sẽ không bị bạn bỏ qua. Tôi không biết tác giả giả định đã sử dụng mô hình ngôn ngữ lớn (LLM – Large Language Models) nào để tạo ra văn bản mà anh ta đã chèn một trích dẫn và một dòng văn bản của chính mình vào đó, nhưng tôi biết điều này: Không một LLM nào thực sự đã học trường Công giáo hoặc được hưởng lợi từ nền giáo dục Công giáo. Được đào tạo về số lượng lớn văn bản – phần lớn trong số đó đã được sử dụng, như bất kỳ ai theo dõi sự phát triển của các LLM này đều biết, mà không có sự hiểu biết hoặc đồng ý của các tác giả – Chatbot AI đã tạo ra một bài luận sáu đoạn có thể chấp nhận được về tính độc đáo về điều gì đó nó chưa từng trải qua. Và tác giả giả định, dường như không thay đổi một từ nào, đã trình bày văn bản này như của mình.

 

Tôi cũng tin vào sự độc đáo của nền giáo dục Công giáo, mặc dù tôi chưa từng có kinh nghiệm về giáo dục Công giáo cho đến khi học cao học tại Đại học Công giáo Hoa Kỳ. Có lẽ tôi đang đạo đức giả khi chỉ trích một Chatbot AI vì đã “viết” về điều gì đó mà nó có thể chưa bao giờ trải qua khi trải nghiệm của tôi còn quá hạn chế chăng? Tất nhiên, sự khác biệt là tôi có thể dùng kinh nghiệm hạn chế của mình và suy luận từ đó một cách tưởng tượng để hiểu được những lợi ích của nền giáo dục Công giáo, và tôi có thể nhìn thấy sự khác biệt mà nền giáo dục Công giáo đã tạo ra trong cuộc sống của những người tôi biết và ngưỡng mộ. Tôi có thể so sánh điều đó với nền giáo dục tiểu học và trung học không theo Công giáo của chính tôi và nhận ra những gì tôi thiếu sót.

 

Tôi lớn lên tại một thị trấn nhỏ ở giữa vùng Trung Tây vào thập niên 70 và 80, và nền văn hóa đạo đức bảo thủ trong cộng đồng của chúng tôi đã được phản ánh trong các trường công lập, vì vậy, theo tiêu chuẩn ngày nay, nền giáo dục công của tôi là một nền giáo dục đạo đức. Tuy nhiên, đạo đức đó không nằm trong bối cảnh đức tin Công giáo, và đó là điều mà tôi có thể hiểu là tôi đã thiếu sót, trong khi một Chatbot AI không thể. Tất nhiên, tác giả giả định của bài tiểu luận do LLM tạo ra này có lẽ đã học được trong quá trình học Công giáo của mình rằng việc truyền tải văn bản mà ông không viết như của mình là vi phạm tinh thần của điều răn thứ bảy, ngay cả khi điều đó là không thể về mặt pháp lý để đánh cắp từ Chatbot vì nội dung do AI tạo ra không có bản quyền.

 

Nói cách khác, việc trải qua nền giáo dục Công giáo không đảm bảo rằng người ta sẽ sống phù hợp với những bài học đã học được trong đó.

 

Nói rằng sự bùng nổ của AI sáng tạo đã đưa chúng ta bước vào một thế giới mới đầy dũng cảm đã trở thành một câu nói sáo rỗng, nhưng những câu nói đó là những câu nói sáo rỗng vì chúng tự mặc nhiên là đúng. Trí tuệ nhân tạo có tiềm năng lớn trong việc làm cho công nghệ trở nên hữu ích hơn, nhưng cũng có mối nguy hiểm lớn nếu chúng ta sử dụng nó theo những cách làm xói mòn năng lực đạo đức và sáng tạo của tâm hồn con người – những năng lực bộc lộ đầy đủ nhất rằng chúng ta được tạo ra theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa.

 

SCOTT P. RICHERT

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

 

**************

 

ĐẶC ĐIỂM THUYẾT NGỘ ĐẠO

Nếu bạn dành đủ thời gian trong giới Công giáo, cuối cùng bạn sẽ bắt gặp thuật ngữ “Ngộ Đạo.” Thông thường nó được sử dụng theo nghĩa xúc phạm, tương tự như người theo chủ nghĩa tinh hoa, cụ thể là tin rằng mình có bí mật về kiến thức đặc biệt hoặc kiến thức nội bộ mà người khác không có được. Đôi khi cụm từ này biểu thị niềm tin rằng kiến thức cụ thể khiến một người trở thành người có niềm tin tốt hơn, một kiểu của “sự cứu rỗi nhờ kiến thức bên trong.” Trong bối cảnh này, Ngộ Đạo được đặt ngang hàng với kiến thức bí mật, ngụ ý rằng Ngộ Đạo tuyên bố sở hữu hoặc hành động dựa trên kiến thức bí mật.

 

Có giá trị nào đó đối với các định nghĩa phổ biến này, nhưng cuối cùng chúng không cung cấp cho chúng ta sự hiểu biết toàn diện về Thuyết Ngộ Đạo thực sự là gì và có nguy cơ biến nó thành một từ ngữ có nghĩa xấu mơ hồ với chút ít nền tảng về lịch sử hoặc thần học. Suy cho cùng, Thuyết Ngộ Đạo là một tà thuyết lịch sử phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ I đến thế kỷ III sau Công Nguyên – và nó còn nhiều điều hơn thế nữa ngoài “kiến thức bí mật!” Trong bài viết này, chúng ta xem xét năm đặc điểm của Thuyết Ngộ Đạo lịch sử để hiểu rõ hơn về ý nghĩa thực sự của thuật ngữ này.

 

1. THIÊN CHÚA SÁNG TẠO QUA SỰ PHÁT SINH

Thuyết Ngộ Đạo là một hệ thống tư tưởng phức tạp và đa diện, kết hợp ý tưởng từ nhiều truyền thống khác nhau, khiến việc giải thích trở thành một thách thức. Tuy nhiên, cốt lõi của tất cả các hệ thống Ngộ Đạo là ý tưởng về sự sáng tạo như một chuỗi các nguồn gốc từ Thiên Chúa. Đây là mấu chốt mà các hệ thống Ngộ Đạo khác nhau xoay quanh. Trong Thuyết Ngộ Đạo, Thiên Chúa sáng tạo bằng các phương tiện phát sinh, những sự phát ra này giống như những làn sóng xuất phát từ sự tồn tại của Thiên Chúa và khiến những thứ khác tồn tại. Bởi vì những sự phát ra này chính là bản chất của Thiên Chúa nên tư tưởng Ngộ Đạo luôn mang hương vị phiếm thần. Thiên Chúa không sáng tạo từ hư không; Ngài phát ra, giống như cách các Kitô hữu hình dung Chúa Thánh Thần “xuất phát” từ Chúa Cha và Chúa Con. Bản thân sự sáng tạo là một kiểu rước từ thần linh, thậm chí một số người Ngộ Đạo thô thiển còn giải thích như “sự tiết ra” từ Thiên Chúa, như Thánh Irênê đã phàn nàn trong kiệt tác thần học “Adversus Haereses” (Chống Lạc Giáo). Vì thế, nguyên lý đầu tiên của Thuyết Ngộ Đạo là sự sáng tạo như một sự phát sinh.

 

2. SỰ PHÁT SINH PHỤ CỦA CÁC THỜI ĐẠI

Điểm thứ hai là thứ tự phân cấp của các sự phát sinh này, với mỗi sự phát sinh tạo ra “sự phát sinh phụ” kế tiếp của nó. Ví dụ, sự xuất phát nguyên thủy của Thiên Chúa làm phát sinh những thực tại tâm linh khác; đôi khi những thực tế này là trí thông minh, giống như các thiên thần, trong khi vào những thời điểm khác chỉ là sự trừu tượng thuần túy hợp lý thuộc về thế giới thực thể (ví dụ: tâm trí, suy nghĩ, im lặng, sâu sắc, v.v...). Những sự phát ra này có nhiều tên khác nhau – Teleos, Bythos, Charis, Ennoea, v.v... Đôi khi chúng còn được nhóm lại thành những cặp nam-nữ gọi là “sóc vọng” – các thời điểm giao hội hoặc xung đối. Chúng ta có thể lạc vào một cái hang thỏ thực sự kỳ quái để thảo luận về tên chức năng của các sự phát ra khác nhau, nhưng điều đó sẽ đưa chúng ta đi quá xa. Chỉ cần lưu ý rằng các sự phát ra được gọi chung là Aeon (thời đại, niên kỷ, khoảng vô tận). Các Aeon này sinh ra nhau theo sự sắp xếp phức tạp của các sự phát ra, tạo ra các hệ thống phân cấp phức tạp. “Gia đình” này của Thiên Chúa và các sự phát ra liên tiếp của Ngài được gọi là Pleroma – thế giới siêu cảm giác.

 

3. SỰ MỤC NÁT CỦA THẾ GIỚI VẬT CHẤT

Nguyên lý thứ ba của Thuyết Ngộ Đạo là việc tạo ra thế giới vật chất như một sự lệch khỏi sự thuần khiết của Pleroma. Những huyền thoại Ngộ Đạo khác nhau tùy thuộc vào nguồn chúng ta đọc, nhưng tất cả đều đồng ý rằng tại một thời điểm nào đó, một trong các Aeon đã phát ra thứ gì đó không phản ánh sự thuần khiết được tìm thấy trong Pleroma. Một số người cho rằng đó là điều thiếu sót, số khác cho rằng đó là niềm đam mê hoặc tội lỗi của một trong các Aeon. Dù thế nào đi nữa, sự sai lệch này chính là sự sáng tạo vật chất, vũ trụ vật chất. Có những bất đồng về việc Aeon hoặc các Aeon chịu trách nhiệm gì cho việc này. Trong Thuyết Ngộ Đạo Kitô giáo, đó là tác phẩm của Satan hoặc (theo Thuyết Marcion) Thiên Chúa của Cựu Ước, Đấng là sự phát sinh thấp kém nổi loạn từ Đấng Duy Nhất. Những người theo Thuyết Ngộ Đạo thường gọi sinh vật này là Demiurge, hoặc đôi khi là Great Archon. Dù thế nào đi nữa, vấn đề là thế giới vật chất thể hiện sự băng hoại của sự thuần khiết tinh thần mà Đấng Duy Nhất đã hình dung ra.

 

4. CON NGƯỜI TỚI THẾ GIỚI SIÊU CẢM GIÁC

Vật chất được phát ra, những sự phát ra thứ cấp tiếp theo tạo ra những sinh vật vật chất, và do đó con người đi vào thế giới vật chất. Là những sinh vật trong chuỗi các sự phát ra thần thánh, con người thực sự có sự sống thần thánh trong mình, là “một phần của Chúa” theo nghĩa đen. Tuy nhiên, họ thấy mình được vật chất hóa trong bản chất hư hỏng của sự tồn tại vật chất, bị mắc kẹt trong sự tồn tại vật chất. Khi đó, sự cứu rỗi của con người được hiểu là sự ngược trở lại qua các Aeon cho đến khi chúng ta đến được Pleroma. Sự cứu rỗi là sự trở lại với sự tồn tại của Pleroma được coi là thuần túy tâm linh. Việc trở lại Pleroma qua việc đi lên Aeon về cơ bản là trở về nhà của chúng ta. Đó là kiểu quan niệm của Platon về thế giới, một quan điểm coi sự giác ngộ tâm linh như sự phủ nhận vật chất khi chúng ta dần dần quay trở lại sự tồn tại thuần túy tâm linh trong sự hòa hợp với Đấng Duy Nhất trong Pleroma. Làm sao chúng ta có thể quay trở lại qua các Aeon? Qua sự kết hợp giữa nghi lễ, kiến thức và chủ nghĩa khổ hạnh, tất cả đều tìm thấy trong các cấp bậc tôn ti của cộng đồng Ngộ Đạo.

 

5. MẶC KHẢI QUA HUYỀN THOẠI

Cuối cùng, chúng ta đến với nguyên lý thứ năm của Thuyết Ngộ Đạo, sự tiết lộ dần dần chân lý qua ngôn ngữ thần thoại. Việc đi lên qua các Aeon để trở lại Pleroma là chuyển động từ vật chất sang tinh thần, kéo theo sự thanh lọc trí tuệ. Một người mới bắt đầu không thể suy ngẫm về những chân lý siêu phàm theo cách mà một người thụ giáo dày dạn kinh nghiệm có thể làm, tâm trí của họ quá tối tăm bởi vật chất thô thiển. Vì vậy, các thầy dạy Ngộ Đạo đã sử dụng ngôn ngữ thần thoại để giải thích hệ thống của họ cho những người mới bắt đầu và những người chưa có kinh nghiệm. Chúng ta đã thấy các Aeon có thể được nhân cách hóa, nhân tính hóa và đặt tên như thế nào; sự xuất hiện của các Aeon sau đó sẽ được giải thích bằng thuật ngữ vật chất, ví dụ: thế giới được hình thành bởi nước mắt của Aeon Sophia, hoặc bởi tinh dịch của Demiurge.

 

Sau đó, khi người thụ giáo tiến bộ qua hệ thống phân cấp của cộng đồng Ngộ Đạo, ý nghĩa triết học và thần bí của những huyền thoại này sẽ được giải thích cho anh ta. Ngôn ngữ thần thoại này là lý do Thánh Augustinô, khi có cơ hội phỏng vấn Faustus, thầy dạy Ngộ Đạo, đã thất vọng trước người đàn ông này, người có những lời giải thích về Thuyết Ngộ Đạo “đầy rẫy những ngụ ngôn, về thiên đường, các vì sao, mặt trời và mặt trăng, bây giờ tôi không còn nghĩ ông ấy có thể quyết định một cách thỏa đáng những gì tôi rất muốn biết.” (Thánh Augustinô, Tự Thuật, Cuốn V). Tertullian cũng phàn nàn về các ngụ ngôn này, rằng người thụ giáo “ngay khi tìm thấy rất nhiều tên của các Aeon, rất nhiều cuộc hôn nhân, rất nhiều con cái, rất nhiều lối thoát, rất nhiều vấn đề, những may mắn và bất hạnh của một vị thần bị phân tán và bị cắt xén, liệu người đó có lưỡng lự tuyên bố rằng ‘có những ngụ ngôn và những gia phả vô tận’ mà vị tông đồ linh cảm bởi sự tiên đoán bị chỉ trích, trong khi các hạt giống tà giáo này cứ đâm chồi lên?” (Tertullian, Chống Lại Các Hoàng Đế Valentinian, Chương 3)

 

VĨ NGÔN

 

Điều thú vị là Thánh John Henry Newman, sử gia uyên bác, khi tóm tắt Thuyết Ngộ Đạo, đã bỏ qua bất kỳ đề cập nào đến “học thuyết bí mật.” Khi nói về bản chất của niềm tin Ngộ Đạo, ngài nói: “Thuyết Ngộ Đạo là… học thuyết về hai nguyên tắc, đó là sự xuất phát, bản chất ác tính nội tại của vật chất, tính vô tội của sự nuông chiều xác thịt, hoặc tội lỗi của mọi cảm giác khoái lạc.” (Tiểu Luận về Sự Phát Triển Học Thuyết Kitô Giáo, Chương 1, Mục 1, §1). Thánh Newman xác định một cách đúng đắn sự phát sinh và sự hư hoại của thế giới là những ý tưởng cơ bản của Thuyết Ngộ Đạo nhưng không đặt ra những tuyên bố về kiến thức bí mật trong số các nguyên lý chính của Thuyết Ngộ Đạo. Vậy thì từ đâu mà chúng ta có ý tưởng này?

 

 Có vẻ như việc thực hành bắt đầu bằng ngôn ngữ thần thoại đối với những ý nghĩa đơn giản và dần dần xếp lớp những ý nghĩa phức tạp hơn vào ngụ ngôn khi người thụ giáo tiến triển là điều đã làm nảy sinh khái niệm Ngộ Đạo bao gồm “kiến thức bí mật.” Như bạn có thể thấy, đây chỉ là một phần nhỏ của hệ thống Ngộ Đạo và nó cũng không dành riêng cho Thuyết Ngộ Đạo. Các giáo phái bí ẩn ngoại giáo, chẳng hạn như các giáo phái Isis, Eleusis và Mithras, cũng sử dụng phương pháp này. Trường phái triết học của Pythagore cũng vậy. Kitô giáo cũng sử dụng sự mặc khải dần dần về chân lý trong các nghi thức khai tâm. Ý tưởng về kiến thức dành riêng cho những người thụ giáo chỉ đơn giản là một chủ đề chung của tâm linh cổ xưa. Ngay cả Chúa Giêsu Kitô cũng xác định rằng có một kiến thức đặc biệt chỉ dành cho những người “có mắt để thấy.”

 

Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?” Ngài đáp: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe.” (Mt 13:10-13, 16)

 

Có thể hiểu được rằng người ta lạm dụng các thuật ngữ “Thuyết Ngộ Đạo” và “Ngộ Đạo.” Cuối cùng, tà giáo Ngộ Đạo rất phức tạp và không dễ dàng tóm tắt bằng một thuật ngữ tiện dụng duy nhất. Tuy nhiên, hy vọng chúng ta có thể sáng suốt và chính xác hơn một chút trong cách nói khi sử dụng từ ngữ này.

 

PHILLIP CAMPBELL

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

 

Ngọc Lan sưu tầm

 

Xem thêm...

14 loại chất độc khủng khiếp nhất thế giới

 14 loại chất độc khủng khiếp nhất thế giới

Khi nghĩ đến chất độc, chúng ta thường nghĩ ngay đến những cái tên nổi tiếng như cyanua, thạch tín, hay strychnine. Tuy nhiên chúng không phải là những chất độc nhất từng được biết đến.

Việc đánh giá độc tính của một chất không phải là một điều đơn giản. Ví dụ, nếu bạn nuốt thủy ngân lỏng thì phần lớn trường hợp chúng sẽ được thải ra ngoài mà không gây ra bất kì tổn hại nào. Tuy nhiên, nếu chúng ta hít phải hơi thủy ngân thì mọi chuyện sẽ cực kì tồi tệ.

  1. Dimethyl cadmium (CH3-CO-CH3)

Dimethyl cadmium - Hít vào là chết.

Dimethyl cadmium (CH3-CO-CH3) là một hợp chất thuộc nhóm hữu cơ kim loại. Nó là một chất lỏng không màu cực độc, bốc khói trong không khí. Nó là một phân tử tuyến tính với độ dài liên kết C-Cd là 213 pm. Hợp chất tìm thấy việc sử dụng hạn chế như một thuốc thử trong tổng hợp hữu cơ và trong lắng đọng hơi hóa học kim loại (MOCVD). Nó cũng đã được sử dụng trong quá trình tổng hợp hạt nano cadmium selenide , mặc dù những nỗ lực đã được thực hiện để thay thế nó trong khả năng này do độc tính của nó.

Chất này cũng có cả hai tính chất đáng sợ là cháy khó dập tắt và dễ nổ, nhưng sự đáng sợ của nó lại đến từ nồng độ độc chất nó đem lại. Chỉ vài phần triệu gram hơi dimethyl cadmium phân tán trong thể tích 1 mét khối vuông cũng đã đủ khiến một người vong mạng.

Độc tính của dimethyl cadmium gây ra cả ảnh hưởng cấp tính và mãn tính lên cơ thể người. Khi được hít vào, chất độc này nhanh chóng hấp thụ vào máu, từ đó lan rộng khắp cơ thể, gây tác động gần như tức thì lên các cơ quan như phổi, gan, thận. Thậm chí, ngay cả khi nạn nhân vẫn còn sống vài giờ sau khi hít phải khí này thì hậu quả sau đó cũng rất khủng khiếp. Chất độc này là tác nhân gây ung thư cực mạnh. Nghe đến đây chắc bạn cũng tưởng tượng được sức tàn phá của Dimethyl cadmium khủng cỡ nào.

Vậy nếu vô tình làm tràn dimethyl cadmium ra ngoài, làm cách nào để làm sạch, tốt nhất là bạn đừng bao giờ để điều đó xảy ra. Bởi việc dùng nước rửa, hay quét là không thể vì kích thích phản ứng cháy nổ. Thậm chí, chờ dimethyl cadmium phân hủy cũng không khả thi, do chất mới tạo ra còn dễ nổ hơn cả chất ban đầu.

  1. Brodifacoum

Brodifacoum là một hóa chất diệt thú vật bằng cách ngăn đông máu, dẫn đến chảy máu trong liên tục.

Brodifacoum là một chất chống đông máu rất mạnh làm giảm mật độ vitamin K trong máu, gây chảy máu trong và tử vong. Nó được bán dưới dạng thuốc diệt chuột có những tên như Talon, Jaguar và Havoc. Con người và thú cưng cũng sẽ phải chịu tình cảnh tương tự dù chỉ chạm nhẹ vào vật nhiễm độc. Chất độc thẩm thấu qua da và được giữ lại trong cơ thể trong nhiều tháng. Những động vật ăn phải loài gặm nhấm nhiễm độc cũng có nguy cơ dính phải.

  1. Cyanide (xyanua)

 

Hạt táo có chứa Cyanide.

Cyanide có lẽ là chất độc nổi tiếng nhất vì nó được dùng trong rất nhiều vụ tấn công khủng bố. Nếu một người hít hoặc hấp thụ Cyanide qua đường tiêu hóa, người đó sẽ chết trong vòng 20 giây do ngạt thở.

Các nhà khoa học nói rằng Cyanide và Strychnine là khá giống nhau về độc tính, nhưng Cyanide có tiếng tâm hơn nhiều. Hợp chất hóa học này có thể được tìm thấy trong các nhà máy, vi khuẩn, nấm và trong hạt của một số loại trái cây.

Hạt táo có chứa Cyanide, tuy nhiên, bạn chỉ có thể ngộ độc khi nhai và nuốt ít nhất 150 hạt táo, điều này sẽ khiến bạn co giật, suy hô hấp, trụy tim và chết trong vòng vài giây.

  1. Thạch tín

Độc tố phổ biến này sẽ không nguy hiểm khi ở liều lượng nhỏ. Trên thực tế, một báo cáo vào năm 2017 cho biết, 2 triệu người Mỹ thường xuyên tiếp xúc với thạch tín từ nước giếng.

Tiếp xúc với thạch tín trong thời gian dài sẽ dẫn đến ung thư, còn nếu sử dụng một lượng lớn thạch tín pha vào thức uống (không mùi, không vị), bạn sẽ chết.

Đó cũng là lý do tại sao thạch tín lại được những kẻ giết người ưa chuộng trong thế kỷ 19 ở Anh. Ói mửa, tiêu chảy là triệu chứng đầu tiên, tùy vào liều lượng mà cái chết sẽ đến trong vòng 2 giờ cho tới 2 ngày.

  1. Botulinum

Botulinum độc gấp 40 triệu lần Cyanide và có thể giết chết một người chỉ với một lượng bằng 80 nanogram. Các triệu chứng bao gồm việc đầu tiên mặt bạn sẽ tê liệt, sau đó là đến chân tay và cơ quan hô hấp của bạn.

Thật không may, như đã đề cập ở đầu bài, loại độc này có thể xuất hiện trong thực phẩm mặc dù rất hiếm, vì vậy nếu sau khi ăn thứ gì đó mà cảm thấy cơ mặt bắt đầu tê liệt và không thể nói được hãy đến bệnh viện nhanh nhất có thể.

  1. Thủy ngân

Thủy ngân tồn tại một cách tự nhiên trong không khí, nước và đất, nhưng nó rất nguy hiểm khi được hình thành bên trong cá và trở thành Methylmercury. Vì đây là con đường dễ nhất để thủy ngân đi vào cơ thể chúng ta khi ăn phải. Nó nằm ở thứ hạng cao trong danh sách bởi vì chỉ một lượng rất nhỏ thủy ngân cũng có thể gây tử vong. Đã từng có nhiều vụ tử vong khi tiếp xúc với thủy ngân, trong số đó là một nhà khoa học Anh vào năm 1996. Cô đã thực hiện tất cả các biện pháp an toàn khi làm việc với chất độc hại nhưng vẫn gặp nguy hiểm khi nhỏ 2 giọt thủy ngân lên tay mặc dù đã mang găng bảo vệ, trong vài tuần sau đó, cô bị suy giảm thần kinh, hôn mê và tử vong.

  1. Strychnine

Strychnine là một chất được tìm thấy với liều lượng cao trong cây mã tiền được bào chế thành nhiều loại thuốc khác nhau. Nguyên nhân gây tử vong chủ yếu bao gồm uống nhầm rượu xoa bóp có ngâm hạt mã tiền, ngộ độc thuốc trừ sâu chứa Strychnine, sử dụng các chế phẩm ma túy như Cocain và Heroin có pha Strychnine hoặc thậm chí bị ô nhiễm thực phẩm và nước.

Nếu bị đầu độc, bạn sẽ biết trong vòng 15-60 phút bởi các triệu chứng lo lắng, đau cơ, co thắt và ở liều cao sẽ dẫn đến suy hô hấp và chết não. Nếu bạn cố cầm cự và vượt qua 12 giờ, bạn có thể sống sót.

  1. Polonium

. Về lý thuyết, một gam Polonium 210 có thể giết chết 10 triệu người nếu ăn phải. Được phát hiện vào năm 1898, các nguyên tố phóng xạ Polonium là nguyên nhân gây ra cái chết của Yasser Arafat, nhà lãnh đạo Palestin bất đồng chính kiến với Nga.

Polonium được liệt vào danh sách các chất độc nguy hiểm nhất của thế kỉ 21. Nó không được sử dụng trong nghiên cứu sinh học vì vô cùng nguy hiểm cho tất cả các sinh vật sống. Hình thức phổ biến nhất của nó là Polonium 210, nó bị báo buộc nguy hiểm gấp 250.000 lần hydri cyanide. Điều này giải thích tại sao Mỹ dùng Polonium để thả xuống Nagasaki với những gì họ cho là dự án Dyton của Mahattan. Về lý thuyết, một gam Polonium 210 có thể giết chết 10 triệu người nếu ăn phải, tiêm hoặc hít. Bức xạ của nó có thể gây ung thư cho con người.

  1. Tetrodotoxin

Chất độc này bắt nguồn từ cá nóc.

Viết tắt là TTX, Tetrodotoxin là một chất độc thần kinh gây tử vong có tên bắt nguồn từ cá nóc. Nếu bạn ăn phải chất độc cá nóc, bạn sẽ gặp những triệu chứng như liệt miêng, rối loạn, liên tiếp những cơn co giật, hôn mê và cuối cùng là cái chết. Tất cả chỉ xảy ra trong vòng 17 phút hoặc tối đa là 6h. TTX đứng đầu trong danh sách các chất độc giết người.

Chỉ cần một lượng rất nhỏ những chất này cũng đủ làm bạn tử vong. (Nguồn ảnh: AMC).

Sau đây là 5 loại chất độc mạnh nhất thế giới từng được biết đến. Chúng độc gấp hàng trăm lần so với các chất kịch độc như xyanua hay strychnine.

  1. Chất độc Ricin

 

Ricin được trích xuất từ hạt của cây thầu dầu (Ricinus communis). (Nguồn ảnh: Flickr). Chất độc thực vật cực kỳ độc hại này đã được sử dụng để giết chính trị gia nổi tiếng Bulgaria Georgi Markov khi ông đang sống lưu vong ở London. Vào ngày 07 tháng 9 năm 1978, khi Markov đang đứng chờ xe buýt gần Waterloo Bridge (Anh) thì ông bất ngờ cảm thấy có cái gì đó chạm vào đùi của mình.

Ông nhìn ra phía sau và thấy một người đàn ông đang cúi xuống nhặt một chiếc ô. Markov lập tức cảm thấy bị hoa mắt và ngất xỉu ngay ở trạm xe buýt. Ông được đưa tới bệnh viện với triệu chứng sốt cao và qua đời ba ngày sau đó.

Khám nghiệm tử thi cho thấy một quả cầu rất nhỏ làm bằng một hợp kim platinum- iridium dính trên đùi Markov. Quả cầu có phủ nhiều kim nhỏ được bôi một ít chất ricin và chính chất này là nguyên nhân gây ra tử vong.

Ricin được trích xuất từ hạt của cây thầu dầu (Ricinus communis). Chất này là một loại glycoprotein gây cản trở quá trình tổng hợp protein và từ đó gây chết tế bào. Chỉ cần 1mg cho mỗi kg cơ thể người cũng đủ làm tử vong nạn nhân.

  1. Chất độc VX

Năm 1950, VX đã bị cấm trên toàn thế giới vì quá mức độc hại. (Nguồn ảnh: zidbits). VX là một chất độc thần kinh trích xuất từ dầu nhớt bôi trơn động cơ. Ban đầu, loại chất này được phát minh và sử dụng trong thuốc trừ sâu. Tuy nhiên đến năm 1950, VX đã bị cấm trên toàn thế giới vì quá mức độc hại. VX can thiệp quá trình truyền tải thông điệp thần kinh giữa các tế bào bằng cách tác động lên một loại phân tử có tên là acetylcholine.

Sau khi acetylcholine đã truyền đi thông điệp thần kinh, chúng cần phải được phá hủy bằng một loại enzyme có tên là acetylcholinesterase. Nếu không chúng sẽ tiếp tục gửi đi tín hiệu mãi mãi. VX ngăn chặn hoạt động của enzyme acetylcholinesterase, khiến cho acetylcholine hoạt động liên tục. Từ đó cơ bắp của bạn sẽ mất kiểm soát và bạn sẽ chết vì co thắt và ngạt thở.

  1. Chất độc Batrachotoxin

Chất độc Batrachotoxin được lấy từ những con ếch độc. (Nguồn ảnh: musemalady). Có lẽ chúng ta đều quen thuộc với hình ảnh của những người da đỏ Nam Mỹ sử dụng ống thổi phi tiêu để đi săn bắt động vật. Nhưng đã có bao giờ bạn nghĩ rằng vì sao nhưng chiếc phi tiêu bé tẹo như vậy lại có thể giết được cả một con trâu? Đó là vì chúng đã được tẩm một loại chất kịch độc có tên là Batrachotoxin lấy từ những con ếch độc.

Những người thổ dân sẽ cố gắng bắt những chú ếch càng có màu sắc sặc sỡ càng tốt và nướng chúng trên ngọn lửa. Những con ếch này sẽ chảy ra chất độc và những thổ dân sẽ hứng lấy rồi bôi lên phi tiêu.

Batrachotoxin gây tử vong bằng cách tác động lên các kênh ion Na + trong tế bào của cơ bắp và dây thần kinh, khiến cho chúng không thể đóng khép lại được. Điều này sẽ khiến cho dòng ion Na + lưu chuyển liên tục và từ đó gây ra chết do suy tim.

Tuy nhiên, điều thú vị ở đây là bản thân những con ếch vốn không độc. Độc tố mà chúng có được là nhờ những con bọ cánh cứng mà chúng hay ăn trong rừng.

  1. Chất độc Maitotoxin

Đây là loại độc chất nguy hiểm nhất tồn tại trong cơ thể của các động vật biển. (Nguồn ảnh: Flickr).

Maitotoxin là loại độc chất nguy hiểm nhất tồn tại trong cơ thể của các động vật biển. Loại độc chất này được hình thành trong một loại tảo và có cấu trúc rất phức tạp. Vì thế chúng rất khó để tổng hợp nhân tạo. Maitotoxin sẽ làm tăng dòng chảy của các ion canxi qua màng tế bào cơ tim, gây suy tim và tử vong.

  1. Chất độc Botulinum toxin

Chỉ cần một nanogram trên mỗi kg cơ thể của chất này cũng đủ làm tử vong ngay lập tức. (Nguồn ảnh: npr).

Các nhà khoa học hiện nay đều đồng ý rằng botulinum toxin, một hợp chất được sản xuất bởi những vi khuẩn kỵ khí, là chất độc nhất được biết đến. Chỉ cần một nanogram trên mỗi kg cơ thể của chất này cũng đủ làm tử vong ngay lập tức.

Có nhiều loại độc tố botulinum khác nhau với loại A là loại mạnh nhất. Cấu trúc của chất này là một polypeptide, bao gồm hơn 1.000 phân tử axit amin nối với nhau.

Chúng gây tê liệt cơ bắp bằng cách ngăn chặn việc tạo ra các phân tử thần kinh acetylcholine.

Tuy nhiên, loại chất này lại được áp dụng trong ngành công nghiệp mỹ phẩm và làm đẹp. Một lượng nhỏ vừa đủ của botulinum sẽ làm các bó cơ mặt ngưng hoạt động và từ đó giảm thiểu nếp nhăn.

 

 Nguyên Thy sưu tầm

Xem thêm...

Lịch Sử Của Các Phương Pháp Giảm Đau Từ Gây Tê Đến Gây Mê Toàn Thân

Lịch Sử Của Các Phương Pháp Giảm Đau

Từ Gây Tê Đến Gây Mê Toàn Thân


Mất cảm giác đau là một điều rất hữu ích cho bệnh nhân khi cần tiến hành phẫu thuật. Nhưng để làm được việc này thì không phải lúc nào cũng dễ dàng.
 
Bức tranh toàn cảnh về các phương pháp giảm đau đã được phát triển qua nhiều thế kỷ, từ những loại thảo mộc vào khoảng 4000 năm trước Công nguyên cho đến lidocain, loại thuốc gây tê phổ biến nhất hiện nay. 
 
Gây mê giảm đau là một phát minh tuyệt vời. Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa thực sự hiểu về cơ chế tác dụng khi tiến hành gây mê. Những gì chúng ta đã biết chỉ là vai trò [giảm đau] quan trọng của gây mê trong y học qua nhiều thế kỷ.
 
Tôi đã nhận thấy rất rõ ràng vai trò này trong một tình huống không mấy thoải mái vào khoảng hơn 35 năm trước. Khi đó, tôi cần mổ lấy thai cấp cứu cho một phụ nữ chỉ với lidocain là thuốc gây tê duy nhất. Vào thời điểm bấy giờ, phương pháp gây tê ngoài màng cứng chưa được sử dụng rộng rãi. Vì vậy, sẽ không có bác sĩ gây mê nào sẵn sàng cho ca cấp cứu lúc 2 giờ sáng như thế này.
 
Các bậc cha mẹ muốn tôi làm tất cả những gì có thể cho đứa trẻ, trong khi lúc đó tôi còn rất trẻ và chỉ mới thực hành [mổ lấy thai] được một năm. Chúng tôi đã vội vàng đưa cô ấy trở lại phòng mổ cùng với hy vọng bác sĩ gây mê sẽ có mặt kịp thời trước khi tôi phải rạch da cô ấy.
 
Chỉ có duy nhất một bác sĩ gây mê trong bệnh viện vào lúc nửa đêm. Nhưng anh ấy đang phải tiến hành hồi sức cấp cứu cho bệnh nhân trên một tầng khác. Những ngày tháng đó, chúng tôi không có bác sĩ gây mê chuyên cho quá trình chuyển dạ và sinh nở.
 
Nhịp tim của thai nhi thấp đến mức nguy hiểm, khoảng 60 (bình thường là 120 – 150). Em bé sẽ bị tổn thương não nghiêm trọng hoặc tử vong nếu không được lấy ra trong vòng vài phút. Và sự lựa chọn duy nhất mà chúng tôi có là phẫu thuật bằng thuốc gây tê cục bộ, lidocain. 
 
Trước đó tôi chỉ mới đọc về cách gây tê cục bộ trong mổ lấy thai, và bằng cách nào đó, tôi đã nhớ ra liều tối đa có thể dùng mà không gây độc. Ít nhất tôi cũng biết rằng tôi có thể sử dụng bao nhiêu. Nhưng nếu cô ấy cần thêm thì sao? Nếu nó không hoạt động thì sao?
 
Từng giây trôi qua và nhịp tim thai vẫn ở mức thấp xung quanh 60. Tôi buộc phải đưa ra quyết định. Cha mẹ đứa trẻ cầu xin tôi làm điều gì đó, họ nói với tôi rằng: “Hãy cứu lấy đứa con của chúng tôi”. Tôi đã cầu nguyện và bắt đầu tiêm lidocain khi rạch da theo các lớp, cần đợi vài giây để lidocain phát huy tác dụng ở mỗi lớp và cuối cùng em bé sẽ ra ngoài sau hai phút. Nếu đầy đủ thuốc mê, tôi có thể lấy thai nhi ra trong vòng chưa đầy một phút nếu cần. Nhưng trong trường hợp này, tôi phải đợi ở từng bước để lidocain phát huy tác dụng.
 
Thật may mắn rằng bệnh nhân của tôi không cảm thấy gì và đứa bé đã ổn sau ít phút. Tạ ơn Chúa! Bác sĩ gây mê đã xuất hiện khoảng 10 phút sau khi chúng tôi bắt đầu và anh ấy có thể gây mê toàn thân cho cô ấy khi tôi kết thúc cuộc phẫu thuật.
 
Tình huống này rất hiếm gặp vào ngày nay. Ít nhất thì tôi cũng hy vọng nó sẽ không xảy ra. Có rất nhiều câu chuyện như vậy, về những điều chúng ta từng làm sẽ không bao giờ còn xảy ra vào ngày nay. Và rất nhiều câu chuyện trong quá khứ khác đã cho chúng ta thấy được sự thay đổi ngoạn mục của các phương pháp giảm đau.
 
Cây thuốc phiện 
 
gayme4
 
Một trong những khám phá nổi tiếng nhất trong lĩnh vực giảm đau là cây thuốc phiện (cây anh túc). Các nền văn minh ban đầu sử dụng cây thuốc phiện và các loại thảo mộc khác để giảm đau. Người Sumer đã sử dụng cây thuốc phiện từ 4000 năm trước Công nguyên. Trải qua nhiều thế kỷ, các công ty dược phẩm đã tìm ra cách tạo ra nhiều loại thuốc giảm đau mạnh hơn từ cây thuốc phiện. Do đó, việc sử dụng thuốc phiện đã nhanh chóng nhường chỗ cho morphin, heroin, và các loại thuốc phiện bán tổng hợp và tổng hợp ngày nay. Mặc dù đang bị nhiều người lạm dụng, nhưng tác dụng giảm đau của những loại thuốc này vẫn quan trọng đối với hàng triệu người.
 
Nhưng anh túc không phải là loại thảo mộc duy nhất được sử dụng để giảm đau. Vào khoảng năm 2250 trước Công nguyên, người Babylon đã sử dụng cây Thiên tiên tử (Hyoscyamus niger) để chữa đau răng.
 
Vào năm 1600 trước Công nguyên, người Trung cộng đã sử dụng một phương pháp giảm đau rất khác là châm cứu. Các loại thuốc giảm đau khác cũng đã được sử dụng. Thần y Hoa Đà nổi tiếng của Trung cộng đã sử dụng mafeisan (hỗn hợp rượu và thảo dược) làm thuốc gây mê để tiến hành phẫu thuật vào khoảng năm 160 sau Công nguyên.
 
genk1 Người ta tin rằng hỗn hợp này có thể là morphin hoặc thuốc phiện. Thật không may, Hoa Đà đã bị hành quyết vì lý do chính trị và các tài liệu y học phong phú của ông trước đó đã bị thiêu hủy.
Người Trung cộng đã sử dụng một phương pháp giảm đau rất khác là châm cứu. Biểu đồ châm cứu với một loạt các điểm được chỉ ra trên hình một người đàn ông
 
Khí Ete
gayme6 Vào khoảng thời gian gần đây hơn, chính xác là năm 1540, Valerius Cordus, một bác sĩ và nhà thực vật học người Đức đã phát minh ra “dầu ngọt vitriol” từ ete dietyl thông qua quá trình chưng cất etanol và acid sunfuric.
 
Vào năm 1846, Nha sĩ William T.G. Morton đã trình diễn công khai ca phẫu thuật đầu tiên sử dụng ete làm thuốc mê tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts. Trong khi bác sĩ Crawford Long mới thực sự là người đầu tiên sử dụng ete trong thực hành phẫu thuật của ông vào năm 1842 tại Jefferson, Georgia.
 
gayme7 
Mặc dù tiến sĩ Morton đã nhận được rất nhiều danh tiếng nhờ sử dụng ete. Nhưng trên toàn thế giới cũng có rất nhiều trường hợp gây mê thành công nổi tiếng khác.
 
Tiến sĩ Seishu Hanaoka, ở Nhật Bản, đã phát triển một công thức đường uống từ các loại thảo mộc tên là “Tsusen-san”. Ông đã sử dụng công thức này để gây mê toàn thân cho cô Kan Aiya 60 tuổi trước phẫu thuật cắt bỏ một bên vú do ung thư. Ca phẫu thuật được thực hiện thành công vào ngày 13/10/1804. Có tài liệu cho rằng tiến sĩ Hanaoka đã dành hơn 20 năm để phát triển loại thuốc mê Tsusen-san của mình, và tiến hành thử nghiệm trên vợ của ông và 10 đối tượng khác.
 
gayme8 
Ether là một thành công lớn trong lĩnh vực gây mê. Năm 1856, chính Tiến sĩ Edward Robinson Squibb đã phát minh ra một dạng ether tinh khiết về mặt hóa học. Hai năm sau, ông thành lập công ty dược phẩm Squibb and Sons. Ngày nay Squibb là một trong những công ty dược phẩm lớn nhất thế giới.
 
Khí nitơ oxit
gayme9
 
Joseph Priestley nổi tiếng với việc “khám phá” ra oxy, ông cũng là người đầu tiên sản xuất và mô tả khí nitơ oxit (N2O) vào năm 1772. Priestly là một nhà thần học người Anh và một nhà hóa học tự học. Nhiều năm sau đó, nhà khoa học Sir Humphry Davy đã đề xuất việc sử dụng nitơ oxit để giảm đau. Nhưng thay vào đó, nitơ oxit đã được sử dụng như “khí cười”, một món đồ chơi và giải trí trong một thời gian dài. Mãi cho đến năm 1844, nha sĩ Horace Wells mới sử dụng nitơ oxit để giảm đau khi nhổ răng.
 
Năm 1847, hợp chất chloroform, tương tự như ether đã được dùng làm thuốc gây mê sản khoa cho phụ nữ chuyển dạ. Điều này nhanh chóng trở nên rất phổ biến sau khi Tiến sĩ John Snow sử dụng chloroform cho Nữ hoàng Victoria của Vương quốc Anh khi bà sinh con trai vào năm 1844.
 
Cocaine
gayme10 
Các pháp sư Incan là những người đầu tiên sử dụng cocain để giảm đau. Sau đó, vào năm 1884, hợp chất này đã được đưa vào sử dụng như một loại thuốc gây mê cho phẫu thuật mắt cho đến tận ngày nay. Năm 1898, Tiến sĩ August Bier lần đầu tiên sử dụng cocain để gây tê tủy sống.
 
Năm 1944, Lidocain mà tôi đã sử dụng cho bệnh nhân của mình cách đây 35 năm đã được phát hiện và hiện vẫn được sử dụng rộng rãi.
 Năm 1846, bác sĩ Oliver Wendell Holmes đôi khi được cho là người đã đặt ra thuật ngữ “gây mê” sau khi đọc về màn trình diễn sử dụng ether của tiến sĩ Morton.
 
Hai phương pháp gây mất cảm giác đau cơ bản hiện nay
 Gây tê cục bộ, chẳng hạn như lidocain. Đây vẫn là loại thuốc gây tê cục bộ phổ biến nhất khi đóng vết thương (bằng chỉ khâu hoặc ghim phẫu thuật). Có rất nhiều phiên bản khác nhau của lidocain với các đặc tính riêng biệt được sử dụng cho các tình huống cụ thể. Nói một cách đơn giản, những hóa chất này ngăn chặn sự dẫn truyền thần kinh từ vị trí đau đến não bộ bằng cách ức chế các kênh natri trên màng tế bào. Vì vậy cơn đau sẽ trở lại khi hết thuốc tê.
 
Gây mê toàn thân là một cách giảm đau khác. Trong trường hợp này, bệnh nhân không còn cảm giác về bất kỳ cơn đau nào nhưng vẫn duy trì tất cả các chức năng sống quan trọng. Những chất gây mê toàn thân có tác dụng giảm đau nhờ khả năng ngăn chặn sự dẫn truyền thần kinh qua synap. Tuy vậy, sau hơn 150 năm sử dụng, người ta vẫn chưa hiểu rõ chính xác cách thức hoạt động của những loại thuốc gây mê dạng hít này.
 
Điều thú vị là khi ai đó được gây mê toàn thân, họ sẽ không mơ. Ngày nay, gây mê toàn thân là một ngành khoa học trong đó các loại thuốc đường tĩnh mạch được sử dụng kết hợp với khí mê dạng hít để đảm bảo an toàn và hiệu quả tốt nhất cho bệnh nhân. Và một điều cuối cùng, đừng hỏi bác sĩ gây mê về cách mà thuốc mê thực sự có tác dụng. Bởi vì họ sẽ bị chìm đắm trong mớ kiến thức đồ sộ về chuyên ngành này nếu cố gắng đưa ra câu trả lời. 
 
Tiến sĩ Peter Weiss là khách mời thường xuyên của các đài truyền hình địa phương và quốc gia, báo chí và đài phát thanh. Ông là trợ lý giáo sư lâm sàng sản phụ khoa tại Trường Y David Geffen tại UCLA trong 30 năm, ông đã nghỉ việc để có thể hỗ trợ về mặt lâm sàng cho người có nhu cầu trong đại dịch Covid.
 
 
Peter Weiss  _  Tú Liên
Xem thêm...

Sự thật về khẩu trang

Sự thật về khẩu trang

 

Bài kiểm tra khẩu trang N95 trước khi vào phòng mổ

Vào tháng 8/2020, giai đoạn tiền vaccine và mọi người đang hoảng loạn, tôi có một bệnh nhân mắc COVID-19 và cần phẫu thuật khẩn cấp. Tôi có 30 phút chuẩn bị trước khi vào phòng phẫu thuật.

Khi bước vào, y tá đã sẵn sàng cho tôi thực hiện bài kiểm tra độ khít của mặt nạ N95. Việc kiểm tra độ khít rất quan trọng để ngăn chặn các hạt virus xâm nhập nếu khẩu trang bị hở. Tôi đeo cái đầu tiên vào và đội một túi nhựa trùm lên phần đầu và phía trên cơ thể. Y tá gắn một cái ống vào đó và yêu cầu tôi cho cô ấy biết khi tôi cảm thấy vị chua hay mùi lạ. 

 

Trong 5 giây đầu tiên, tôi cảm nhận đầy vị chua. Cô ấy nhanh chóng dừng lại và chúng tôi lặp lại bài kiểm tra tương tự với một chiếc N95 khác. Lần này, mất 30 giây. May mắn thay, N95 thứ ba vừa vặn, không có vị chua hoặc mùi lạ khi hết ba phút kiểm tra.

Tôi đeo khẩu trang N95 đã kiểm tra, với bộ quần áo bảo hộ, hai đôi găng tay và kính bảo hộ. Tôi cảm thấy thật kinh khủng.

Đã một năm trôi qua từ khi đó và chúng ta có thêm kinh nghiệm gì về khẩu trang hay không? Có tất cả mọi thứ như chưa có gì.

Anh trai, cháu gái và tôi là đồng tác giả của bài báo viết về khẩu trang N95 được xuất bản năm 2007 trên Tạp chí Y tế công cộng Hoa Kỳ. Tất cả chúng tôi đều là bác sĩ. Tiến sĩ Martin Weiss là tác giả chính. Bài báo đó có tiêu đề “Ngăn chặn sự lây nhiễm của cúm A bằng khẩu trang và tia cực tím.”

Khi nỗi sợ H1N1 lên đỉnh điểm, kết luận từ bài báo này là khẩu trang N95 có thể chặn 95% giọt dịch siêu nhỏ bắn đến khẩu trang và chúng ta cần được sản xuất khẩu trang loại này ngay. Chúng có thể chặn các hạt có kích thước nhỏ tới 300 nanomet, hay virus COVID-19.

Khẩu trang N95 có các sợi nano dày đặc chặn các giọt bắn. Đây là thứ tốt nhất mà chúng tôi có trong phòng phẫu thuật, không kể mặt nạ phòng độc N100. Tuy nhiên, theo một bài báo đăng trên Tạp chí Y học tự nhiên vào 4/2020, khẩu trang N95 vẫn có thể dính virus từ người bệnh.

Điều đáng buồn là họ đã không đáp ứng lời kêu gọi sản xuất hàng loạt khẩu trang này của chúng tôi vào năm 2007. Chúng tôi cũng khẳng định mấu chốt vẫn là vaccine và liệu trình điều trị. Khi chúng ta đã có vaccine, liệu trình điều trị vẫn chưa hoàn thiện và cũng còn nhiều tranh cãi cho đến bây giờ.

Ngày nay, các khuyến cáo và lệnh bắt buộc đeo khẩu trang khi ra ngoài được ban bố ở khắp mọi nơi. Quận Los Angeles, New York và St. Louis lại thực hiện lệnh đeo khẩu trang trong nhà một lần nữa.

Chúng ta phải đeo khẩu trang khi ra ngoài, ngay cả khi đi một mình. Tôi đã thấy tài xế một mình trong ô tô vẫn đeo khẩu trang.

Hiệu quả của khẩu trang N95

Việc này có thể dẫn đến những phán đoán sai lầm. Giá trị của chiếc khẩu trang trong việc hạn chế COVID-19 là gì? Tôi sẽ phân tích dưới đây.

Khẩu trang N95 chỉ có hiệu quả khi nó vừa khít như phần trên tôi đã mô tả. Không phải tất cả N95 đều đạt chuẩn và một số có thể có khe hở. Tên gọi đúng của chúng là mặt nạ phòng độc, không phải khẩu trang. Khẩu trang có mục đích chính là chặn giọt bắn từ người đeo đến người khác. Mặt nạ phòng độc thì có khả năng bảo vệ hai chiều và giúp người đeo tránh giọt dịch siêu nhỏ từ đối phương.

Thậm chí N100, như tên gọi của nó, có thể chặn COVID, nhưng chúng ta không thể đeo nó toàn thời gian. Mặt nạ phòng độc N95 không thoải mái và bất tiện khi đeo trong thời gian lâu. Tôi và một số đồng nghiệp phải tạm dừng phẫu thuật để lau mặt và điều chỉnh lại khẩu trang của mình.

Khẩu trang y tế có ngăn chặn được virus không? 

Khẩu trang y tế có ba lớp sợi tổng hợp và sợi siêu mịn, có tác dụng ngăn chặn các hạt lớn, nhưng lại kém hiệu quả trong việc ngăn chặn các hạt nhỏ trong lây nhiễm virus COVID-19. Virus COVID-19 cực kỳ nhỏ, 60-140 nanomet, bằng 1/1000 micromet.

Bài báo xuất bản trên Tạp chí Hiệp hội bảo vệ đường hô hấp quốc tế vào năm 2009 với tiêu đề “Hiệu suất lọc của khẩu trang y tế đã được FDA chứng nhận” nói rằng “Không phải tất cả khẩu trang y tế được FDA thông qua đều bảo vệ người đeo chống lại sự lây nhiễm của virus”.

Đeo khẩu trang y tế để làm gì?

Các bác sĩ phẫu thuật đeo khẩu trang y tế vì hai lý do.

  • Thứ nhất, chúng tôi tránh máu hoặc dịch từ cơ thể bệnh nhân bắn vào miệng
  • Thứ hai, chúng tôi tránh nước bọt của mình tiếp xúc với vết thương.

Mục đích của khẩu trang y tế không phải để phòng virus. Một số báo cáo cho rằng đeo khẩu trang y tế để giảm sự lây lan virus từ người đeo, nhưng cái nó chặn chính là những giọt bắn. Một số khác lại cho rằng nó chặn các giọt dịch siêu nhỏ.

Những nghiên cứu đó giả định rằng tất cả khẩu trang đều khít, vì đây là các nghiên cứu kiểm soát môi trường. Các giọt dịch siêu nhỏ là những hạt virus cực kỳ nhỏ mà người bệnh phát ra khi hít thở. Giọt bắn thì lớn hơn một chút, khi bạn hắt hơi, nói chuyện hoặc ho. (Một lưu ý nhỏ: Mặt nạ có dây buộc sẽ hiệu quả hơn mặt nạ có quai đeo vì chúng chặt hơn.)

Giọt bắn thường nhỏ hơn năm micrômet (1/5.000 của một inch). Còn phần lớn phân tử COVID-19 nhỏ hơn giọt dịch siêu nhỏ với tỷ lệ 1/1.000 micromet.

Vào năm 2020, một báo cáo của tiến sĩ Kevin Fennely trên Tạp chí Dao phẫu thuật nói rằng hầu hết các mầm bệnh virus ở dạng hạt nhỏ. Điều này mâu thuẫn với quan điểm giọt bắn là nguyên nhân gây lây truyền virus. Có những nghiên cứu khác chỉ ra các hạt nhỏ (kích thước dưới 5 micron) chứa lượng virus nhiều gấp 9 lần so với các hạt lớn hơn (giọt bắn). Những hạt nhỏ này nguy hiểm hơn vì chúng có thể xâm nhập sâu vào phổi. Khi giọt bắn rơi xuống đất, nó sẽ chuyển sang dạng giọt dịch siêu nhỏ và đó lại là vấn đề.

Lý thuyết giãn cách sáu feet 

Những người tin thuyết giọt bắn là nguồn chính lây nhiễm COVID-19 sẽ ủng hộ giãn cách xã hội, nhưng không chỉ là sáu feet. Chính xác hơn là từ 18 đến 27 feet. Không ai biết “quy tắc” giãn cách 6 feet này đến từ đâu. Nó có thể dựa theo đợt bùng phát dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918. Tổ chức y tế thế giới (WHO) khuyến nghị giãn cách xã hội là một mét (39 inch). Điều này dựa trên công trình của một nhà nghiên cứu năm 1930 về sự lây lan của bệnh lao. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh gần đây đã thay đổi các yêu cầu về giãn cách trong trường học từ 6 feet xuống 3 feet (dưới 1 mét một chút).

Vì vậy, hiện nay, chúng ta đã thúc đẩy toàn thế giới ban hành các chính sách có hiệu quả hạn chế, hay tiêu tốn rất nhiều tiền để thực hiện các chính sách không mang lại kết quả tương xứng.

Những sự thật về COVID-19

COVID-19 là điều kinh khủng, đặc biệt đối với người già và có bệnh lý nền. Nhưng tin tốt là đối với hầu hết mọi người, nó chỉ như mắc bệnh cúm. Người dưới 40 tuổi tử vong do COVID-19 có tỉ lệ thấp 0,01% và thậm chí thấp hơn nếu được chích ngừa.

Hậu quả của các biện pháp hà khắc đối phó đại dịch này thật bi thảm. Một báo cáo gần đây trên trang The Well Being Trust cho biết có hơn 75,000 trường hợp tử vong vì “tuyệt vọng” (tự tử, ma túy) do COVID-19. 75,000 người đó là những người trẻ tuổi, hay những người không có nguy cơ mắc COVID-19.

Hiện nay xã hội đầy rẫy những thông tin sai lệch và các khuyến cáo khó hiểu từ chính phủ. Tôi tin tưởng vaccine, nhưng một số chính trị gia, chẳng hạn như tổng thống Joe Biden và phó tổng thống Kamala Harris, đã công khai tuyên bố rằng họ sẽ không tin tưởng bất kỳ loại vaccine nào ra mắt dưới thời cựu tổng thống Donald Trump. Ban đầu họ khuyến cáo không đeo khẩu trang, bây giờ thì hãy đeo. Đeo hai khẩu trang, vì nó tốt hơn một cái. Vaccine sẽ giúp bạn phòng bệnh cho đến khi nó không còn tác dụng.

Các liệu trình điều trị COVID-19 đang còn tranh cãi, và chúng ta thậm chí không thể đề xuất phương pháp mới. Xã hội hiện nay không phải là một môi trường thông tin đáng tin cậy.

Giao tiếp trong y khoa rất quan trọng để thành công. Đó là cách chúng tôi trò chuyện với bệnh nhân ung thư hay trước phẫu thuật về phương pháp điều trị để đạt được thành công.

Và kế hoạch đó phải dựa trên sự cân bằng giữa chi phí, kết quả và quyền tự do lựa chọn. Chúng tôi không ép buộc bệnh nhân ung thư phải điều trị khiến họ đau đớn như điều tương tự đối với vaccine.

Mặc dù tôi tin tưởng vaccine, nhưng tôi hiểu quyền từ chối chích ngừa và tôn trọng quyết định của người khỏe mạnh đủ 18 tuổi từ chối chích vaccine. Đối với 36 triệu người đã nhiễm COVID, họ không cần phải chích ngừa vì họ đã có miễn dịch tự nhiên. Nghiên cứu chỉ ra khả năng miễn dịch lâu bền của vaccine nhưng chúng tôi không biết là bao lâu. Thật đơn giản để kiểm tra xem bạn có kháng thể chống lại COVID-19 hay không.

Năm 2007, chúng tôi đã khuyến cáo các quốc gia nên dự trữ khẩu trang N95. Không ai lắng nghe điều này. Hiện chúng ta không có khả năng sản xuất khẩu trang đó. Tất cả đều sản xuất tại Trung cộng. Vì vậy, bây giờ, chúng ta chỉ có thể đeo khẩu trang vải và tin rằng nó có thể phòng dịch cho cộng đồng.

Cá nhân tôi không phản đối việc đeo khẩu trang khi cần thiết. Nhưng chúng ta phải sử dụng loại phù hợp, N95 hoặc hơn. Tuy nhiên, những loại khẩu trang này rõ ràng gây khó chịu và làm chúng ta thêm căng thẳng, khó thở, hay cản trở quá trình trao đổi khí. Tôi thường phải dừng phẫu thuật để điều chỉnh khẩu trang và “lấy lại hơi thở” của mình. Tôi đã đeo khẩu trang suốt cuộc đời làm việc, vì vậy, điều đó dễ dàng hơn đối với tôi. Nhưng không phải mọi người đều như vậy.

Vấn đề là khi nào cần thiết đeo khẩu trang?

Việc bắt buộc những người đã chích ngừa, hoặc đã khỏi COVID-19 phải đeo khẩu trang chẳng có ý nghĩa gì, ngoài việc khiến họ cảm thấy an tâm hơn. Ít nhất, bắt buộc một đứa trẻ 2 tuổi phải đeo khẩu trang là việc làm ngu xuẩn.

Lệnh đó không đem lại hiệu quả. Mục tiêu không có người tử vong do COVID-19 là không thực tế và sẽ không bao giờ xảy ra. Đây là một căn bệnh đặc thù. Nếu như đeo khẩu trang có thể “cứu” mạng, thì chúng ta cũng có thể áp dụng luật cấm tương tự đối với rượu, vì ước tính khoảng 95.000 ca tử vong mỗi năm do các sự cố liên quan đến rượu. Những tài xế say rượu đang giết người hoặc hành khách vô tội. Vì vậy, các giải pháp cần phải thực tế và không lố bịch.

Chúng ta nên sản xuất khẩu trang như mặt nạ phòng độc N95 và phân phối khi cần thiết trong các thảm họa trong tương lai. Chắc chắn sẽ có nhiều đại dịch sắp xảy ra. Quan điểm của tôi là chỉ sử dụng khẩu trang khi nó thật sự có ích.

Khẩu trang vải hay khẩu trang y tế giống như buộc một sợi dây quanh eo khi lái xe và khẳng định đó là dây an toàn.

Cũng không quá đáng khi nói bà Nancy Pelosi đeo khăn che mặt Gucci giống như yêu cầu kỹ thuật viên chụp X-quang đeo tạp dề làm bếp khi chụp X-quang.

 

Peter Weiss  _  Thu Ngân

***

Đeo khẩu trang có thực sự giảm lây Covid-19?

Khẩu trang là một biểu tượng của thời đại dịch - một phép ẩn dụ trực quan đại diện cho kẻ thù siêu nhỏ, vô hình có thể đang ẩn nấp ở bất kỳ ngóc ngách nào.

Một số người dùng cách lấy khăn quàng cổ quấn quanh mặt, trong khi những người khác tự biến tấu với một chiếc áo phông kéo lên che miệng.

 

Khẩu trang là một biểu tượng của thời đại dịch - một phép ẩn dụ trực quan đại diện cho kẻ thù siêu nhỏ, vô hình có thể đang ẩn nấp ở bất kỳ ngóc ngách nào.
Một số người dùng cách lấy khăn quàng cổ quấn quanh mặt, trong khi những người khác tự biến tấu với một chiếc áo phông kéo lên che miệng.
Những khẩu trang sáng tạo hơn có chỗ mắc nhiều thứ sặc sỡ tự làm xung quanh lỗ tai, trong khi một số ít may mắn đeo khẩu trang phẫu thuật đặc trưng hoặc, hiếm hơn nữa, khẩu trang N95.
 
Tranh cãi về khẩu trang
 
BM
  
Trong khi một vài tháng trước, bất cứ ai đeo khẩu trang nơi công cộng có thể sẽ thu hút những cái nhìn chằm chặp ở nhiều quốc gia không quen với việc này, thì giờ đây khẩu trang là lời nhắc nhở về thời kỳ kỳ lạ mà chúng ta đang sống.
 
Và khi các chính phủ trên thế giới bắt đầu nới lỏng phong tỏa để cho phép người dân hòa nhập trở lại vào xã hội, ngày càng có nhiều người đeo khẩu trang khi ra ngoài.
Nhưng vẫn còn tranh cãi liệu có nên khuyến khích công chúng đeo khẩu trang hay không.
Trong những ngày đầu đại dịch, nhiều chính phủ cảnh báo công chúng không nên đeo khẩu trang vì sợ nhu cầu tăng vọt sẽ khiến nhân viên y tế tuyến đầu thiếu hụt trang thiết bị thiết yếu và điều đó có thể ru ngủ người dân vào cảm giác an toàn giả tạo.
Một số nước - chẳng hạn Mỹ - đã quay ngoắt lại lập trường. Tiểu bang Utah cho biết họ sẽ cung cấp một khẩu trang miễn phí cho bất kỳ người dân nào yêu cầu.
 
BM
  Và các nước khác như Cộng hòa Séc, Slovakia, Áo, Ma rốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Đức đều bắt buộc đeo khẩu trang nơi công cộng.
Có khả năng những nước khác sẽ làm theo những nước này khi họ nới lỏng các hạn chế.
Nhưng liệu khẩu trang có thực sự tạo ra khác biệt trong trận chiến với Covid-19?
"Một điểm mấu chốt là các quốc gia kéo thẳng đường đồ thị lây nhiễm đều buộc đeo khẩu trang ở nơi công cộng," Chris Kenyon, trưởng khoa bệnh lây truyền qua đường tình dục tại Viện Y học Nhiệt đới ở Antwerp, vốn đã nghiên cứu liệu khẩu trang có vai trò gì không trong hạn chế sự lây lan của Covid-19 ở một số quốc gia, nói.
"Hầu hết đây là các nước châu Á. Vì một số lý do nào đó, cho đến gần đây các chuyên gia châu Âu - trừ Cộng hòa Séc - không thể học hỏi được gì từ những điều có tác dụng chống dịch ở châu Á."
 
Tồn tại trong không khí
 
BM
  Để hiểu tại sao khẩu trang có hiệu quả, điều quan trọng là phải xem xét cách thức virus gây bệnh Covid-19 lây lan ngay từ gốc.
Một khi virus xâm nhập vào ai đó, virus Sars-CoV-2 gây ra bệnh Covid-19 chiếm quyền điều khiển các tế bào để nhân lên.
Khi chúng nhân lên, những virus mới này sau đó bung ra khỏi tế bào và nằm lơ lửng trong chất dịch cơ thể ở trong phổi, miệng và mũi.
Khi một người nhiễm bệnh ho ra, họ có thể bắn ra cơn mưa những giọt rớt nhỏ li ti - vốn được gọi là khí dung - chứa đầy virus vào không khí. Chỉ một cái ho có thể tạo ra tới 3.000 giọt bắn.
BM  
Có những lo ngại virus cũng có thể lây lan chỉ bằng cách nói chuyện. Một nghiên cứu gần đây cho thấy chúng ta xả vào không trung hàng ngàn giọt bắn mà mắt thường không nhìn thấy được chỉ bằng cách thốt ra những câu: 'stay healthy' (giữ gìn sức khỏe).
 
Một khi bay ra khỏi miệng chúng ta, nhiều giọt bắn lớn sẽ nhanh chóng rơi xuống các bề mặt gần đó trong khi những giọt nhỏ hơn vẫn lơ lửng trong không khí hàng giờ và sẽ có người hít vào.
Mặc dù những giọt bắn có chứa đầy virus này hoạt động như thế nào trong phòng có điều hòa cũng như ngoài trời vẫn chưa được hiểu kỹ càng, nhưng chúng được cho là sẽ rớt xuống các bề mặt nhanh hơn trong môi trường không khí bị xáo động.
Cũng có một số báo cáo cho rằng virus corona có thể lây lan qua hệ thống thông gió trong các tòa nhà.
BM
Theo một nghiên cứu của nhà virus học Neeltje van Doremalen và các đồng nghiệp của bà tại Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia Hoa Kỳ ở Hamilton, bang Montana, virus Sars-CoV-2 được tìm thấy sống sót trong những giọt bắn khí dung này trong ít nhất ba tiếng đồng hồ.
Nhưng một nghiên cứu mới đây hơn và vẫn chưa được công bố đã phát hiện ra rằng virus Sars-CoV-2 vẫn có khả năng lây nhiễm trong hơn 16 tiếng khi lơ lửng trong các giọt bắn khí dung.
Nghiên cứu này phát hiện ra virus này 'có sự dẻo dai đáng kinh ngạc ở dạng khí dung' so với các loại virus corona tương tự khác mà họ đã nghiên cứu.
Các nhà nghiên cứu cùng nhau cho rằng trong điều kiện thích hợp, virus có thể lảng vảng trong không khí trong nhiều giờ và vẫn lây nhiễm cho con người nếu hít vào. Và trong môi trường trong nhà, chúng dường như đặc biệt dễ lây lan qua không khí.
Một phân tích chưa được công bố về 318 ổ dịch Covid-19 ở Trung cộng cho thấy nó lây lan thường xuyên nhất trong môi trường trong nhà, đặc biệt là trong nhà của người dân, và trên các phương tiện giao thông công cộng, trong nhà hàng, rạp chiếu bóng và cửa hàng.
 
Họ chỉ tìm thấy một trường hợp virus dường như đã lây lan khi mọi người ở ngoài đường.
BM
  Chất liệu di truyền của Sars-CoV-2 cũng đã được phát hiện trong không khí trong nhà vệ sinh và các căn phòng mà người nhiễm Covid-19 sử dụng qua.
Một nghiên cứu về một chùm các ca nhiễm ở một nhà hàng ở Quảng Châu, Trung cộng, cho thấy trong những không gian được thông khí kém, virus có thể lây sang những người ngồi gần nhau thông qua các giọt bắn khí dung.
 
Ca nhiễm không triệu chứng
 
BM
  "Khẩu trang có thể giảm lây lan trong cộng đồng, nhất là trong hệ thống giao thông công cộng và các khu vực đông đúc," ông Ben Cowling, trưởng bộ phận dịch tễ học và thống kê sinh học tại Đại học Hong Kong, nói.
Ông và các đồng sự mới đây đã công bố một nghiên cứu về tính hiệu quả của khẩu trang trong việc ngăn chặn sự lây lan của virus từ người nhiễm bệnh.
Họ phát hiện rằng khẩu trang phẫu thuật tiêu chuẩn là đủ để giảm đáng kể lượng virus thoát ra trong hơi thở và cơn ho của những người bị nhiễm các loại virus đường hô hấp khác nhau, bao gồm một loại virus corona thể nhẹ, cúm và loại vi trùng gây cảm lạnh thông thường.
"Một trong những đề xuất để dỡ phong tỏa là áp dụng xét nghiệm quy mô lớn cùng với truy dấu tiếp xúc và cách ly, để vượt qua sự lây nhiễm trùng trong cộng đồng," Cowling nói.
BM
  "Nếu bạn được xác định là nhiễm virus, cơ quan y tế có thể truy ra những người thân, các mối liên hệ xã hội và quan hệ nghề nghiệp của bạn, nhưng rất khó để truy ra bạn đã ngồi cạnh ai trên xe buýt hay tàu điện."
"Nếu chúng ta có thể hạn chế lây nhiễm ở những chỗ này, thì thật sự sẽ rất có ích."
Một trong những lý do việc đeo khẩu trang rộng rãi nơi công cộng rất quan trọng trong chống dịch Covid-19 là sự hiện diện rộng rãi của những người nhiễm bệnh không có triệu chứng vốn vẫn có thể truyền virus cho người khác.
BM
  Người ta ước tính rằng có khoảng từ 6% cho đến gần 18% những người nhiễm virus có thể mang virus mà không có triệu chứng.
Thêm vào đó là thời gian ủ bệnh khoảng năm ngày, nhưng trong một số trường hợp có thể lên đến 14 ngày, trước khi xuất hiện các triệu chứng. Ngay cả những người có dấu hiệu lây nhiễm có thể đã lây bệnh cho nhiều người trước khi họ bắt đầu ngã bệnh.
"Điều này làm cho việc chặn đứng lây nhiễm trong cộng đồng đặc biệt khó khăn," Cowling nói.
"Nhưng nếu tất cả mọi người đều đeo khẩu trang, tức là những người đã bị nhiễm và không có triệu chứng cũng đeo khẩu trang, điều đó có thể giúp giảm lượng virus xâm nhập vào môi trường và có khả năng lây nhiễm."
BM  
Ngay cả đeo khẩu trang tự chế cũng có thể làm giảm số lượng giọt bắn mà mỗi người chúng ta xả ra khi nói chuyện, theo một nghiên cứu của các nhà khoa học tại Viện Y tế Quốc gia Mỹ ở Bethesda, bang Maryland.
Có ngăn virus xâm nhập không?
 
Vậy thì, nếu như khẩu trang có thể giúp ngăn người có virus lây cho người khác, thì liệu nó cũng có thể giúp cho người không bị nhiễm không hít vào virus hay không?
BM
  Chắc chắn khả năng lọc các hạt trong không khí của khẩu trang chuyên dụng, dùng một lần như khẩu trang N95 và khẩu trang phòng độc FFP-2 tương đương ở châu u là rất cao.
Chúng được thiết kế để lọc thụ động các hạt trong không khí tương ứng là 95% và 94% - tới các hạt có kích thước nhỏ đến 0,3 micro mét - khi người đeo hít thở.
Tuy nhiên, hiệu suất của các loại khẩu trang này trong việc ngăn chặn virus xâm nhập vào cơ thể lại không rõ ràng.
Một số virus có thể nhỏ tới 0,01 micromet, trong khi các nhà nghiên cứu đã cho biết virus corona gây bệnh Covid-19 có kích thước 0,07-0,09 micromet.
BM
  Tuy nhiên, các virus hô hấp có xu hướng lơ lửng trong các giọt bắn khí dung, có thể có kích thước từ 0,1 cho đến 900 micromet, do đó, chặn những virus này thường quan trọng hơn.
Một số nghiên cứu trước đây đã cho rằng các vi trùng nhỏ hơn chúng ta nghĩ có thể lọt qua bộ lọc của khẩu trang N95, nhưng chúng đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc ngăn chặn virus cúm.
Có một số nghiên cứu cho thấy những khẩu trang này có tác dụng trong việc bảo vệ mọi người trước Covid-19.
Một phân tích trên các nhân viên y tế ở Trung cộng cho thấy những người đeo khẩu trang N95 không bị nhiễm virus, mặc dù họ chăm sóc cho những bệnh nhân cực kỳ dễ lây. Đây là một trong những lý do tại sao những chiếc khẩu trang này được coi là tối quan trọng đối với các nhân viên y tế tuyến đầu.
 
Điều quan ngại là, nếu công chúng mua tất cả nguồn khẩu trang vốn đã bị thiếu hụt này, nó sẽ khiến những nhân viên y tế thiết yếu, những người có khả năng nhất bị phơi nhiễm, không được bảo vệ và dễ bị tổn thương.
 
Tổ chức Y tế Thế giới đã kêu gọi công chúng không nên đeo khẩu trang để đảm bảo nguồn cung cho nhân viên y tế, và đây cũng là nguyên do tại sao nhiều chính phủ trên thế giới miễn cưỡng không muốn khuyến khích công chúng đeo khẩu trang.
 
Đeo cho đúng
BM
  Mặc dù hiện nay có một số bằng chứng cho thấy khẩu trang phòng độc có thể được khử trùng để tái sử dụng, nhưng đó không phải là giải pháp hoàn hảo.
"Chúng ta thực sự cần phải đảm bảo có đủ nguồn cung khẩu trang cho các nhân viên y tế," Cowling nói thêm.
Chính sự thiếu hụt Thiết bị Bảo hộ Cá nhân (PPE) như khẩu trang N95 đã khiến một số nhà khoa học tìm cách xây dựng phương án thay thế từ những vật liệu có thể tìm thấy trong bệnh viện.
Một vấn đề khác của việc yêu cầu công chúng đeo khẩu trang là cần phải hướng dẫn cách đeo cho đúng.
Nếu khẩu trang không được đeo đúng cách, chỗ khép quanh miệng và mũi vẫn có thể để cho virus lách vào ở mé bên.
Râu ria cũng có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của khẩu trang vì nó làm cho khẩu trang không khép chặt lại.
Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Mỹ (CDC) đã công bố hướng dẫn hữu ích cho bất kỳ ai có râu ria muốn đeo khẩu trang.
BM
  Nhưng cũng có những lựa chọn thay thế đơn giản hơn. Một nghiên cứu gần đây, nhưng chưa được đánh giá đồng đẳng, đã phát hiện ra khẩu trang phẫu thuật 3M - loại bác sĩ phẫu thuật đeo trong phòng mổ - có thể loại bỏ gần 75% các hạt có kích thước đến 0,02 micromet.
Mặc dù kém công hiệu hơn nhiều so với khẩu trang N95, khẩu trang phẫu thuật vẫn có thể giúp giảm số lượng hạt hít vào.
Nhưng bằng cách cắt một lỗ ở gót chiếc vớ và đeo nó lên khẩu trang có thể cải thiện khả năng của khẩu trang và lọc được đến 90% các hạt.
BM 
"Khẩu trang phẫu thuật, không giống như khẩu trang phòng độc N95, được thiết kế để vừa lên mặt một cách lỏng lẻo," bà Loretta Fernandez, nhà hóa học môi trường tại Đại học Đông Bắc, Boston, Massachusetts, một trong những người tham gia vào nghiên cứu này, cho biết.
"Điều này cho phép không khí tìm đường xung quanh khẩu trang để đến vùng thở hơn là đi thẳng qua khẩu trang." Họ phát hiện ra rằng việc bổ sung thêm nylon ở mặt ngoài khẩu trang đã làm giảm việc này.
Fernandez và cộng tác viên Amy Mueller, kỹ sư tại Đại học Đông Bắc, cũng đã xem xét tính hiệu quả của các khẩu trang tự chế khác nhau.
Loại công hiệu nhất dùng nhiều lớp vải, mặc dù vẫn không công hiệu bằng khẩu trang N95 và khẩu trang phẫu thuật.
Tuy nhiên, thêm một lớp nylon ở trên để cho khẩu trang bám lên mặt làm tăng hiệu quả đến mức mà một số khẩu trang tự chế có thể ngăn được 80% các hạt.
 
Lọc bao nhiêu là đủ?
BM
  Giống như N95 dùng một lần và khẩu trang phẫu thuật, các loại khẩu trang tự chế như thế này thực sự chỉ tốt cho một lần sử dụng và sau đó chúng cần được khử trùng nếu muốn phát huy tối đa tiềm năng.
CDC khuyến cáo nên thường xuyên giặt khẩu trang tự chế. Nước nóng thôi có thể là không đủ - một nghiên cứu gần đây cho thấy Sars-CoV-2 có thể tồn tại ở nhiệt độ ít nhất là 60 độ C. May mắn là lớp màng nhầy bao quanh virus corona có thể được kéo vỡ bằng xà phòng và bột giặt.
Nhưng Mueller cảnh báo rằng tất cả các lựa chọn thay thế này không thể được xem có thể thay thế cho khẩu trang N95.
"Có một câu hỏi rất quan trọng - để giới chức y tế giải thích từ dữ liệu mà chúng ta đang thu thập - về mức độ lọc như thế nào là 'đủ an toàn'? Thật đáng tiếc nhưng đúng là trong một số trường hợp chúng ta phải chọn lựa giữa nhiều lựa chọn không hoàn hảo."
Các thử nghiệm trên khẩu trang tự chế cho thấy chúng có thể làm giảm đáng kể sự lây lan của các virus khác như cúm. Chúng cũng có thể giúp giảm sự phát tán của virus lên các bề mặt gần đó khi mọi người ho.
 
BM
  Giả sử có đủ số người đeo khẩu trang khi đi ra ngoài nơi công cộng, việc này có thể có tác động rất lớn đến việc virus corona bắt đầu lây lan trở lại nhanh như thế nào, nhất là khi kết hợp với các biện pháp khác như xa cách xã hội và rửa tay.
Một nghiên cứu chưa được công bố của các nhà khoa học tại Đại học Bang Arizona cho thấy nếu 80% người dân chỉ đeo khẩu trang có hiệu quả vừa phải, số người chết ở New York có thể giảm 17-45% trong khoảng thời gian hai tháng.
Ngay cả đeo loại khẩu trang chỉ có hiệu quả 20% cũng có thể giảm tỷ lệ tử vong 24-65% ở Washington và 2-9% ở New York, nếu có đủ người đeo.
 
Richard Gray
 
BM

 

***

Không có nghiên cứu nào cho thấy ‘đeo khẩu trang có hiệu quả’ với COVID-19

 BM

“Không có nghiên cứu nào trên thế giới cho thấy khẩu trang có hiệu quả đến vậy,” Tiến sĩ Ashish Jha, điều phối viên COVID-19 của Tòa Bạch Ốc, cho biết trong cuộc thảo luận gần đây với hãng thông tấn Philadelphia Inquirer.

 

Ông Jha đưa ra tuyên bố trên khi đang đẩy mạnh các khoản đầu tư cho việc cải thiện chất lượng không khí như một cách để giảm thiểu lây nhiễm COVID-19.

 

BM

“Do vậy, việc đeo khẩu trang bắt buộc quanh năm sẽ không đem lại hiệu quả quá nhiều như việc cải thiện chất lượng không khí trong nhà, và việc này cũng dễ thực hiện hơn,” ông Jha nói thêm. “Vậy nên, đây là lĩnh vực mà chúng tôi đang nhắm đến, cố gắng khuyến khích mọi người đầu tư và bắt đầu thực sự cải thiện hệ thống lọc thông khí trong các tòa nhà.”

 

Việc ông Jha thừa nhận tuyên bố trên là một điều bất thường, vì ông thường khuyên mọi người nên đeo khẩu trang trong đại dịch và cường điệu về hiệu quả của khẩu trang.

 

“Khẩu trang làm giảm đáng kể khả năng lây truyền qua giọt bắn và không khí. Khi tất cả mọi người trong một khu vực đều đeo khẩu trang, khả năng lây lan của virus, ngay cả khi tiếp xúc gần, là rất thấp,” ông Jha, hiệu trưởng Trường Y tế Công cộng thuộc Đại học Brown vào thời điểm đó, đã nói trước một hội đồng quốc hội vào tháng 09/2020.

 

BM

“Vì vậy, tôi nghĩ rằng nguyên lý khoa học về khẩu trang là thực sự rõ ràng. Có sự đồng thuận rộng rãi giữa các chuyên gia y tế công cộng và nhà khoa học về hiệu quả của khẩu trang,” ông Jha tuyên bố tại bục phát biểu tại Tòa Bạch Ốc vào tháng Bảy.

 

“Một giải pháp khác giúp ngăn ngừa nhiễm trùng và lây lan là khẩu trang,” ông Jha đưa ra tuyên bố cũng vào tháng Bảy trong một buổi họp báo khác tại Tòa Bạch Ốc.

 

BM

Ngay cả trong cuộc thảo luận gần đây, ông Jha cũng nói “quan điểm của tôi về điều này thực sự rõ ràng, đó là, bằng chứng cho thấy nếu bạn đeo khẩu trang chất lượng cao, điều này có thể tạo ra sự khác biệt, cả trong việc ngăn ngừa lây bệnh cho người khác; khẩu trang kém chất lượng, khẩu trang vải không vừa vặn, đặc biệt là với Omicron, có lẽ không có tác dụng nhiều.”

 

Tòa Bạch Ốc đã không trả lời về đề nghị bình luận cho tuyên bố trên.

 

BM

Ông Jha đã đưa ra một số tuyên bố không có căn cứ hoặc sai sự thật kể từ khi đảm nhận vị trí tại Tòa Bạch Ốc, bao gồm cả tuyên bố sai sự thật rằng không có loại vaccine COVID-19 nào có tác dụng phụ trầm trọng.

 

Kể từ năm 2021, nhiều chuyên gia trên khắp thế giới, bao gồm các quan chức chính phủ Hoa Kỳ, cho biết rằng vaccine có những tác dụng phụ trầm trọng, bao gồm bệnh viêm cơ tim.

BM

Trên Twitter, khi nói về các nghiên cứu khẩu trang, ông Jha đã đăng tải một bài viết với quan điểm rằng, “việc làm sạch không khí trong nhà có những tác động tổng thể rất lớn đến sức khỏe cộng đồng, nhất là giảm thiểu các bệnh về đường hô hấp.”

 

Bà Kimberly Prather, giám đốc Trung tâm Đổi mới Hóa học của Quỹ Khoa học Quốc gia, cho biết: “Khẩu trang vẫn là lớp bảo vệ bổ sung quan trọng, và trên thực tế, không có cách nào để làm sạch/lọc không khí trong nhà, dù đây là bước thiết yếu để bảo vệ tất cả mọi người.”

BM

Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng duy nhất về khẩu trang chống COVID-19 cho thấy rất ít hoặc không có lợi ích gì khi đeo khẩu trang. Dựa trên các kết quả này, ông Martin Kulldorff, một học giả cao cấp tại Viện Brownstone, gần đây đã viết trên Twitter: “Thật đáng ngạc nhiên khi một số quan chức y tế công cộng vẫn áp đặt các quy định về khẩu trang.”

BM

Chính quyền Tổng thống Joe Biden cũng đang cố gắng khôi phục các lệnh bắt buộc đeo khẩu trang trên phi cơ và tại sân bay, đồng thời giữ nguyên lệnh bắt buộc chích vaccine ở nhiều lĩnh vực. Lệnh bắt buộc đeo khẩu trang và hầu hết lệch bắt buộc chích vaccine đã bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bởi tòa án.

 

Nghiên cứu về khẩu trang

 

BM

Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) khuyến nghị nên đeo khẩu trang ở các khu vực công cộng trong nhà với mọi mức độ COVID-19 trong cộng đồng và đeo khẩu trang tại nhà khi số người bị COVID-19 ở mức cao.

 

Một nghiên cứu quan sát của CDC năm 2021 đã kết luận rằng đeo khẩu trang sẽ giúp giảm thiểu lây nhiễm trong trường học.

 

BM

 

Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra tỷ lệ bị bệnh ở một quận có quy định đeo khẩu trang và so sánh với một quận không có quy định ở tiểu bang Arizona. Kết quả cho thấy tỷ lệ này cao hơn ở quận thứ hai.

 

Các nhà nghiên cứu cho biết “việc đeo khẩu trang, cùng với chích ngừa vaccine cho tất cả học sinh, nhân viên và giảng viên thích hợp cũng như thực hiện các giải pháp phòng ngừa khác, vẫn là điều cần thiết để phòng ngừa COVID-19 ở các cơ sở từ mẫu giáo đến lớp 12.”

 

Nghiên cứu diễn ra từ ngày 15/07 đến ngày 31/08/2021.

 

BM

Một nghiên cứu quan sát khác của CDC cũng ủng hộ việc đeo khẩu trang với phát hiện rằng khẩu trang làm giảm tỷ lệ xét nghiệm dương tính.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu bên ngoài đã mở rộng nghiên cứu đầu tiên và kết luận rằng không có mối liên quan nào giữa việc bắt buộc đeo khẩu trang và giảm tỷ lệ bị COVID-19 ở trẻ em.

Tiến sĩ Tracy Høeg và Ambarish Chandra đã kiểm tra dữ liệu từ 565 quận. Họ nhận thấy các quận không bắt buộc đeo khẩu trang có thêm một số ca mắc sau hai tuần mở cửa trường học trở lại, nhưng sau chín tuần, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.

 

BM

“Không có mối liên quan giữa quy định đeo khẩu trang ở trường học và số ca mắc với cỡ mẫu mở rộng,” các tác giả viết trong bài báo được đăng trên Tập san Infection vào tháng 12. “Các nghiên cứu quan sát về giải pháp can thiệp thường có nhiều sai lệch và không cung cấp đủ bằng chứng để khuyến nghị các quy định đeo khẩu trang bắt buộc.”

 

 

Zachary Stieber  _  Thanh Ngọc

 

Ngọc Lan sưu tầm

 

BM

 

Xem thêm...
Theo dõi RSS này