Văn học nghệ thuật

Văn học nghệ thuật (1223)

Find out the latest local and worldwide news.

Children categories

Thơ

Thơ (22)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Âm nhạc

Âm nhạc (125)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Truyện

Truyện (217)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...

VÔ THẦN - NGUYỄN GIỤ HÙNG

THƯ GỬI BẠN
VÔ THẦN
NGUYỄN GIỤ HÙNG
 
       Nhân đọc bức thư của một người bạn gửi cho tôi than thở, trong đó có nhắc tới chữ “atheist”, tôi chẳng hiểu mô tê gì về cái nghĩa của chữ này nên đành phải tra tự điển để hiểu rõ những điều người bạn tôi muốn nói. Cứ theo tự điển Anh-Việt thì nghĩa của chữ "atheist" là "vô thần".
      “Thần” là từ ngữ thuộc về ý niệm nửa như trừu tượng, nửa như cụ thể, nửa như là đức tin thuần khiết, nửa như dị đoan, nửa như đơn sơ, nửa như phức tạp... đã từng tạo nên nhiều cuộc tranh cãi và gây ra biết bao hệ lụy cho con người. Kẻ tin điều này, kẻ không tin điều kia, thật rối bời như một mối bòng bong. Đôi khi sự tranh luận, cãi cọ nhau về “Thần” nằm trong những thái cực của cực đoan để tạo nên những chuyện nực cười không lối thoát, không có kết luận, đầu voi đuôi chuột, đánh nhau bể đầu, vô bổ, chỉ vì muốn lấy cái hiểu biết hữu hạn của con người mà bàn tới cái vô hạn của Trời Đất.
      Biết cái khó khăn như thế nên tôi chỉ xin mạn bàn về “vô thần” theo chiều hướng tào lao thường lệ, nghe qua rồi bỏ. Trước hết phải hiểu "vô thần” theo cái định nghĩa nào đã chứ, vì một từ ngữ luôn có thể có nhiều định nghĩa với cách hiểu khác nhau tùy theo tình huống sử dụng nó.
       Này nhé, cứ hiểu một cách đơn giản: "vô" là không có, "thần" là những ông Thần được thờ phượng (hay thờ phụng). Có người cảm thấy sợ hãi hay bực mình nếu có ai nói mình là “vô thần”. "Vô thần" có nghĩa là không có ông thần nào để thờ phượng cả, như ngay cả thần Tài cũng không có. Không có thần Tài, có nghĩa là ta không được giàu hay không muốn giàu, mà không được hay không muốn giàu thì có chi phải sợ nhỉ. Hay có cô nào đó, ngay cả thần Vệ Nữ (thần Ái Tình) cũng không có. Không có thần Ái Tình, nghĩa là cô ấy chẳng yêu ai hoặc không ai yêu cô ấy. Không yêu ai hay không ai yêu thì cũng đâu có chi mà phải sợ hay bực mình, có sợ chăng là sợ cái cảnh "chổng mông mà gào". Ngược lại, chẳng may mà cô ấy lại có thần Bạch Mi (trong Truyện Kiều) chiếu mệnh thì thật khổ một đời.
       Cũng có thể hiểu “vô thần” theo cái định nghĩa là chẳng thờ ông thần nào cả. Theo cái suy nghĩ lẩm cẩm, ngụy biện và tào lao của tôi thì "vô thần" chẳng có liên quan gì tới vấn đề tâm linh cao cả của con người cả. Thần có thể là người, động vật, thực vật hoặc một vật thể nào đó được người đời tôn vinh. Thần được tôn kính bởi đức độ hoặc quyền lực hoặc cả hai, hoặc vì một hay nhiều lý do linh thiêng nào khác nữa mà chỉ có ông thần mới biết. Và cũng có khi chính ông thần này cũng chẳng biết lý do tại sao ông lại được thờ phượng mà chỉ có những người thờ phượng ông mới biết rõ mà thôi. Có những vị thần được hỏi tại sao người ta lậy ông, ông chẳng biết, hỏi người ta xin ông điều gì, ông cũng chẳng hay, ông chỉ biết ngồi trên cao cười cười ăn oản chẳng khác chi những ông nghị gật. Đơn giản thế thôi. Cứ nghe vị hảo hán nào đó tả một cụ già:
 
      Ban ngày cụ cứ như thần,
      Ban đêm cụ cứ tần mần như ma.
 
Theo hai câu thơ ấy thì thần rất gần gũi với ta, nhưng có điều thần thì không biết "tần mần" như người và ma.
      Nói về thần thì số lượng thần trên trái đất này nhiều vô kể. Mỗi nơi có một ý niệm khác nhau về thần nên thần cần được cấu tạo sao cho phù hợp với văn hóa, tập quán, ...sinh hoạt đức tin của người dân nơi ấy. Mỗi địa phương có một phong cách thờ phượng riêng cho mỗi vị thần của họ.
      Thần là sản phẩm của con người, do đó thần chỉ có thể thể hiện được tính chất đặc thù của mình nằm trong giới hạn trí tưởng tượng của con người chứ thần không thể vượt lên cao hơn hay xa hơn được cái trí tưởng tượng ấy.
Và cũng vì thần là sản phẩm của con người nên thần cũng có sinh tồn, nay còn mai mất như con người vậy. Thần cũng lên voi xuống chó, như khi còn được thờ phượng thì là thần, không còn được thờ phượng thì lại trở thành ma. Thần cũng nổi trôi để “làm thần đất ta làm ma đất người” (ca dao). Tuổi thọ của thần cũng phụ thuộc vào sự phát triển, tiến hóa của xã hội loài người, có những vị thần “chết” đi và cũng có những vị thần mới được “sinh ra” sau này. Muốn tăng tuổi thọ, thần cần phải biết uyển chuyển theo sự thay đổi, tiến hóa ấy cho kịp thời, kịp hoàn cảnh mới. Có những vị thần chỉ được phát triển trong một khu vực nhỏ, có những vị thần được phát triển trong khu vực rộng lớn hơn và có ảnh hưởng sâu xa hơn để có khi trở thành tôn giáo như Nho giáo chẳng hạn, mà đức Khổng Tử đã trở thành giáo chủ.
       Thần được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và tên gọi cũng có thể khác nhau. Thí dụ, cứ như ở Việt Nam ta, thần ở trong làng xã thì gọi là Thành Hoàng hay Thần Hoàng, đất có Thổ Địa, sông có Hà Bá, núi có Sơn Thần, rừng có Chúa Ngàn… Thần có thể là cái cây (Linh Mộc), cục đá (Bà Đá), bình vôi, thần Lửa... hay sinh vật như chó (đền Cẩu Nhi), chim (Tiên), cá, rồng, rùa (Kim Quy), ngựa (Bạch Mã) ...và cũng có thể là những người hèn mọn như lão ăn mày hay người mõ làng... khi chết được hiển linh. Thần có thể là đàn ông, đàn bà hay trẻ con. Thần cũng có thể là những vị vua, hay những vị đại danh kiệt, hay những bậc danh thần có công lớn với dân với nước, hay đến từ huyền thoại, tổ nghiệp hay cũng có khi chỉ là những nhân vật rất ư là "tầm phào" mang tính dã sử như những vị thần được kể sau đây làm thí dụ:
      - Bố của vua Đinh Tiên Hoàng là con rái cá. Mẹ của vua Đinh Tiên Hoàng tức vợ của sứ quân Đinh Công Trứ, ra suối tắm thì bị con rái cá hiếp mà mang thai, đẻ ra Đinh Bộ Lĩnh bơi lội rất giỏi. Sau này, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất sơn hà lên ngôi Thiên tử lấy tên hiệu là Đinh Tiên Hoàng Đế, tự sánh mình ngang hàng với các vua đại Hán, đại Đường, đại Tống bên Tầu, mở nền tự chủ đầu tiên cho đất nước ta (theo Nam Hải Dị Nhân)
      - Bố của ngài Mạc Đỉnh Chi (lưỡng quốc trạng nguyên) là con khỉ lớn. Khi mẹ của ngài Mạc Đỉnh Chi vào rừng kiếm củi thì bị con khỉ lớn hiếp mà mang thai, sau sinh ra ngài (theo Nam Hải Dị Nhân).
Con rái cá, con khỉ ấy cũng được dân làng thờ để trở thành thần.
Nếu ta đi sâu thêm vào chi tiết của những vị thần trên toàn đất nước thì kể sao cho hết. Cứ chỉ kể trong cái phạm vi nhỏ hẹp của thành phố Hà Nội không thôi, cũng có thể có cả trăm vị thần rồi (Bách thần Hà Nội).
      Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây, trong ca dao, ta cũng có những câu liên hệ đến thần, nhiều lắm, nhưng chỉ xin đơn cử vài câu:
 
      Ở cho phải phải, phân phân,
      Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.
 
      Chanh chua anh để giặt quần
      Người chua anh để làm thần gốc đa.
      Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
      Ăn cơm nhớ Thần Nông cày ruộng.
 
       Trên trời có ông sao Thần
      Bốn mùa chỉ lối cho dân ăn làm
      Sang xuân thần cúi lom khom
      Là mùa trồng đậu dân làng biết chăng?
      Bước sang tháng chín rõ ràng
      Lưng thần hơi đứng là đang gặt mùa.
 
      Con ông thánh cháu ông thần
     Không tiền cũng hóa ra thân ăn mày.
 
     Chùa làng hai mõ bốn chuông
     Có ba tượng Bụt, có ông thần già.
 
     Có thiêng mới gọi là thần
     Đường ngang ngõ tắt chẳng cần hỏi ai.
 
     Ăn ở thiện, có thiện thần biết,
     Ăn ở ác, có ác thần hay.
 
     Bị rách nhưng lại có vàng
     Tuy rằng miếu đổ Thành Hoàng còn thiêng.
 
    Bên cạnh ca dao còn có những tục ngữ cũng liên hệ đến thần như: Đức trọng quỷ thần kinh, Ỷ thế ỷ thần, Buôn thần bán thánh, Cửa miệng có thần, Chước quỷ mưu thần, Xuất quỷ nhập thần, v.v… và còn nhiều lắm.
XIN BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ XEM TRỌN BÀI
 
      Nay, nếu lan rộng thêm ra xa tới cả nhân loại thì ôi thôi khỏi nói, xin miễn bàn về cái số lượng ấy. Tôi xin tạm kể cho các bạn nghe, có lần tôi đi du lịch nước Ai Cập, người Ai Cập cổ xưa, cách đây cả năm nghìn năm, họ đã thờ rất nhiều vị thần rồi. Trước khi Ai Cập trở thành vương quốc, mỗi vùng có một gia đình thần riêng, được biết có tới 42 gia đình thần gồm có 126 vị thần gồm cha, mẹ và con. Ba hệ thần chủ yếu là hệ thần Mặt Trời, hệ thần Horus và hệ thần Osiris. Ngoài ba hệ thần chính này nguời Ai Cập còn sáng tạo ra nhiều vị thần khác như Bast nữ thần mèo, Bes thần mèo, Hathor nữ thần bò, Khnoum-Re thần thân người đầu cừu đực, Mout nữ thần diều hâu, Oupoaout thần chó, Sekhmet nữ thần sư tử cái, Sobek thần cá sấu...
       Cũng vì lòng tin vào những vị thần ấy mà tới bây giờ, trên đất nước Ai Cập, chúng ta mới có cơ hội được chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc xây dựng những quần thể đền đài to lớn biết là bao, to lớn đến độ chúng ta ngày nay không thể tưởng tượng nổi làm sao người Ai Cập thời cổ đại đó có thể xây dựng nên được.
      Ảnh hưởng hỗ tương của những vị thần ấy đã lan rộng ra cả một vùng thuộc nền văn minh Tây Á như Lưỡng Hà (giữa hai con sông Tiger và Euphrate), Babylone, Ba Tư, Palestine, Assyries... và còn lan tràn chút ít sang cả đến Ấn Độ nữa. Vào vài thế kỷ trước công nguyên (hơn 300BC), những vị thần Ai Cập cũng ảnh hưởng một phần sang tới cả nền văn minh Hy Lạp, rồi kế tiếp tới văn minh La Mã trong thời kỳ họ chiếm đóng Ai Cập. Những ảnh hưởng đó được thể hiện rõ nét nhất là ở thành phố Alexandria do vua Alexander Đại đế (Alexander the Great) của Hy Lạp xây dựng trên bờ biển Điạ Trung Hải (Mediterranean) thuộc phần đất phía bắc của Ai Cập. Và sau đó người La Mã, đã góp phần phát triển thành phố này lên tầm vóc quốc tế thời xưa, là một trong bốn trung tâm giao lưu văn hóa lẫn kinh tế, chính trị, tôn giáo của đế quốc La Mã và để ngày nay Alexandria trở thành một thành phố lớn thứ nhì của Ai Cập sau Cairo. Rồi cũng từ nơi đó, qua sự bành trướng thế lực của người La Mã, những ảnh hưởng của thần Ai Cập lại có cơ hội lan tỏa tới Âu Châu. Tất nhiên là đi tới đâu thì những vị thần đều được biến cải, thay hình đổi dạng, tên tuổi cho phù hợp với văn hóa "bản địa" theo đúng tinh thần "nhập gia tùy tục" và cũng vì thế đôi khi ta không nhận diện ra được cái nét nguyên thủy của những vị thần ấy nữa. Như những vị thần được thờ phượng trên núi Olympic của Hy Lạp được đổi tên để thờ phượng dưới thời La Mã: Zeus thành Jupiter, Heka (thần hôn nhân) thành Junon, Poseidon (thần biển) thành Neptune, Aphhrodite (thần ái tình) thành Venus, Hermette (thần buôn bán) thành Mercure.
      Nếu tiếp tục nói thêm về những vị thần của những vùng đất tôi đã có dịp đi qua như nền văn minh cổ của Trung Hoa, Nhật Bản, Nam Dương, Thái Lan ở Á Châu; như nền văn minh Maya, Azetec ở Trung Mỹ; như nền văn minh Andes ở Nam Mỹ v.v... thì tất hẳn còn nhiều điều lý thú. Nói tới những phần đất này tôi sực nhớ tới những vị thần đã được thờ phượng một cách hết sức khác nhau tùy theo từng địa phương. Như khi tôi đi thăm đảo Bali của Nam Dương, người ta thờ thần bằng hoa, không có một thứ gì khác ngoài hoa. Ngược lại khi tôi đi thăm một số đền đài ở Mexico hay Trung Mỹ, Nam Mỹ thì được biết có nơi, ngày xưa, hàng năm người ta giết trẻ con hay trinh nữ xinh đẹp để cúng dâng thần, thật là dã man kinh khiếp.
      Nay quay trở lại đất nước ta, nếu ghé thăm Đà Nẵng để xem “bảo tàng viện” văn hóa của người Chiêm Thành xưa (hay Chămpa, gọi tắt là Chăm, hay Chàm), ta sẽ thấy người Chiêm Thành cũng đã thờ nhiều thần lắm như thần Brahma (thần sáng tạo), thần Visnu (thần bảo tồn), thần Siva (thần hủy diệt), thể hiện ba ngôi của thần Brahma của đạo Bà La Môn trong kinh Vệ Đà. Nhưng thần nổi bật hơn cả vẫn là thần Linga (thờ bộ phận sinh dục của đàn ông) và thần Yoni (thờ bộ phận sinh dục của đàn bà) và cả những hình tượng khi ghép chúng khớp lại với nhau. Ngay cả kiến trúc đền đài của người Chiêm Thành cũng đều mang hình dạng của thần Linga ấy.
      Không phải chỉ có dân tộc Chiêm chịu ảnh hưởng Ấn Độ mới thờ thần Linga, mà ngay cả người Việt Nam ta cũng thờ nó dưới hình thức khác được gọi là tín ngưỡng phồn thực (phồn là nhiều, thực là nẩy nở), cầu mong sự sinh sôi nẩy nở nhiều người vì nước ta thuộc xứ nông nghiệp cần nhiều lao động nên trong dân gian ta mới có câu mong sao được đông con nhiều cháu như "sinh năm đẻ bẩy". Theo cuốn "Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Dân Tộc" của tác giả Trần Ngọc Thêm, trong nhiều vùng thuộc Phú Thọ, Hà Đông, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hòa Bình trước đây, vào dịp hội làng, người ta rước tới 18 bộ sinh thực khí của đàn ông, và khi đám rước kết thúc, mọi người tranh nhau cướp những vật này về vì tin rằng nó sẽ đem lại may mắn cho cả năm. Trong dân gian ta có câu: “Ba mươi sáu cái nõ nường, Cái để đầu giường, cái để gối tay” là do những tục lệ phồn thực này chăng? Và ngư phủ ở Sở Đầm Hòn Đỏ, tỉnh Khánh Hòa, có tục thờ một kẽ nứt lớn trên một tảng đá mà dân gian gọi là “Lỗ Lường” (Lường do gọi trẹo từ tiếng chỉ bộ sinh dục của phái nữ), vị nữ thần phù hộ cho ngư dân được gọi là bà Lường, được thờ từ 200 năm nay cho tới bây giờ, ngày đêm khói nhang nghi ngút.
      Trong ca dao của dân ta, loại thần này cũng được thể hiện qua những câu như sau:
 
      -Văn chương chữ nghĩa bề bề
      Thần "Đồ" ám ảnh cũng mê mẩn đời
 
(người miền Bắc Việt Nam gọi “đồ” là bộ phận sinh dục của đàn bà)
Văn chương chữ nghĩa bề bề,
Thần L… ám ảnh cũng mê mẩn nguời
Xót lòng mẹ góa con côi
Kiếm ăn lần hồi, l... lớn bằng mo.
 
       Lại thêm nữa, có một lần tôi đi thăm Nhật Bản, gặp một lễ hội, không biết tên là lễ hội gì. Dẫn đầu đoàn rước là những cô gái Nhật trẻ đẹp nõn nà, hớn ha hớn hở vác cái "của quý" của phái nam to lớn trên đường phố hướng tới một ngôi đền thờ. Khi họ tiến vào đền thờ thì hàng trăm cô gái xinh đẹp xì xụp khấn vái cầu xin, họ cầu xin điều gì thì chỉ có Thần "của quý" ấy mới biết. Lễ hội này cũng to lắm, chẳng thua kém gì “hội làng Lim" ở tỉnh Bắc Ninh của ta đâu.
      Tin vào thần là tin vào những sản phẩm của con người dựng nên, nên có người cho rằng tin cũng được mà không tin cũng không sao. Người xưa có câu dành cho một hạng lái buôn gọi là "buôn Thần bán Thánh". Phải chăng, mua hay không mua là tùy ở mình, vắng mợ thì chợ vẫn đông?
      Thôi thì, nói đi thì cũng phải nói lại cho toại lòng nhau. Thờ phượng những vị thần trên quê hương ta là những nét đẹp văn hóa có tự nghìn xưa. Những vị thần trên quê hương ta còn thì dân tộc ta còn, tôi không nói ngoa. Này nhé, ông cha ta khi xưa cũng đã biết được giá trị và ý nghĩa sâu sắc của việc thờ phượng những vị thần. Ngay khi ta chỉ nói về những vị Thần Hoàng trong làng xã không thôi.
Vào năm 1572, vua Lê Anh Tông cũng đã phải giao cho ông Nguyễn Bính (nguyên là Hàn lâm viện Đại học sĩ) sưu tầm và soạn ra thần tích của những vị Thần Hoàng trong các làng xã để nhà vua ban sắc phong cho những vị thần ấy, và thần được chia ra làm 3 hạng: Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần. Đó là chưa kể đến những vị thần ở tầm mức có ảnh hưởng cao rộng hơn như bà Chúa Liễu Hạnh chẳng hạn.
      Chúa Liễu Hạnh là cô gái quê, quê quán ở xã Vân Cát, Nam Định, tương truyền là con Trời, ba lần từ bỏ Thiên đình xin vua cha cho xuống trần gian để sống một cuộc đời bình dị với khát vọng về tự do, hạnh phúc. Bà được nhân gian tôn kính là Thánh Mẫu, là bà Chúa Liễu, là Mẹ (Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ) (ca dao) (Cha đây là đức Trần Hưng Đạo). Đền thờ bà được thờ rải rác khắp nơi từ bắc chí nam. Ảnh hưởng của bà lớn đến nỗi vua Đồng Khánh phải tự nguyện xin làm đệ tử thứ bảy tại điện Hòn Chén (Huế).
       Những vị thần có tầm cỡ lớn như thế trên đất nước ta thì có nhiều lắm, kể ra cũng không xuể hết được. Tôi cũng xin nói thêm ở đây, trong văn hóa nước ta có đặc điểm rất độc đáo: đó là truyền thuyếtngười thực việc thực lại rất gần nhau; gần đến nỗi đôi khi người ta thấy chúng hòa lẫn vào nhau, như truyền thuyết về Chúa Liễu Hạnh đã nói ở trên lại trở nên rất hiện thực. Tương truyền, bà Chúa Liễu Hạnh là tiên nữ đã từng cùng trạng Bùng tức trạng nguyên Phùng Khắc Khoan và tú tài Ngô xướng họa văn thơ trên lầu thơ, mà nơi ấy ngày nay là Phủ Tây Hồ, đền thờ Chúa Liễu Hạnh bên bờ Hồ Tây, khói hương nghi ngút quanh năm.
      Trong dân gian ta có câu “Con cóc là cậu ông Trời”. Chỉ một câu đó không thôi ta thấy cũng đủ nói lên cái tinh thần bình đẳng giữa người với người, giữa người dân với vua quan, giữa người với trời và giữa người với thiên nhiên của dân ta. Sự bình đẳng ấy cũng thể hiện rất rõ nét giữa người và thần. Thần mà lôi thôi, người cũng sẽ phạt thần và đuổi thần đi. Như ta có câu chuyện dân gian kể rằng, khi vua Lý Thái Tổ còn là chú tiểu bé sống trong chùa, chú hay lên chính điện ăn vụng oản bằng cách moi ruột oản ra ăn, vỏ ngoài còn nguyên. Thần báo mộng mách cho sư, sư quở mắng chú. Chú tức giận viết bốn chữ “lưu tam thiên lý” sau lưng thần để đuổi thần đi. Thần lại báo mộng để từ giã sư. Sáng dậy, sư lên chính điện lấy nước rửa xóa bốn chữ ấy đi nhưng không làm sao rửa đi được cho tới khi chú tiểu nhổ nước miếng chùi đi thì mới hết. Đối với người thiểu số ở miền cao nguyên Trung Phần, sự ràng buộc được xác định rất rõ ràng, minh bạch về quyền lợi và trách nhiệm của thần đối với buôn bản.
      Ấy đấy, mọi chuyện trên đời nó cứ rối bời lên như thế đó vì cái tính tào lao của mọi sự việc xẩy ra chung quanh ta, trong đó có việc “vô thần”, “hữu thần”, “đa thần”, “độc thần”. Tôi nói chuyện tào lao với các anh nên các anh đừng bận tâm suy nghĩ hay tranh cãi với tôi, vì tôi đã xác định ngay từ đầu lá thư rằng đây chỉ là chuyện tào lao, đọc qua rồi bỏ.
      Tôi xin kết thúc bức thư này bằng câu mà người bạn Mỹ của người bạn tôi nói với anh ta: "No, I'm not an atheist, I'm a non-believer!" Ai hiểu sao thì hiểu. Mỹ khôn thật.
 
NGUYỄN GIỤ HÙNG
 
Sách tham khảo:
- Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện (Phan Kế Bính-NXB Sồng Mới)
- Tìm Về Bản Sắc Văn Hoá Dân Tộc (Trần Ngọc Thêm-NXB Tp.HCM-2001)

 

Xem thêm...

Ứa nước mắt nghe lại hành trình Việt bằng âm nhạc

Ứa nước mắt nghe lại hành trình Việt bằng âm nhạc

Nhạc sĩ Lê Văn Khoa cùng các nghệ sĩ ở cuối chương trình (Ảnh: TK)

Những tràng pháo tay kéo dài, tiếng huýt sáo cổ vũ, và cả những giọt nước mắt thầm lặng đã rơi xuống vào cuối chương trình hòa nhạc A Legacy Of Sounds tại nhà hát Performing Arts Center tại thành phố Allen, Texas đã nói hết về giá trị của buổi biểu diễn và tấm lòng của những khán giả Việt Nam về một dòng chảy không ngừng của văn hóa Việt, dù cách trở quê hương, ngôn ngữ và tư tưởng. 

Nói đến chương trình hòa nhạc đặc biệt này, mở đầu cho hành trình Tháng Tư thường niên của người Việt ra đi tìm tự do, không thể chỉ nói đến tài nghệ của những người tham gia chương trình, mà cả lòng hãnh diện của thế hệ người Việt xa xứ đã dựng lên những thế hệ tài hoa tiếp nối, phối hợp với dòng nhạc classical chính mạch ở Mỹ Quốc.

Dàn nhạc Allen Philharmonic và hai ban hợp xướng Allen Symphoby Chorus, Dallas Chamber Choir đã thể hiện tuyệt luân những âm điệu và tiết tấu Việt Nam qua từng chương trong bản Symphony Vietnam 1975 của nhạc sĩ Lê Văn Khoa, dựng hợp xướng bài Đừng Đứng Bên Mộ Tôi Mà Khóc của Patrick Vũ, tấu khúc Chiều Làng Tôi của Dylan Trần… và không thể không nhắc đến tiếng hát đẹp đến sững sờ người nghe của hai giọng ca đoạt giải Grammy là Teresa Mai (2022) và Hilá Plitmann (2019 và 2022), cùng các nghệ sĩ khác đã làm đầy một không gian nhà hát đầy khán giả Mỹ – Việt.

“Đây là là một chương trình độc nhất, chưa từng có, và quý vị là những khán giả may mắn là người được thưởng thức”, giáo sư, nhạc sĩ Lê Văn Khoa, cây đại thụ của văn hóa Việt, đại diện cho di sản Việt Nam Cộng Hòa đã nói với khán giả ở phần cuối chương trình. Cùng với sự cảm nhận sự diễm tuyệt của chương trình, còn có cả lòng tự hào của khán giả Việt Nam, khi nhìn lại một chặng đường vượt qua và dựng lên thế hệ Việt Nam bên ngoài Việt Nam, có những cây đại thụ như giáo sư Lê Văn Khoa, và có những người trẻ tiếp nối mạnh mẽ, góp sức gìn giữ và phát huy sự tự hào của dòng di dân khắc khoải và ngơ ngác từ bên kia đại dương như Đức Đạt (guitar), Phạm Hà (tenor), Sumo Bùi (cello), Hải Yến (cổ nhạc), Lily Nguyễn (cổ nhạc), Chí Tâm (cổ nhạc), Ngọc Hà (soprano), Duy Trần (piano, composer), John Lê Culpepper (soạn nhạc và chỉ huy hợp xướng) Ianbui (dịch giả, và điều phối chương trình)…

Hai tiếng đồng hồ trôi qua, nhưng khán giả vẫn háo hức chờ đợi các tiết mục tiếp theo, vì mọi thứ đều là những bất ngờ và cảm nhận độc đáo. Chương trình khéo léo dắt mọi người đi từ những ngày đầu của âm nhạc Việt Nam với tác phẩm Dạ Cổ Hoài Lang của nhạc sư Cao Văn Lầu. Trải qua những tác phẩm con người (Chiều Làng Tôi, Mừng Xuân), dẫn đến những đề tài thời sự Đừng Đứng Bên Mộ Tôi Mà Khóc, Hòn Vọng Phu…) và cuối cùng cái kết là sự dâng trào mãnh liệt trong tâm thức người Việt nghĩ, nhớ về cội nguồn, là ca khúc Việt Nam, Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy, với sự trình bày bởi dàn nhạc  Allen Philharmonic và dàn hợp xướng Allen Symphony Chorus- được hát nguyên bản với tiếng Việt (cùng tiếng Anh) bởi các nghệ sĩ Mỹ cùng những tiếng vỗ tay, hát theo của các khán giả. 

Dịch giả, điều hợp chương trình, Ian Bùi (Hình: Tuấn Khanh)

Ông Ianbui, dịch giả của các ca khúc cũng như là người giúp phiên âm và luyện tập cho các nghệ sĩ trong dàn hợp xướng người Mỹ, kể rằng quá trình để hát được toàn vẹn tiếng Việt là một câu chuyện vô cùng khó với những người không quen âm vị tiếng Việt. “Khởi đầu tôi phải phiên âm quốc tế toàn bộ các chữ tiếng Việt để phía các người Mỹ hiểu là phát âm như thế nào, rồi tự mình ghi âm, hát lại bài hát một cách chậm chạp bằng âm tiếng Việt, để họ nghe, tập hát theo, rồi sau đó đến buổi tập của họ điều chỉnh từng đoạn để có thể gần với ngôn ngữ Việt nhất, ” ông Ian Bùi nói.

Thời gian để luyện tập thực chất của dàn nhạc với dàn hợp xướng không nhiều trong một tháng, nhưng những nghệ sĩ này đã hoàn thành công việc của mình xuất sắc đến mức những khán giả phải ngạc nhiên.

Ngược lại, hiền thê của của giáo sư nhạc sĩ Lê Văn Khoa, là ca sĩ Ngọc Hà, cũng trình bày một vài phân khúc trong bài Hòn Vọng Phu của Lê Thương bằng tiếng Anh (cũng được chuyển ngữ bởi Ianbui) để khán giả người Mỹ có thể hiểu được câu chuyện của một giai đoạn lịch sử Việt Nam những năm chinh chiến và hỗn loạn.

Teresa Mai và Guitarist Nguyễn Đức Đạt (Hình: Tuấn Khanh) 

Điểm nổi bật của chương trình, có lẽ đó là phần song ca của hai giọng ca đoạt giải Grammy là Teresa Mai (nghệ danh quốc tế là Sangeetar Kaur) và Hilá Plitmann với bài Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn qua hòa âm và đệm piano của Duy Trần. Thật sự cách trình diễn đẳng cấp thế giới cùng nền hòa âm phương Tây đã đem lại một cảm giác kinh ngạc cho người nghe. Cả cách mà hai nghệ sĩ này nương nhau một cách điệu nghệ qua phần bè và hát đuổi, như dắt khán giả vào một con suối âm nhạc trong vắt. 

Hilá Plitmann (Grammy 2019) trong tác phẩm Diễm xưa (Hình: Tuấn Khanh) 

Ở ngoài đời, Teresa Mai và Hilá Plitmann là hai người bạn thân thiết, sống gần nhau và cùng chia sẻ đam mê âm nhạc. Và đó có thể là lý do khi trình bày ca khúc Việt Nam quen thuộc này, Teresa Mai đã nhường cho Hilá Plitmann hát chính và hỗ trợ cho bạn mình hát hoàn toàn bằng tiếng Việt. Diễm xưa trong đêm 6 Tháng Tư 2024 ở Dallas, có lẽ là phiên bản đẹp và hút hồn chưa từng có trong nhạc Việt.

Teresa Mai (Grammy 2022). (Hình: Tuấn Khanh)

Hoàn hảo thưởng thức và tự hào trong tâm thức của người Việt làm trọn vẹn đêm diễn. Khán giả phải ứa lệ khi nhìn thấy những thế hệ người Việt đã lớn lên, tài năng được nhìn nhận và thành công ở khắp mọi nơi trên nước Mỹ cũng như thế giới. Từ giáo sư, nhạc sĩ Lê Văn Khoa, người đã đem âm nhạc Việt Nam đến thế giới và trở thành nhân vật biểu tượng, đã có thêm những gương mặt nối tiếp, chẳng hạn như Patrick Vũ, 1998 (Giải Raymond Bock Prize 2023 của American Choral Directors Association), Dylan Trần, 1994 (đoạt nhiều giải thưởng và là nhà soạn nhạc, biểu diễn khắp thế giới), John Lê Culpepper, 1978 (Giải thưởng mới nhất 2021 American Prize, là Dale Warland trong hạng mục chỉ huy hợp xướng), Nguyễn Đức Đạt, 1970 (đoạt nhiều giải thưởng và được mời tham gia nhiều chương trình lớn, và mời biểu diễn chung với Stevie Wonder tại Universal Studio), Duy Trần (đoạt nhiều giải thưởng, và là nhà soạn nhạc cho nhiều dự án lớn của Sony, Samsung, Tetra Pak)… và còn nhiều người khác nữa, đã dựng nên bức tranh sống động của Tháng Tư, không thể nào kể hết.

Trong chuyến xe rong ruổi cùng nhạc sĩ Lê Văn Khoa, khi người điều hợp chương trình, ông Ianbui, hỏi rằng ông muốn chương trình lần sau sẽ như thế nào, ở đâu. Con người thiên tài này đã nói dứt khoát rằng “không cần như thế nào, diễn ở đâu cũng được, diễn như thế nào cũng được, miễn sao là người Việt được nghe thấy mình trong nền văn minh thế giới, và để cho thế giới được biết về một di sản cao đẹp của người Việt tự do.” 

Tuấn Khanh

Kim Phượng sưu tầm

Xem thêm...

Giúp Thế Hệ Sau Đọc Sách Báo Tiếng Việt Trần Đức Hân

Giúp Thế Hệ Sau Đọc Sách Báo Tiếng Việt 

Trần Đức Hân

Với bút hiệu Prudence Han Tranduc, tác giả đã có sách Anh ngữ "The Clan Divided," do một nhà xuất bản Mỹ tại New York ấn hành. Ông cũng là tác giả sách "Tiếng Việt Đáng Yêu." Trần Đức Hân sinh năm 1942 tại miền Bắc, di cư vào Nam. Từ những năm 60 học Văn Khoa, dạy học, khóa 20 Thủ Đức, khóa 15 Kỵ Binh Thiết Giáp, bị thương, giải ngũ năm 1968, tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa, tiếp tục dạy học. Năm 1980, vượt biển, định cư tại Cộng Hòa Liên Bang Đức. Từ 2000, di dân sang Mỹ, học lại Anh văn từ ESL tới các lớp viết văn và hoàn tất được ba cuốn sách. Tác giả hiện là cư dân thành phố Westminster. Ông tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2016 và sau nhiều năm vắng bóng, nay ông trở lại với bài viết đầy tâm huyết về việc gìn giữ và lưu truyền tiếng Việt cho thế hệ trẻ.
 
*
Sách và Báo Chữ-Việt xuất bản ở nước ngoài rất nhiều. Riêng ở Mỹ, có vài trăm tác giả viết sách. Báo ngày có Việt Báo, Viễn Đông, và Người Việt. Báo tuần, báo tháng có trên chục tờ. Thêm vào còn có các Tạp San của Tôn giáo và hội đoàn. Rất nhiều nữa nhưng xin độc giả thông cảm cho sự ngắn gọn này.
 
TĐH đã vào Internet nêu câu hỏi: “Nguồn gốc Anh-ngữ ngoài những từ vựng của riêng mình, còn lấy thêm nguồn gốc từ các ngôn ngữ nào khác?” Câu trả lời là một ‘list” khá dài. Tác giả xin trích một số ngôn ngữ: Latin, French, German, Yiddish(?), Portugese, Italian, Spanish, Arabic, Russian, Swedish, Native American languages, Chinese, Korean, Japanese, ... VietnameseTừ mỗi ngôn ngữ, họ cho vài thí dụ.  Ngôn ngữ viết Alphabet- scripts thường giữ nguyên hoặc đổi khác chút ít; ngôn ngữ viết kiểu khác thì ghi âm lại bằng Alphabet-script của English. (Ví dụ tea của Chinese, tycoon của Japanese).              
 
Do các dữ kiện vị trí và lịch sử của nước Nam (Vietnam) chắc quý độc giả đồng ý với thực tế “Chữ Việt và Tiếng Việt Còn thì Nước Việt Còn.”
 
Dữ Kiện Vị Trí: Nước Việt Nam nằm ở vị trí huyết mạch tuyến đường thương mại cũng như chiến lược vùng Đông Nam Á.
 
Vài thí dụ về tuyến đường thương mại: Việt sử cho ta biết, khởi đầu từ năm 1533, các tàu buôn Portuguese, do Antonio Da Faria chỉ huy, có những lần đến Đà Nẵng (Tourane) hay Hội An (Faifo) ở trong Nam. Từ 1540 đến 1800, các thương thuyền của Portuguese, Spanish, Britain, France, và Nertherlands trên đường đi Macao nước China và Nazaki nước Japan, thường ghé vào Đà Nẵng trong Nam hay Phố Hiến (Hải Phòng) ngoài Bắc.
 
Vài thí dụ về tuyến đường chiến lược: Điển hình là vị trí chiến lược Cam Ranh Đà Nẵng. (a) Trong chiến tranh Russo-Japanese ở thập niên 1900s, trong một trận hải chiến, khi hạm đội Nga yếu thế, họ vào bố trí ở Cam Ranh Đà Nẵng nên hạm đội Nhật không thắng được trận đó. (b) Khi Pháp chiếm VN, họ cũng khởi đầu 1858 từ eo biển này. (c) Trong Thế Chiến II, sau khi quân phiệt Nhật đã chiếm Korea và nhiều tỉnh miền Đông China năm 1937; vài năm sau, họ tràn vào Việt Nam làm vị thế bàn đạp đánh chiếm các nước phía Nam như Philippines, Singapore, Burma (Myanmar), vân vân. (4) Sau này, trong chiến tranh Việt Nam, đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đến Nam-Việt Nam năm 1965 cũng đổ bộ lên bãi biển này.
 
Dữ Kiện Lịch Sử: Trong quá khứ, nước Bắc (China) đã xâm chiếm nước Nam (Việt Nam) mấy lần.
 
(1) Từ 111 BC – AD 939 (1,049 năm; nếu trừ bớt 3 năm nhờ Hai Bà Trưng giành được chủ quyền năm AD 40 – 43 thì còn 1,046 năm.) Thời gian hơn một nghìn năm này, kẻ xâm lăng cai trị dân Việt rất khắc nghiệt như nô lệ và vơ vét những gì quý giá chở về nước Bắc. Đặc biệt Mã Viện (Phục Ba) của nước Bắc đã gom gần hết các trống đồng của nước Nam, nấu chảy đúc thành Cột Đồng Trụ, khắc chữ Hán đe dọa: “Cột đồng chiết; Giao Chỉ diệt.” (chiết = đổ gãy). Năm AD 939, Ngô Quyền thắng quân Nam Hán và tuyên bố độc lập.
 
(2) Vua Đinh Tiên Hoàng và con trai bị cận vệ Đỗ Thích ám sát năm 979. Nhà Tống (Song) nước Bắc sửa soạn chiếm nước Nam; năm 981 đem quân tới biên giới. Nhưng nước Nam biết trước nên tướng Lê Hoàn chặn đánh tan quân Bắc ở biên giới. Sau đó, Lê Hoàn khởi đầu nhà Tiền Lê với tước hiệu Lê Đại Hành.
 
(3) Những ai chú ý chút ít Việt Sử đều biết nhà Trần đã ba lần chiến thắng quân xâm lăng Mông Cổ (Yuan) các năm 1258, 1285, và 1287. (Yuan, dòng họ Ganghis-Khan Mongolia cai trị nước Bắc (China) thời kỳ đó.) Nước China trước đó gồm 10 nước khác nhau: (Zhou, Jin, Xi-Xia, Liao, Nanzhao, Qidan, Northern Song (Bắc-Tống), Southern Song (Nam Tống), Sui, Tang). Tuy họ đang phát triển chữ Ideograph (tượng hình), nhưng mỗi nước phát âm khác nhau, nói chuyện không hiểu nhau nên phải “bút đàm”. Trớ trêu thay, người Mongols đã thống nhất 10 nước China, rồi chọn tiếng vùng Peking làm tiếng Quan Thoại. (Ngay cả ngày nay, cùng là người Chinese mà ỏ hai vùng khác nhau, hoặc là cùng biết tiếng Quan Thoại, hay là phải học tiếng của nhau mới nói chuyện được với nhau.)
 
(4) Hồ Quý Ly là quan của nhà Trần. Sau khi thủ tiêu nhiều con cháu can đảm nhà Trần, chỉ còn mấy người nhát gan mời hắn lên làm vua năm 1400. Một quan tên Nguyễn Khang giả là cháu họ Trần sang China làm việc dại dột xin quân nhà Minh sang giúp. Nhà Minh cai trị dân Việt rất độc ác như thời Mã Viện. Nhờ có Lê Lợi đánh quân Minh 10 năm mới giành được độc lập. Lê Lợi lập nhà Hậu Lê tước hiệu Lê Thái Tổ.
 
(5) Hậu Lê cai trị nước Nam đến năm 1527 thì Mạc Đăng Dung làm phản tương tự như Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần. Nhà Minh lại sửa soạn định chiếm nước Nam. Mạc Đăng Dung biết chắc sẽ thua nên dâng châu báu và cắt một phần nhỏ nước Nam cho nước Bắc rồi sang nước Bắc nộp mạng.
 
(6) Khi Mạc Đăng Dung chiếm ngôi, mấy hoàng tử chạy trốn ở mấy vùng khác nhau. Mỗi người lập quân đội riêng. Họ đánh nhau giành ngôi. Nguyễn Kim và hai con trai Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng, con rể Trịnh Kiểm phò một hoàng tử. Nguyễn Kim chết, trao quyền cho con rể. Kiểm thắng trận, lập nhà Lê Trung Hưng; Kiểm lấn quyền; vua chỉ là bù nhìn. Kiểm giết Uông; nên Hoàng dẫn một phần quân đội chạy vào miền nam lập giang sơn riêng. (Sau này là nhà Nguyễn Phước.)
 
Năm 1771, nước Nam lại có 3 phe đánh nhau. Vua Lê và quan Trịnh ở Bắc, Nguyễn Huệ ở Trung, Nguyễn Hoàng ở Nam.
 
Miền Bắc vua Lê Chiêu Thống bị lấn quyền chạy sang nước Bắc cầu xin nhà Thanh (Qing); do đó quân Thanh lại đem quân chiếm nước Nam năm 1789. Tình huống đó, Nguyễn Huệ xưng là vua Quang Trung, đuổi được quân Thanh.
 
Tóm lại, trong thời gian quá khứ, rất nhiều lần nước Bắc đã chiếm nước Nam; nhưng quân dân Nam đã đánh đuổi được. Ngày nay, cờ nước China có 1 sao lớn và 4 sao nhỏ. Theo Internet thì sao lớn tượng trưng dân tộc Hán; 4 sao nhỏ tượng trưng cho 4 dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Có ý nghĩa gì khi một sao lớn hơn mấy sao khác? Trên Facebook, vài lần đưa tin khi Vietnam tiếp một nhân vật chính phủ China, trên đài TV, cờ China gắn thêm một sao nhỏ nữa!? Mong rằng đây chỉ là “tin vịt” hình “giả dối”.
 
 
*
Không nước nào có chung biên giới với nước Bắc (China) làm những việc sai lầm to lớn và lâu dài gần 20 thế kỷ về chữ viết và văn học như nước Nam (Việt Nam). Thí dụ Korea: thế kỷ thứ 15, triều đại Yi, vua thứ IV (1419 – 1450) nước Korea đã ra sắc lệnh dùng chữ Hangul, khác hoàn toàn với chữ Chinese, cho tiếng nói Korean của họ. Do đó các văn nhân thi sĩ đã dùng chữ này để viết truyện làm thơ tả nhân vật và cảnh đẹp của nước họ. Nước Nam (VN) thì cứ mù quáng dùng chữ Chinese, phát âm chữ Nho mà dân không hiểu, phải giải thích mãi mới hiểu.
 
Nước Nam (VN), ngay sau những lần đuổi được quân xâm lăng về nước Bắc, vẫn trọng vọng tất cả những gì của nước Bắc: đam mê văn học, say đắm nhân vật, ca ngợi cảnh vật. Lỗi lầm to lớn kéo dài 20 thế kỷ là khinh chê ngôn ngữ của chính dân tộc mình, dùng tiếng ngoại lai, chữ nước China (mà đại đa số 95% dân không hiểu), để tuyển lựa người cai trị nước; dùng chữ ngoại lai trong tất các công văn, hộ tịch, vân vân. Thật xấu hổ, khi vua Việt loan kêu gọi việc gì trực tiếp với dân, lại nói tiếng Chữ Nho để tỏ ra là thông thái (sic), rồi một quan dịch ra tiếng Việt cho dân Việt.
 
Tuy tiếng Chữ Nho không là tiếng Quan Thoại, nhưng nó tương đương như một tỉnh nước Bắc: (cùng một thứ chữ, nhưng mỗi tỉnh phát âm khác nhau). Nếu không đuổi được quân xâm lăng, rất dễ bị đồng hóa.
 
Một sự thật nữa trong quá khứ là không có hệ thống trường lớp học Chữ Nho, chỉ có một số vị giỏi Chữ Nho không được làm quan (hoặc “từ quan”) mở lớp tại nhà riêng hay đình làng. Cả nước chắc cũng tới cỡ 100 lớp. Học trò trong lớp có các trình độ thấp cao khác nhau.        
 
Mặc dầu trong thời gian 8 thế kỷ (từ XIII đến XX) trong số 5% các vị giỏi Chữ Nho có vị đã dày công sáng chế chữ Nôm để ghi âm tiếng Việt, tiếng của dân tộc; như vậy phải giỏi Chữ Nho mới đọc được Chữ Nôm nên khó quá, thêm vào đó nó không được triều đình công nhận nên không phát triển được. (Bài Văn Tế Cá Sấu đã được viết bằng Chữ Nôm năm 1282.)
 
Sau 8 thế kỷ, mà chỉ có 26 tác phẩm Chữ Nôm bằng thơ. (Nhưng rất tiếc hầu hết chúng gồm toàn các nhân vật Chinese và cảnh bên China.) Thơ gieo vận nên một người đọc các người nghe mới dễ nhớ để sau này lại kể cho những người khác. Người khác lại kể cho người khác nữa.
 
Ngày nay, với Việt ngữ (Alphabet-script) ta đang dùng, chỉ trong vòng một tháng có thể có cả trăm tác phẩm, chưa kể báo tháng, báo ngày, bản nhạc, vân vân.
 
*                  
Lịch sử thành lập chữ (Quốc ngữ) Việt ngữ = Alphabet-script, hệ thống trường lớp học được xây tổ chức, mọi lứa tuổi dân Việt nô nức học, tôi  đã viết sẵn bài 16 trang: (Tinh Hoa của Tiếng Việt Nam).
 
Chữ Nôm quá khó như thế nào; Việt ngữ mở rộng chân trời cho dân và nước Việt Nam, tôi đã viết sẵn bài 7 trang: (Chữ Viết Khác Nhau cho Tiếng Việt Qua Các Thời Đại).
 
*
Trong chương VN-2 (Nhật Bản Mở - Việt Nam Đóng), ta thấy bất cứ lãnh vực nào, say mê hay trông nhờ nguồn gốc một nước duy nhất là dại dột và thiển cận, nhất là Việt Nam một nước nhỏ mà lại nằm ở vị trí chiến lược toàn cầu. Tiếng nói cũng vậy; xin đừng ngụy biện nó là truyền thống. (Việc gì tốt đẹp mới giữ; điều sai lầm phải bỏ.) Hãy theo gương Anh-ngữ đã múc nguồn từ nhiều gốc khác nhau.      
 
Nếu để ý, quý vị sẽ thấy từ đầu thế kỷ 19, cách nay hơn một thế kỷ, tiếng Việt đã có khoảng một ngàn chữ gốc Anh-Pháp đọc trại đi (tương tự như xưa học tiếng Chinese đọc trại đi thành Chữ Nho). Sau đây là một số ví dụ tiếng gốc Anh-Pháp:
 
Ô-tô (auto), lô-gích (logic), nhà ga (gare), con-vít (vis) mít-tinh (meeting), xà-bông (savon), áo-sơ mi (chemise), cà-phê (coffee), tách (tasse), bia (beer), rượu-xâm-banh (champagne), thịt bít-tết (beefsteak), bánh bích-qui (biscuit), quần-sọc (short), cao-bồi (cow boy), mũ cap (kép), áo-măng-tô (manteau), sô-cô-la (chocolate), bơ (beurre), phô-mát (fromage), cà-rốt (carrot), xà-lách (salade), hô-ten (hotel), xe buýt (bus) Cao-su, si-măng, ca-nô, xe tăng... chất hóa học... thuốc chữa bệnh... (còn rất nhiều).
 
Trong các lãnh vực khác, ví dụ âm nhạc, có các chữ như piano, violin, guitar, harmonica, harmonium,... valse, bolero, tango, Rumba, rock, chachacha, samba, đâu cần tìm Chữ Nho gốc Chinese để đặt tên cho phức tạp khó hiểu thêm!
 
Hệ thống đo lường: trọng lượng (gram), chiều dài (mét), thể tích (lít), các hãng xe, loại xe Renault, Peugeot... vân vân.
 
Thế kỷ 21 rồi, ảnh hưởng trong nhiều lãnh vực với tính cách quốc tế mỗi ngày càng tăng. Có những sáng chế từ Âu-Mỹ, (không phải từ China) có tên quốc tế rồi như radio, tivi, computer, internet, E-mail, video, calcium, aspirin, vitamin, ... mà lại giật lùi lại cố gắng tìm kiếm chữ Nho gốc Chinese! Ta không muốn gia nhập cộng đoàn thế giới, chỉ muốn dựa vào China hay sao? Gần cuối thế kỷ XX, khi dân chúng đang rành rẽ nhiều danh từ gốc Pháp, vài ông bà mê Chữ-Nho đặt tên lại như tây-ban-cầm (guitar), dương cầm (piano) vĩ cầm (violon) ... Dân chúng chẳng ai theo vì không muốn học những điều vô ích.
 
Cứ khăng khăng chỉ dùng chữ gốc Tầu mà thôi là bước đi theo cùng một lỗi lầm lớn của thời đại trước. Hãy thêm chữ gốc Âu-Mỹ giúp dân ta bớt nhìn vào nước China mà nhìn thêm ra cả toàn thế giới.
 
Trên thế giới, có gần 200 nước, trong thế kỷ trước, khoảng 40 nước Việt-Nam đã dùng âm Chữ Nho (gốc chữ Chinese) để đặt tên. Các thành phố thì ít hơn. Nhưng nay thì đang được thay thế bằng âm tiếng English hay French. Ví dụ Israel, Afghanistan, Iran... Canada, Argentina, Brazil... Bangkok, Paris, San-Francisco... Vài ông bà còn nuối tiếc dùng A-Phú-Hãn, Ba-Tư, Á-Căn-Đình, Ba-Tây... Vọng-Các, Ba-Lê, Cựu-Kim-Sơn... Nhưng họ rất cô đơn.
 
 
*
Tôi xin đặc biệt đề cập đến công trình Viết Về Nước Mỹ của ngàn người viết triệu người đọc vì đạt được thành công và lợi ích vượt không gian và thời gian.
 
Vượt không gian vì các bài viết được đăng trong báo ngày Việt Báo và in thành sách Viết Về Nước Mỹ hàng năm hơn một phần tư thế kỷ, các bài viết còn hiện diện trên Website đạt được thành công rất lớn, hiện nay đã có nhiều triệu độc giả trên toàn thế giới ngưỡng mộ tìm đọc. Hãnh diện hơn nữa, sách được lưu trữ lâu dài trong Thư Viện Quốc Gia Hoa Kỳ.
 
Vượt thời gian vì (a) các bài viết sẽ tồn tại trong tương lai những chứng tích lịch sử của Chiến Tranh Việt Nam kéo dài và tàn khốc gây đau thương và tàn phá không kể xiết; (b) tiếp theo là những chính sách cai trị hà khắc và độc ác của đám người độc tài thắng trận gây nhục nhã và đói khổ đến dân bị cai trị; (c) sau đó là các đợt vượt trốn chế độ độc tài đi tìm tự do trong hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm khiến từ ba trăm ngàn đến nửa triệu chết, trong hoàn cảnh kinh hoàng. (Tổng số từ Cơ Quan Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc HCR). Một số phụ nữ trẻ bị hải tặc hay cướp “làm nhục” tập thể trong thuyền trên biển cả hay trong rừng sâu. Nam bị đánh chết, xác vất xuống biển.
 
Tuy rằng tất cả các vị làm thơ viết văn Việt ngữ hiện tại đều là những người đã thông tạo tiếng Việt và chữ Việt tại quê nhà trước khi bỏ nước ra đi, vẫn là một thực tế rất đáng hân hoan. Nước nào cũng vậy tổng số văn thi sĩ chỉ khoảng vài ba phần trăm trong tổng số dân.
 
Từ vài chục năm nay, chúng ta đã đồng ý với sự phân chia thành ba thế hệ người Việt đang sống ở nước ngoài: (1) Thế hệ thứ nhất gồm những vị đã thông tạo tiếng Việt vả chữ Việt tại quê nhà trước khi bỏ nước ra đi. (2) Thế hệ một rưỡi gồm những người rời khỏi quê nhà trong tuổi thiếu nhi chưa rành rẽ chữ và tiếng Việt. (3) Người trẻ được sinh ra ở quê hương thứ hai. Theo nhận xét của tôi thì việc đọc sách và báo Việt không có được sự hân hoan tương đương như trên. Tôi không dám viết ra đây phần trăm ít ỏi đã lượng định, xin quý độc giả tự làm việc này.
 
Vậy ta phải làm gì để Giúp Thế Hệ Sau Đọc Sách Báo Việt? Ta hãy làm thế nào mà chợt có dịp may, một người thế hệ sau cầm quyển sách hay tờ báo đọc thử, nếu họ hiểu thì mới có cơ may họ sẽ tiếp tục đọc sách báo Việt. Nếu không hiểu thì họ sẽ từ giã, rất khó sẽ thử lại một lần nữa. Việc làm này cũng giúp cho toàn dân Việt nhìn rộng ra thế giới.
 
 
Sau khi đọc các sách hàng năm Viết Về Nước Mỹ của Việt Báo tôi thấy càng ngày càng phải dùng thêm từ vựng trong các lĩnh vực chuyên môn, đặc biệt là Tây-y-khoa với phương pháp tìm bệnh, ngừa bệnh, chữa bệnh và tên các thuốc. Cụ thể cuốn năm 2023 có thêm khoảng một ngàn từ Anh-ngữ viết nguyên dạng (khác với những từ kể ở phần trên, không phiên âm sang Việt ngữ.) Có từ được dùng lại rất nhiều lần, càc phrases (nhóm từ), sentences (trọn vẹn câu).
 
Ngay phần mở đầu nơi trang 4 đã có 5 dòng Anh ngữ thông báo cần thiết xuất xứ của cuốn sách: Writing on America Volume XXIII... Xin quý vị tìm đọc và làm nổi bật (highlight) những từ vựng English để thấy rằng tôi viết ra sự thật.
 
Nhưng tôi xin liệt kê một số lãnh vực mà cuốn này dùng từ vựng English: Phương tiện truyền thông, tây-y-khoa, thành phố, địa danh, tên các nước, hội đoàn, xây cất, tên các film, địa chỉ, tên nhà thờ, bệnh viện, tên sông, biển, dụng cụ kỹ thuật, hoa, cây cỏ, tên người, thực phẩm, các hê thống đo lường của Mỹ, tên đàn, nhạc, films ciné, chim muông: tên các hãng sản xuất, tên  xe, thời tiết, bão, dịch vụ, sinh hoạt tour, tên tiền Tiền: (Dolla, Euro) tên trường học, tên chợ... Xin quý vị tìm đọc và làm nổi bật (highlight) các từ vựng English để thấy rằng tôi viết ra sự thật.
 
*       
Như vậy đề nghị của tôi đi sau đường hướng Viết Về Nước Mỹ hơn hai thập niên và chỉ nằm trong một lĩnh vực, nó chỉ bằng một phần trăm mà thôi.
 
Đề nghị sau đây của tôi không mới mẻ đâu mà đã bắt đầu từ lâu rối. Sau đây là đề nghị của tôi:
 
Nguyên tắc I: Tên các nước ta không Nho hóa mà dùng như tiếng Anh; (ta có thể phiên âm bằng tiếng Việt). Ví dụ ta đã dùng tên nước Algery, Iraq, Panama... tên thành phố Tokyo, Marseille, Quebec...  được; tất nhiên các nước khác thành phố khác cũng dùng tiếng Anh được. Sau một thời gian sẽ quen dần.
 
Nguyên tắc II: Xin hãy giảm bớt dùng chữ Chữ Nho (gốc Chinese); và dùng chữ ngôn ngữ Việt thay thế vào.
 
Nguyên tắc III: Xin hãy phát âm và ghi âm tên nơi chốn nước China và tên riêng họ như tiếng Anh. (Để nhấn mạnh hai nước khác nhau hoàn toàn. Đây cũng là hình thức ngăn ngừa bị đồng hóa.) Chắc là nó khó một thời gian, nhưng nó sẽ quen dần.
       
Tham Khảo:
 
- Biểu Nhất Lãm Văn Học Cận Đại (GS Thanh Lãng)
- Nguồn Gốc Chữ Quốc Ngữ + Lịch sử Thế Giới (LM Đỗ Quang Chính)
- Chữ Viết của Người Việt Nam Qua Các Thời Đại. Nam Hoài Bão. 
 
Trần Đức Hân  
 
Kim Phượng sưu tầm
 
 
        
Xem thêm...

Chửi Tục - Nguyễn Giụ Hùng

 

           THƯ GỬI BẠN

 

CHỬI TỤC

NGUYỄN GIỤ HÙNG

 


Hình minh họa


   Nhân một người bạn viết thư cho tôi than vãn là anh ta muốn “chửi tục” khi nghe một người bạn khác ba hoa, khoác lác thái quá trong lúc trà dư tửu hậu đêm qua. Tôi chỉ xin được góp ý với các bạn đôi ba lời về chửi, chứ không dính dáng gì tới cá nhân người khoác lác ấy cả.

   Chửi thì xảy ra ở khắp mọi nơi. Nơi đâu có loài người thì nơi đó có chửi. Tôi đoán thế. Chửi phải được coi là một phần văn hóa của nhân loại. Sự đóng góp của mỗi dân tộc vào cái kho tàng chửi quí báu ấy, ít hay nhiều, tùy thuộcvào văn hóa riêng của từng nước. Con người càng văn minh thì sự suy nghĩ càng tinh vi, kéo theo nền văn hóa càng được nâng cao, do đó kho tàng chửi của nhân loại càng trở nên sống động và rực rỡ, muôn mầu muôn vẻ, lấp lánh như sao trời.

    Kho tàng chửi của dân ta thì phong phú lắm, phong phú ngang ngửa với kho tàng cười và cũng ngang ngửa với kho tàng của những lời yêu thương được gửi đến cho nhau.Chửi là để diễn tả hay truyền đạt đến cho một người hay một nhóm người hay cho chính mình sự hỉ, nộ, ái, ố lên đến cao độ. Sự truyền đạt ấy được gửi đi một cách nhất thời hay lâu dài tùy theo tình huống và đối tượng được/bị nghe chửi. Trong đó cách diễn tảcường độ chửi giữ một vai trò rất quan trọng, quan trọng như một diễn viên sân khấu vậy. Nó còn đòi hỏi người chửi phải biết  linh động, thông minh, đầy óc sáng tạo để thích ứng với sự biến đổi của vai trò, hầu đối tượng nghe chửi phải đạt tới cái cảm xúc tận cùng mà người chửi mong muốn.

   Chửi có loại chửi thanh và loại chửi tục. Có trường hợp câu chửi có vẻ thanh tao mà ý tục, tức chửi văn hoa, ngược lại, không hề có chuyện chửi tục mà lại có ý nghĩa thanh tao bao giờ.

   Chửi cũng còn tùy thuộc từng vùng. Có vùng nghe chửi, đến mấy ngày sau mới biết mình bị chửi. Có vùng thì huỵch toẹt hơn, vừa mở mồm chửi là người nghe chửi hiểu được liền.

   Ngày xưa các cụ có câu “miếng trầu mở đầu câu chuyện”, nhưng bây giờ ở một vài nơi trên đất nước ta, áp dụng cho một số người, người ta mở đầu câu chuyện phải bằng tiếng chửi mặn mà, cũng chát như cau, cay như lá trầu không và nồng như vôi vậy. Họ không chửi thì không nói được nên lời. Ta cứ bắt họ không được chửi trong câu nói, dù là câu nói rất bình thường, họ sẽ trở nên câm ngay, có cố gắng lắm thì cũng chỉ thành người nói ngọng hay nói lắp. Thế mới biết chửi nó quan trọng trong đời sống như thế nàọ. Không thể thiếu được.

   Các bạn muốn nghe và học chửi thì tôi đề nghị tốt nhất là nên về miền Bắc nước ta thụ huấn vài khóa miễn phí, được tổ chức ngay trên đường phố, trong chợ hay trong những cửa tiệm. Giảng viên thì thuộc đủ mọi thành phần, giới tính và đủ mọi lứa tuổi.

   Tại sao tôi lại nói miền Bắc vì đó là cái nôi của chửi, có từ thuở lập quốc. Chửi được thăng tiến song song với văn hóa dân tộc và bành trướng ảnh hưởng xuống tận cùng phía Nam theo bước chân Nam tiến của tiền nhân. Đã học thì phải học cái chính thống, không bị pha trộn bởi những văn hóa chửi khác như của Chiêm Thành hay Chân Lạp. Các bạn đồng ý với tôi chứ?

   Anh bạn của tôi chỉ khoanh vùng trong vấn đề chửi tục không thôi, nên tôi chỉ xin có vài hàng ngắn gọn trong phạm vi này.

   Trong “chửi tục” thì đa phần lại liên quan đến “sex”, do đó những tiếng chửi tục tôi không tiện liệt kê ra đây vì nó tục hay quá tục và cũng vì nó quá nhiều. Tôi chỉ xin chia sẻ một vài cảm nghĩ nho nhỏ mà thôi chứ không bàn luận về nó.

   Ta cứ nghe các cụ chửi nhau, ta thấy họ cứ như đang hăng say chia sẻ hay dạy dỗ cho nhau về sex vậy. Các cụ đem ra từ những chi tiết nho nhỏ đến những điều to lớn hãi hùng. Chửi bằng mồm chưa đủ, các cụ còn diễn tả cả bằng tay chân lẫn thân thể nữa. Sợ đối phương chậm hiểu, các cụ chỉ chỗ này vỗ chỗ kia, vén chỗ thấp lại tốc chỗ cao, ưỡn sang bên phải, hẩy sang bên trái nhịp nhàng như múa. Có lúc các cụ hăng say, đỏ mặt tía tai, nhẩy nhót, gào thét như trong cơn mê sảng. Mê sảng như chính các cụ đang thực hiện hay như muốn chứng minh những điều đang được đem ra để chửi. Quả thật nếu các cụ không diễn tả bằng động tác thì đối phương làm sao hiểu thấu được cái ý nghĩa sâu xa và hình ảnh sống động của những câu chửi bóng bẩy như “cứ nhấp nha nhấp nhổm như gái ngồi phải cọc”.

   Nhưng không phải người chửi lúc nào cũng hăng say như thế đâu. Có khi chửi cũng nhẹ nhàng, thủ thỉ như người tâm sự đấy. Những cuộc chửi như thế này đỡ tốn sức nên thời gian chửi cứ kéo dài ra cho đến vô tận. Người chửi vẫn có thể ngồi nói chuyện thanh tao với người ngồi bên tay phải mà vẫn chửi tục với bà ngồi bên tay trái. Không ai thấy thắc mắc và lạ lùng về những điều trái ngược ấy. Thanh tục được thể hiện một cách đề huề trong cùng một lúc, như một diễn viên có khả năng diễn xuất để cùng một lúc làm cho hai người ngồi nghe, một khóc một cười. Cụ có thể nghỉ ngơi, đi chơi đâu một lúc hay làm việc gì, chút nữa trở về cụ lại rỉ rả chửi tiếp, không vội vàng hấp tấp, chửi để mà chửi chẳng khác gì các vị Thiền sư đi thiền hành, đi để mà đi chứ không phải đi để mà tới. Chửi không phải để chửi, ấy mới là chửi cao cấp vậy.

   Các cụ dùng chửi để truyền bá sex một cách vô tội vạ và vung tí mẹt. Có cái hay là sự truyền giảng của các cụ về sex lại vô cùng hợp pháphợp luân lý trong một xã hội chịu ảnh hưởng sâu xa đạo lý Khổng Mạnh. Những sự truyền giảng ấy thật bình thường và tự nhiên đến độ chẳng ai còn coi đó là câu chửi tục nữa, dù cả ở nơi công cộng.

   Ngẫm nghĩ lại thấy các cụ nhà mình văn minh hơn đám Tây phương này thật. Người Tây phương mới biết đem sex vào giảng dạy trong sách vở, trong hội thảo hay trong học đường dành cho những lớp học sinh đã đến tuổi hiểu biết. Thế mà họ đã tưởng là họ đang làm một cuộc cách mạng thế giới đấy. Họ có ngờ đâu, có một dân tộc xa xăm kia, đã biết giảng dạy về sex giữa nơi công cộng, trong làng ngoài ngõ cùng nghe, già cũng nghe mà trẻ con cũng nghe. Đó là những bài CHỬI TỤC.

   Muốn được nghe chửi tục, ôi thật dễ làm sao. Ta chỉ cần ăn cắp con gà của bà hàng xóm. Bà ấy sẽ chửi tục cho nghe từ sáng đến chiều để tha hồ mà nghe, mà thưởng thức, mà học hỏi về những điều ta chưa từng được nghe, chưa từng được thấy và chưa từng được áp dụng bao giờ. Ôi quý báu làm sao! Và cũng để tiện việc đôi bề, nhất cử lưỡng tiện, ta có thể vừa ngồi ăn con gà ăn cắp vừa học. Học lý thuyết thôi đấy nhé, ta không thể vừa ăn gà mà lại vừa thực hành được, hóc chết. Chắc ai cũng biết câu “hóc xương gà, sa cành khế” chứ? Hóc gì thì hóc, đừng có hóc xương gà.

   Này các bạn ơi! Bạn có giỏi thì sang vỗ nhẹ vào vai bà hàng xóm mách là “ông hàng xóm nhà bên cạnh” ăn cắp gà đấy. Bà ấy sẽ không những dạy dỗ người còn sống mà bà ấy còn dựng dậy luôn cả những người đã chết liên hệ đến gia phả nhà ông này mà đem ra dạy dỗ luôn. Bạn thấy tôi khôn không. Bạn phải trả tiền đấy nhé chứ không dạy “free” như bà hàng xóm đâu đấy.

   Nói cho cùng, biết bao nhiêu điều chúng ta muốn chửi, nhưng nghĩ lại, những tiếng chửi kể cả tiếng chửi tục sao nó trong sáng quá và lung linh như những ánh sao trời, nên thôi. Phí! (Cười).

TÁI BÚT. Chắc các bạn thắc mắc tại sao tôi chỉ nói đến các cụ thôi. Thú thật với các bạn, các cụ đây không có nghĩa là già, là các vị cao niên, là nói đến tuổi tác đâu. Tôi gọi người chửi là các cụ vì lòng tôn vinh các vị chửi đó thôi. Đáng lẽ chữ các cụ ở đây phải được viết hoa như chữ “Người” nữa cơ đấy vì tôi sợ bị chửi, nhất là chửi tục.

 

 

Nguyễn Giụ Hùng

 

Xem thêm...
Theo dõi RSS này