Văn học nghệ thuật

Văn học nghệ thuật (1284)

Find out the latest local and worldwide news.

Children categories

Thơ

Thơ (26)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Âm nhạc

Âm nhạc (124)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Truyện

Truyện (246)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...

PHONG TỤC KỲ LẠ CỦA NGƯỜI ANH XƯA: MANG VỢ RA CHỢ...BÁN

PHONG TỤC KỲ LẠ CỦA NGƯỜI ANH XƯA:

MANG VỢ RA CHỢ...BÁN

Nhiều người không tin nhưng đây là câu chuyện hoàn toàn có thật. Cho đến đầu những năm 1900, tất cả đàn ông ở Anh đều được phép bán vợ công khai cho người trả giá cao nhất.



Nhiều người không tin nhưng đây là câu chuyện hoàn toàn có thật. Cho đến đầu những năm 1900, tất cả đàn ông ở Anh đều được phép bán vợ công khai cho người trả giá cao nhất.

Vào tháng 4/1832, anh nông dân Joseph Thomson đưa vợ ra khu chợ ở thành phố cũ Carlisle để rao bán. Trước sự chứng kiến của đám đông, Thomson ngồi trên một chiếc ghế gỗ sồi lớn, cầm trên tay sợi dây thừng quấn quanh cổ vợ và nói: “Thưa các quý ông, tôi xin giới thiệu vợ tôi Mary Anne Thomson, trước đây là Williams, người tôi sẽ bán cho ai trả giá cao nhất và tốt nhất. Tôi lấy cô ta để thỏa mãn ham muốn của bản thân và chăm lo cho gia đình nhưng cô ta giờ đã trở thành một kẻ khó ưa, một lời nguyền và quỷ dữ”.

Thomson nói thêm: “Mary cũng có những mặt tốt. Cô ta có thể đọc tiểu thuyết và vắt sữa bò. Cô ta cười khóc dễ dàng như khi các ngài uống cạn một cốc bia để giải khát. Cô ta có thể làm bơ, đốc thúc người giúp việc, và hát các giai điệu Moore. Mary không giỏi nấu rượu nhưng cô ta thử và đánh giá chất lượng rượu rất chính xác. Do đó, tôi xin ra giá là 15 si – ling”. Cuộc đấu giá kéo dài trong một giờ đồng hồ và Mary được bán cho Henry Mears với giá 1 bảng Anh cộng thêm một chú chó Newfoundland.

Phong tục kỳ lạ của người Anh xưa: Mang vợ ra chợ... bán

Kỷ nguyên vàng

“Rao bán vợ” phổ biến nhất vào giữa những năm 1780 – 1850. Theo sử ký, gần 300 phụ nữ đã bị bán trong thời kỳ này. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng con số thực còn lớn hơn do rất nhiều cuộc đấu giá đã diễn ra bí mật.

Mục đích của tổ chức đấu giá công khai là để mọi người ngầm công nhận vai trò và trách nhiệm của người đàn ông đã kết thúc. Người chồng sẽ không còn phải lo cái ăn và chỗ ở cho người vợ cũ sau khi đã bán cô ta cho một người đàn ông khác. Mặc dù vậy, về mặt pháp luật và đối với nhà thờ, hai người này vẫn còn quan hệ vợ chồng.

Một trong những “thương vụ” bán vợ đầu tiên được ghi chép bắt đầu vào năm 1733 ở Birmingham, miền trung nước Anh. Báo địa phương đưa tin, người đàn ông có tên Samuel Whitehouse đã bán người vợ có tên Mary cho Thomas Grifiths tại một khu chợ sau khi thống nhất mức giá cuối cùng 5 si – linh và 6 xu. Thỏa thuận “nhượng vợ” của Samuel có ghi rõ Grifiths phải chấp nhận Mary bằng cả con người cô ấy, bao gồm cả những tật xấu.

Cũng có thời kỳ, giá của những người vợ khá rẻ mạt. Năm 1801, một người phụ nữ được mua lại với giá chỉ một xu. Thậm chí, có người đàn ông còn chấp nhận đổi một nửa đời mình chỉ để lấy một thùng bia. Đôi khi những người vợ cũng được định giá dựa trên cân nặng của họ.
Một người đàn ông đang rất cần tiền phải bán vợ mình ở Guthrie, Oklahoma.

Lối thoát cho hôn nhân bế tắc

Sau khi tòa án ly hôn đầu tiên được thành lập ở Anh vào năm 1857, việc bỏ vợ trở nên vô cùng khó khăn và tốn kém. Ở thế kỷ 19, mức án phí ly hôn có thể lên đến 3.000 bảng Anh (tương đương 20.000 USD ngày nay) do nghị viện phải lập một bộ luật dành riêng cho những người vợ hợp pháp. Đối với các quận nghèo như West Midlands, ly hôn theo kiểu truyền thống là điều gần như không thể, do đó các ông chồng đã chọn cách rao bán vợ của mình như một món hàng.

Theo thông lệ, đàn ông “dắt” vợ ra chợ bán với một chiếc dây thừng tròng quanh cổ hoặc quấn quanh eo giống như vật nuôi. Người vợ sẽ đeo sợi dây đó cho đến lúc về nhà chồng mới và chỉ tháo ra sau khi đã bước qua ngưỡng cửa. Tập tục này thường thấy ở các vùng nông thôn Anh trong những năm 1800. Cuộc trả giá diễn ra trong khung cảnh hỗn loạn, đám đông tụ họp chế giễu và cười đùa, trong đó những người đàn ông độc thân tranh nhau hét giá. Một khi thỏa thuận mua bán được thông qua, các bên liên quan và hầu hết đám đông sẽ đến quán rượu trong vùng để ăn mừng. Các anh chồng sẽ dùng số tiền bán vợ để mời mọi người trong quán, bao gồm cả vợ cũ và chồng mới của cô ta. “Rao bán vợ” không chỉ cách nhanh nhất và đơn giản nhất để các cặp vợ chồng ly thân mà còn là trò tiêu khiển cho dân làng.

Mặc dù bị đối xử tồi tệ nhưng những người phụ nữ này không có vẻ gì là oan ức, thậm chí họ còn tình nguyện để bị bán. Trên thực tế, đa số cuộc rao bán đều có sự đồng thuận của cả hai vợ chồng. Một người phụ nữ bị đem đi đấu giá ở Wenlock năm 1830 đã viết một dòng nhắn nhủ cho chồng rằng “tôi sẽ được bán, tôi muốn thay đổi” sau khi anh này thay đổi ý định. Rất nhiều trường hợp, phụ nữ được nhượng lại cho chính người tình của họ với cái giá được thỏa thuận trước khi đấu giá công khai.

Ảnh minh họa trong tiểu thuyết "Thị Trưởng Casterbridge" của Thomas Hardy về một người đàn ông bán vợ mình cho người trả giá cao nhất.

Ly hôn vợ thông qua rao bán không hoàn toàn hợp pháp, song chính quyền địa phương thường làm ngơ cho qua, trong khi phía nhà thờ và chính quyền ra sức phản đối. Sau này, khi việc rao bán phụ nữ dần bị hạn chế, nhiều người đàn ông phải ra hầu tòa và lĩnh án phạt lên tới 6 tháng tù giam. Năm 1855, việc mua bán phụ nữ đặc biệt không còn được ủng hộ như trước. Tại thị trấn Chipping Norton ở Costwolds, một người đàn ông bán vợ của mình và nhận được 25 bảng Anh, một khoản tiền hời với giá khởi điểm chỉ 25 xu. Ba đêm đầu tiên sau cuộc đấu giá, người vợ và chồng mới bị dân làng mắng chửi thậm tệ. Đến đêm thứ ba, khi hình nộm rơm bị đốt trước cửa nhà, anh chồng mới đành phải chịu thua và trả thêm tiền để chồng cũ mang cô vợ trở về nhà.

 
Bảo Anh / Theo: Dân Việt
 
Xem thêm...

“Tôi vẽ đời em” .Đi nghe nhạc Trần Hải Sâm ở San Jose

 “Tôi vẽ đời em” .

Đi nghe nhạc Trần Hải Sâm ở San Jose



BuiVanPhu_2023_0531_ChieuNhacTranHaiSam_H01
Nhạc sĩ Trần Hải Sâm trong chiều nhạc “Tôi vẽ đời em” .
 

Đi nghe nhạc Trần Hải Sâm ở San Jose

Bùi Văn Phú

Hi Sâm đã viết my ca khúc v ni kinh hoàng và nim đau do dch gây ra cho nhiu gia đình người Vit quê nhà. Mt trong nhng ca khúc được nhiu người nghe trên YouTube là "Mt ngày trên quê hương tôi"...

tranhaisam01

Chương trình nhc "Tôi v đi em : dòng nhc Trn Hi Sâm" đã din ra trên sân khu Elizabeth A. Hangs ti Thính đường Santa Clara Convention Center

Chiu Ch nht 21/5 va qua chương trình nhc "Tôi v đi em : dòng nhc Trn Hi Sâm" đã din ra trên sân khu Elizabeth A. Hangs ti Santa Clara Convention Center vi s tham d ca 700 khán gi yêu thích văn ngh vùng San Jose, trung tâm sinh hot văn hoá ca người Vit min bc California

Nhc sĩ Trn Hi Sâm người gc Hà Ni, qua M t cui thp niên 1990 như là mt sinh viên ban thc sĩ ngành nhân văn ti Đi hc Oregon. Sau khi tt nghip, cô v California sinh sng và mi ch bước vào con đường sinh hot ngh thut trong vòng ba năm qua. Đến nay Hi Sâm đã sáng tác hơn 50 ca khúc, mt s đã lên Youtube, th hin qua các ging ca được nhiu người biết đến như Quang Dũng, Trn Thu Hà, Hương Lan, Hng Nhung, Dim Liên, Tun Ngc, Nguyên Khang, Thế Sơn, v.v.

Chúng tôi đến thính đường đúng 2 gi chiu như ghi trên vé. Bên ngoài hành lang gp my bn trong nhóm cu sinh viên Đi hc Berkeley và các bn khác tng gp nhau trong các bui văn ngh b túi nhà Hi Sâm. Đến 3 gi chương trình khai mc vi đôi li ca anh Lý Trn, trưởng ban t chc.

tranhaisam2

Dim Liên và Thế Sơn trong mt bài song ca (nh : Bùi Văn Phú)

Nhc sĩ Diu Hương, tác gi ca các ca khúc ni tiếng như "Vì đó là em", "Phiến đá su" đã gii thiu nhc sĩ Hi Sâm và dòng nhc ca cô. Hai người n nhc sĩ, mt t Qun Cam và mt t Thung lũng Hoa vàng có dp quen biết nhau trong gn mt thp niên qua và có chung nim đam mê âm nhc nên thân thiết vi nhau qua nhng ln cùng đi chơi, qua nhng ba ăn, nhng bui văn ngh b túi m cúng ti tư gia ca v chng nhc sĩ Trn Hi Sâm và phu quân là lut s Đinh Ngc Tn. Theo Diu Hương, nhng ca khúc ca Hi Sâm là nhng dòng nhc văn v, duyên dáng và d thương, ca t ca nhc Hi Sâm cũng là nhng thương yêu, hn gin nhưng giàu cm xúc và đy khát vng ca mt loài chim l, hướng v nhng chân tri mi l, sâu thm.

"Tôi v đi em" gm 29 ca khúc ca khúc ca Hi Sâm, hu hết là nhng bài hát không nm trong s hơn 20 ca khúc đã được ph biến trên YouTube.

tranhaisam3

Ý Lan trong tà áo dài duyên dáng (nh : Bùi Văn Phú)

Bn ca sĩ "cây nhà lá vườn" vùng San Jose là Đng Tho, Diu Linh, Anh Tun và Quang Khi đã khai mc chương trình bng "Tình đến" vi âm điu tươi vui, du dương.

Tình đến

Cho màu mt úa em tôi du êm

Nghe tng hơi th xua tan màn đêm

Yêu cài lên tóc, em buông nim đau

Đêm dài nương náu, ta mơ ngày sau

Mi ca khúc ca Hi Sâm là cm xúc v mt chuyn tình, t phương Đông c xưa vi mi tình éo le gia Thuyn Quyên là cô hc trò vi người thày dy mình là Khut Nguyên. Bài hát do Hương Lan th hin :

Dòng đời ai tắm bên sông nhớ

Đẩy tấm Thuyền Quyên dạt bến chờ

Giọt tình ai khóc đêm trăng ấy

Cạn hết lòng chưa đặng ghé bờ...

tranhaisam4

Ca sĩ Trng Bc đến t Sài Gòn góp mt trong chương trình.

Bên tri Tây có chuyn tình gia mt nhà văn và cô gái làng chơi, trong tác phm c đin "Trà hoa n" ca Alexander Dumas fils đã là ngun cm hng cho nhc sĩ viết lên ca khúc "Nhân dáng mt nim đau" mà Nguyên Khang cho là khó hát nht trong các bài hát ca Hi Sâm mà anh th hin. Nguyên Khang k là trong nhng ln tp dượt vi nhc sĩ Vũ Quang Trung, người lo phn hoà âm phi khí cho chương trình, anh hay nói đùa là nên đi tên thành "Nhn dng mt nim đau" vì có ai biết được nhân dáng ca nim đau ra sao.

Yêu em nhung gấm phôi pha

Yêu em hương phấn trăng hoa

Yêu em mơ ước phai nhòa

Yêu em tình đau bội xoá. Xóa yêu đi…

Nhc Hi Sâm có nhng khúc dân ca, nhng bài ca mang âm hưởng c truyn vi giai điu ngũ cung đã đem đến cho khán gi s cm nhn gn gũi vi văn hoá Vit, vi quê nhà Vit Nam. Ca khúc "Tiếng quê" đã được Ý Lan th hin mang nét truyn thng ca quê hương :

Ai về, về thăm chốn, chốn quê xa

Cho tôi là tôi gửi chút ớ,

miếng quà, là quà nước non

Ầu ơ tiếng nước trong nôi

Chiều hôm ai hát ớ, chứ đứng ngồi,

đứng ngồi mà tiếng quê

tranhaisam5

Hương Lan hát dân ca "Lý m côi" gây xúc đng trong lòng khán gi (nh : Bùi Văn Phú)

My năm va qua nn dch Covid-19 giết chết my chc triu người trên thế gii và Vit Nam cũng không tránh được thm họa này. Hi Sâm đã viết my ca khúc v ni kinh hoàng và nim đau do dch gây ra cho nhiu gia đình người Vit quê nhà. Mt trong nhng ca khúc được nhiu người nghe trên YouTube là "Mt ngày trên quê hương tôi", hơn 200 nghìn lượt xem, vi ging hát Trn Thu Hà, mà mt bn trên Facebook là Sĩ Nguyn sau khi nghe đã gi bình lun như sau :"11g trưa ngày 4/8/2021 người Chng ra đi, 11g30 trưa ngày 4/8/2021 (tc là 30 phút sau, cùng ngày) người V ni gót ra đi b li đa Cháu 2 tui vì thế nghe TrnThu Hà hát tôi mun nghe và ko mun nghe. Đau Đn Lm".Li chia s trên khiến Hi Sâm cm đng và viết lên ca khúc "u ơ lý m côi" đã được ca sĩ Hương Lan trình bày trong chương trình.

Mồ côi tội lắm ai ơi

Sông sâu vắng mẹ ngược đồi thiếu cha

Cò con lẻ bóng sương sa

Đìu hiu bếp lửa mẹ cha không còn

Trong phn gii thiu bài ca, nhc sĩ Hi Sâm tâm s : "Thm dch đã ly đi biết bao nhiêu sinh mng nhng người con ca Sài Gòn. Con mt cha, v mt chng, con thơ mt m Sinh ly t bit luôn là ni đau tn cùng ca nhng mt mát tn thương. Càng đau lòng hơn khi người li là nhng em bé m côi không nơi nương ta, đôi mt ngây thơ bun ngơ ngác không tìm ra mt đim náu, bàn tay quá bé nh không nm ni mt nim tin".

Hương Lan đến vi chương trình qua nhng khúc dân ca đã nhn được nhng tràng pháo tay nng nhit t khác gi.

Ch đ ca chương trình nhc hôm nay là "Tôi v đi em", theo li gii thiu ca Trn Hi Sâm là "Trong bc tranh Tôi v đi em, chúng ta không thy rõ ràng các nét như môi, mt, mũi, ming mà người thiếu n được phác ha bng nhng hình nh tru tượng :

Ngồi yên em nhé, tôi vẽ đời em

Hồn nhiên như nắng, tuổi mới chạm vai

Bàn tay bé dại, nâng niu cuộc tình

Tôi v đi em - Nhạc & lời : Trn Hi Sâm - Hòa âm : Quang Ngọc – Tiếng hát : Trọng Bắc

V hình nh "tui mi chm vai", trong nhn thc ca Hi Sâm, đôi vai tượng trưng cho s gánh gng, cho lo toan vt v. Đôi vai là s tri nghim ca cuc đi, là b dày ca cuc sng. "Tui mi chm vai" mang hình nh người con gái đang cái đ tui trăng tròn, va mi bước vào, chm vào cuc đi này.

Đng trước cái v đp trong trng thơ ngây ca "tui mi chm vai" đó, người thi họa sĩ ngã lòng yêu, nhưng đã cái tui xế chiu :

Đời tôi như gió, nhặt lá vàng rơi

Mùa thu quá vội, đi ngang phận người

Nên người thi ha sĩ ch yêu mt cách tôn th và mun v lên mt bc tranh tình yêu, như mun gi li muôn tha cái v đp ngây thơ, hn nhiên đó.

"Tôi v đi em" đã được trình bày qua ging hát Trng Bc, mt ca sĩ t Sài Gòn va đến California được my hôm, vi âm điu qua nhiu cung bc và được khán gi chào đón mt ca sĩ t phương xa vi mt bài ca mi bng nhng tiếng v tay vang.

Vi dòng nhc chưa quen thuc vi người yêu thích văn ngh, các ca sĩ đã mang đến cho khán gi chiu hôm đó nhng khám phá v mt dòng nhc ca Trn Hi Sâm, qua Dim Liên vi "Tình cát", "Thu l làng" hay song ca vi Thế Sơn qua "Tình đã quên li" ; qua Đng Tho vi "Mng tàn canh", Anh Tun vi "Quên li đường tơ" hay Diu Linh qua "Thu khát", Quang Khi vi "Ni đau ca ngày".

tranhaisam1

Thính đường đông kín khán gi tham d chương trình (nh : Bùi Văn Phú)

Chm dt chương trình, mt người quen nói vi tôi rng ch đã rơi nước mt khi nghe Hương Lan hát bài "Lý m côi". Mt bn khác nhn xét nhc Trn Hi Sâm có vài ca khúc d đi vào lòng người và khen ban t chc đã thành công trong vic gii thiu mt nhc sĩ mi và đã được s chú ý ca gii yêu thích văn ngh đến d đông kín c thính đường.

Đi vi người nhc sĩ, như li cô tâm s khi bước ra sân khu gii thiu dòng nhc ca mình trong bui chiu hôm nay, là :

"Sau ba năm sáng tác, hôm nay Hi Sâm được đng đây, trong mt khán phòng rng ln như vy, được chia s vi quý v nhng ca khúc ca mình, thc s là mt bt ng k diu, mt bước r đc bit đi vi Hi Sâm. Âm nhc đến vi Hi Sâm mt cách rt tình c. Có l đó là s an bài ca Thượng Đế.

Mi sáng tác như mt bông hoa di sau vườn nhà, sn sùi nhng cm xúc, thô ráp nhng ni đau, hay ngt ngư mt nim vui bình d. Nhng bông hoa di đó ch mong được được mang nha sng ca mình to hương làm đp cho đi.

Dòng nhc Trn Hi Sâm như mt con thuyn ch đy nhng bông hoa di đó và mun được ra khơi. S có mt ca quý v trong live show này giúp to nên dòng nước đu tiên đ đưa con thuyn y ra khơi".

Bùi Văn Phú

Nguồn : VOA, 03/06/2023

Trò chuyện cùng nhạc sĩ Trần Hải Sâm, ‘Một Ngày Trên Quê Hương Tôi’

 

Nhạc sĩ Trần Hải Sâm (Ảnh: Bùi Văn Phú)

Đặc biệt là mùa thu Hà Nội xao xác heo may, rượm vàng sắc lá. Thu Hà Nội đượm buồn với mưa ngâu, nhưng nồng nàn bên hoa sữa và rất đời, rất phố trong hương cốm xanh non, ngọt lòng người lữ khách.

Bùi Văn Phú

 --------------------------

Hơn 20 năm trước tôi gặp Trần Hải Sâm, khi cô còn là sinh viên ban thạc sĩ của Đại học Oregon, là một cô gái đã tốt nghiệp ngành cổ sử Đại học Quốc gia Hà Nội với dáng nét trẻ trung, tính tình vui vẻ, cởi mở. Sau này Sâm trở thành bà xã của Luật sư Đinh Ngọc Tấn, một bạn trẻ đã cùng tôi tổ chức nhiều hội thảo từ sân trường đại học và trong sinh hoạt cộng đồng vùng Vịnh San Francisco.

Mấy năm trước tôi được Hải Sâm cho nghe bản nháp những bài hát đầu tiên và tôi đã nhận ra chị có thiên khiếu về âm nhạc, dù không học qua trường nhạc và đến nay chị đã có cả trăm sáng tác.

Trần Hải Sâm dành cho chúng tôi cuộc trò chuyện hôm nay, về con đường đến với sáng tác âm nhạc của chị.

***

Bùi Văn Phú: Khoảng 3 năm về trước, trên Youtube có bài hát “Khóc Con” của chị, nhân sự kiện 39 người Việt tử nạn vì ngộp thở trong một xe thùng chở hàng khi tìm đường vào nước Anh. Đây có phải sáng tác đầu tay của chị?

Trần Hải Sâm: Dạ, đây là bài hát đầu tiên Hải Sâm cho phổ biến trên YouTube. Bài “Khóc Con” được trình bày như một dạng hát mộc, với ca sĩ Đồng Thảo và ngón đàn guitar của nhạc sĩ Công Dũng.

Bùi Văn Phú: Chị có thể cho biết những suy tư, cảm nhận của chị khi viết lên ca khúc này?

Trần Hải Sâm: Bài hát “Khóc Con” được viết cuối tháng 11 năm 2019, sau khi có tin 39 nạn nhân là những bạn trẻ người Việt, rời quê hương tìm đường mưu sinh, mong muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn cho mình và cho gia đình còn ở lại. Con đường mưu sinh trên đất người cũng chồng chất những toan tính và đầy rẫy nguy hiểm, để rồi họ đã phải chôn cất ước mơ của mình cùng những hơi thở cuối đời trong một chiếc container băng giá, ngột ngạt trên đất người. Con gái của Hải Sâm lúc ấy cũng độ tuổi như những cô gái trẻ nạn nhân và Hải Sâm liên tưởng đến nỗi đau của những người mẹ mất con, nên đã viết:

“Tội lắm ai ơi, phút cuối cuộc đời của hơn ba mươi đứa trẻ
Thở nốt khí quê người mà nhớ mẹ thương cha
Bỏ xác phương xa, những hình hài khô cóng lại
Chết hết ước mơ rồi ôi muộn quá một ngày mai…”

Hôm nay, hơn ba năm sau, ngồi đây nhớ lại những người con trẻ Việt lưu lạc và vắn số ấy, lòng vẫn không tránh được xót xa.

Nhạc sĩ Trần Hải Sâm trong một buổi sinh hoạt văn nghệ tại nhà chị ở San Jose, California (Ảnh: Bùi Văn Phú)

Nhạc sĩ Trần Hải Sâm trong một buổi sinh hoạt văn nghệ tại nhà chị ở San Jose, California (Ảnh: Bùi Văn Phú)

Bùi Văn Phú: Trong vòng ba năm qua chị đã có gần 40 sáng tác về tình yêu, về quê hương, về phận người Việt đã được các ca sĩ như Hà Trần, Hồng Nhung, Quang Dũng, Hương Lan, Trọng Bắc, Nguyên Khang, Diễm Liên… thể hiện, như thế mỗi tháng chị đều có sáng tác mới. Nguồn cảm hứng đã đến với chị như thế nào để sáng tác, nó đến từ vườn nhà, từ nắng mai, hay trải nghiệm bản thân qua tình yêu, qua nỗi nhớ quê nhà?

Trần Hải Sâm: Trong 3 năm sáng tác, Hải Sâm đã viết được gần 100 bài hát. Đến nay đã có 35 bài đã được phổ biến trên YouTube.

Với thơ nhạc, Hải Sâm như một người lữ khách, góp nhặt lại những gương mặt, những mảnh đời, những nỗi niềm để rồi lắng nghe, trải nghiệm và viết lên cảm xúc của mình qua từng lời ca nốt nhạc. Có bài là tâm sự, là trải nghiệm của bản thân, là câu chuyện của lòng mình. Có bài thì là những câu chuyện, những mảnh đời, những nỗi lòng mà Hải Sâm gặp gỡ trên con đường đời.

Ví dụ bài “Nỗi Nhớ Đau Trên Môi Cười” là câu chuyện Hải Sâm viết về nỗi đau của một người bạn khi cuộc hôn nhân bị đổ vỡ. Mỗi lần gặp, người bạn ấy luôn cố gắng nở một nụ cười. Nhưng Hải Sâm thấy nụ cười ấy mới buồn làm sao, dường như nỗi nhớ vẫn còn hằn đau trên môi cười đó.

Bùi Văn Phú: “Con Sóng Đời” do Quang Dũng hát, có những ca từ nghe thật buồn, mà lãng mạn:

“Con sóng đời đập mãi những tương tư
Ta bơ vơ bạc đầu trên biển cạn
Nghe trăm năm ngút ngàn cơn gió trở
Đẩy những bơ vơ, xô ngã lời yêu đầu…”

Chị viết ca khúc này khi nào, trong hoàn cảnh, tâm trạng ra sao?

Trần Hải Sâm: Biển là một mảng đề tài khá lớn trong các sáng tác của Hải Sâm. Hải Sâm yêu biển, không chỉ vì cái mênh mang vô tận của lòng đại dương, mà còn là sự cồn cào của từng con sóng. Đôi khi Hải Sâm tự nghĩ, nếu đời mình là những con sóng thì sẽ ra sao? Và từ những suy nghĩ như thế mà Hải Sâm viết bài “Con Sóng Đời”.

Sóng bơ vơ thổn thức, sóng thét gào những nỗi đau, rồi sóng bạc đầu theo từng ký ức. Sóng chỉ biết yêu, yêu không ngừng nghỉ, dẫu cồn cào và tan nát, sóng chẳng thể đừng yêu. Giữa lòng đại dương trăn trở, con sóng bạc đầu đưa ta đi qua từng câu hứa, mỗi thoáng đam mê, giữa cuộc đời bộn bề những lo toan tính toán, để rồi một ngày:

“Hai vai run gánh đời lên nhắc nhở
Hỏi tháng năm xưa, câu hứa còn đi về?”

Sinh viên Đại học Oregon Trần Hải Sâm và sinh viên Đại học UC Los Angeles Đinh Ngọc Tấn đi chơi Hội Tết San Jose năm 2000 (Ảnh: Bùi Văn Phú)

Sinh viên Đại học Oregon Trần Hải Sâm và sinh viên Đại học UC Los Angeles Đinh Ngọc Tấn đi chơi Hội Tết San Jose năm 2000 (Ảnh: Bùi Văn Phú)

Bùi Văn Phú: Ba năm với đại dịch Covid-19, bên Mỹ này mọi người lo sợ trước cơn dịch hoành hành và chúng ta đã thấy người thân quen, người chung quanh phải vào bệnh viện rồi lặng lẽ vĩnh viễn ra đi. Khi dịch lan nhanh trên quê hương Việt Nam, chị đã viết ca khúc “Một Ngày Trên Quê Hương Tôi” có những ca từ vẽ lên hình ảnh cái chết lặng lẽ, cô đơn vì dịch, nghe rất buồn và gây xúc động.

“Nghe tiếng khóc báo người thân tắt thở
Ra đi giữa im lìm
Không hương khói chẳng một vòng hoa
Lặng lẽ hoá ra tro. Lặng lẽ hoá ra tro…”

Lời ca thật quá, có thể làm rơi lệ nhiều người. Nhất là những ai có người thân đã mất vì Covid. Hình như chị viết bài này rất nhanh, vì khi Sài Gòn và các tỉnh thành ở quê nhà toang thì chỉ một hai tuần sau đã có ca khúc này của chị ra đời với giọng hát Trần Thu Hà.

Trần Hải Sâm: Bài “Một Ngày Trên Quê Hương Tôi” được Hải Sâm viết trong một ngày, ngày 8 tháng 8, 2021. Lúc đó Sài Gòn đang chít khăn tang cho sự bùng phát khủng khiếp của nạn dịch Covid. Đây đó cách ly, gần xa phong tỏa. Hơn bao giờ hết, ta cảm nhận được hạnh phúc là những thứ gì đó thật giản đơn. Vì khi những thứ tầm thường giản đơn đó bỗng chốc trở thành xa xỉ, vượt khỏi tầm với, ta mới chợt nhận ra rằng, ta đã từng phung phí, đã từng thờ ơ, hay đã từng quá khắt khe, đã từng quá vội vàng cho một lần gặp gỡ, để rồi:

“Một ngày trên quê hương tôi
Giữa sân trường không còn ai lỡ hẹn
Viên phấn trên giảng đường côi cút nhớ chữ thầy cô…”

Thảm thương nhất là cảnh nhìn thấy từng người thân, bạn bè ra đi trong cô đơn tạnh vắng, không hương khói, chẳng một vòng hoa, cứ thế lặng lẽ hoá ra tro. Vài hôm trước đó thôi, còn bên nhau mắt môi vui cười, tay thon ngực ấm mà giờ chỉ còn lại một nắm tro tàn, để những người thân vẫn còn chưa khỏi bàng hoàng trong nỗi đau thương mất mát.

Trong vòng tháng 8 và tháng 9 năm 2021, Hải Sâm đã viết 4 bài hát về đại dịch Covid. Đầu tiên là bài “Một Ngày Trên Quê Hương Tôi,” sau đó là “Sài Gòn Đổ Lệ,” rồi “Ầu Ơ Lý Mồ Côi” và cuối cùng là “Sài Gòn Hồi Sinh.” Các bài này đã được phổ biến trên kênh YouTube của Trần Hải Sâm Music.

Bùi Văn Phú: “Sài Gòn Đổ Lệ” và “Sài Gòn Hồi Sinh” là hai trong bốn ca khúc của chị sau khi dịch Covid-19 qua đỉnh điểm, khi thế giới có thuốc tiêm ngừa. Chị sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, nhưng vì sao lại dành cho Sài Gòn nhiều tình cảm?

Trần Hải Sâm: Hải Sâm sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Một miền ký ức trong vắt, thơ ngây của tuổi thơ Hà Nội vẫn luôn ẩn hiện đi về qua từng lời ca nốt nhạc của Hải Sâm. Đặc biệt là mùa thu Hà Nội xao xác heo may, rượm vàng sắc lá. Thu Hà Nội đượm buồn với mưa ngâu, nhưng nồng nàn bên hoa sữa và rất đời, rất phố trong hương cốm xanh non, ngọt lòng người lữ khách. Hải Sâm đã có những bài hát về Hà Nội như “Hà Nội Tuổi Đi Về,” “Hà Nội Khúc Mưa Thu”.

Sài Gòn không phải là nơi Hải Sâm sinh ra hay lớn lên, không phải là miền ký ức của Hải Sâm, nhưng Sài Gòn là miền mơ ước, miền mong đợi, miền cuốn hút… Sài Gòn không có vẻ đẹp mong manh yểu điệu của mùa thu Hà Nội, mà Sài Gòn luôn bừng lên sức sống. Sài Gòn đẹp chộn rộn trong từng hơi thở, yêu ghét rõ ràng như hai mùa nắng mưa. Sài Gòn của hôm xưa, Sài Gòn của hôm nay, dẫu thay mưa đổi nắng, Sài Gòn vẫn không hề ráo mực trên những áng văn thơ. Sài Gòn có những ước mơ, Sài Gòn có miền đau quá khứ, Sài Gòn trăn trở những kiếp mưu sinh, nhưng Sài Gòn luôn nặng tình trong mỗi lần biến loạn. Sài Gòn vừa trải qua những tang thương mất mát của nạn dịch Covid, thành phố chít khăn tang, đèn đường hai hàng giăng lệ. Nhưng Sài Gòn chỉ quỵ xuống bên những nỗi đau, chứ Sài Gòn không bao giờ gục ngã.

Bùi Văn Phú: Được biết chị tốt nghiệp ngành nhân văn từ Đại học Quốc gia Hà Nội và từ Đại học Oregon, Hoa Kỳ, vậy kỷ năng sáng tác nhạc của chị có từ đâu?

Trần Hải Sâm: Âm nhạc đến với Hải Sâm một cách rất tình cờ, như một bông hoa dại nở muộn. Hải Sâm không qua một trường lớp âm nhạc hay khoá đào tạo nào. Những kiến thức căn bản về nhạc và guitar thì Hải Sâm tự học hỏi qua online, sách vở và bạn bè. Quá trình sáng tác cũng vậy, đó là một quá trình tự học, tự mò mẫm theo khả năng giới hạn và sự cảm nhận của riêng mình.

Đối với Hải Sâm, viết nhạc dường như là một cách làm thơ, dùng nốt nhạc để làm thơ, hay dùng thơ để tuôn ra ý nhạc. Có người sáng tác theo kiểu phổ thơ, tức là có thơ trước rồi phổ nhạc. Có người khác thì viết giai điệu trước rồi sau đó mới tìm lời bỏ vào. Hải Sâm thì sáng tác theo lối thơ và nhạc đi cùng với nhau, nên có thể bẻ thơ theo nhạc, hoặc bẻ nhạc theo thơ, không bị ràng buộc bởi một khuôn khổ đã được đặt trước.

Sau 3 năm sáng tác, nhìn lại, Hải Sâm nhận thấy những sáng tác của mình có lẽ là một sự kết tụ của những năm tháng đọc thơ và đọc sách từ lúc còn bé, cộng với những nhận thức và trải nghiệm cuộc đời sau này của mình.

Văn thơ là nguồn nhựa sống từ khi Hải Sâm bắt đầu biết nói. Ba của Hải Sâm rất yêu thơ và đã dạy cho con mình đọc thơ, nên kiến thức đầu tiên Hải Sâm được học có lẽ là thơ. Nhờ ba tập nói nên lúc 3, 4 tuổi Hải Sâm đã có thể đọc làu làu mấy trang truyện Kiều của Nguyễn Du, dù chưa biết đọc biết viết và chẳng hiểu gì.

Cách dạy con cái của ba Hải Sâm cũng rất đặc biệt, rất thơ. Hải Sâm lúc nhỏ hay thích bỏ tay xuống nước nghịch để khoắng nước cho sóng lên. Ba Hải Sâm không muốn Hải Sâm nghịch như vậy, nhưng ba không la hét cấm đoán, mà chỉ nhẹ nhàng nói: “Con đừng làm như vậy, đau nước. Nước đang ngủ bình yên, con đánh thức nước dậy và khuấy tung nước lên, nước sẽ đau lắm.” Thế là từ đó Hải Sâm không nghịch nước như vậy nữa. Ba dạy Hải Sâm cách nhìn nhận và ý thức những vấn đề xung quanh mình một cách rất thơ, rất đẹp.

Có lẽ, từ nhỏ, đầu óc Hải Sâm đã được, bị, và tự nhồi nhét trong một thế giới của những câu chữ, những ví von, những mày mò… và được nhặt hái, gom lại, rồi nhào nặn qua trải nghiệm của đời mình, để đến một ngày, những vốn liếng đó được cơ hội tuôn trào, bộc phá, được Hải Sâm trải lòng thành những tác phẩm của mình.

Nhưng nói cho cùng, khả năng sáng tác đối với Hải Sâm là một Ơn Trên, một món quà số phận mà Trời ban thưởng. Hải Sâm tin là mình không thể đi được tới đoạn đường này trong việc sáng tác nếu không có sự cầu bầu, soi sáng và dẫn dắt của Đức Mẹ Maria.

Bùi Văn Phú: Nhạc Việt chị thích những sáng tác của nhạc sĩ nào?

Trần Hải Sâm: Nếu Hải Sâm chỉ được chọn nêu tên một người nhạc sĩ thì đó là Trịnh Công Sơn. Hải Sâm yêu nhạc Trịnh, vì khi nghe những bài hát của ông, Hải Sâm luôn phải đặt câu hỏi, phải suy nghĩ, phải kiếm tìm. Những màu nhạc rất gần gũi, rất đời, đơn giản nhưng không tầm thường, chân chất nhưng rất thâm sâu. Các bài hát của Trịnh Công Sơn thường đượm màu triết lý, từng ca từ mang nhiều ý tứ ẩn dụ và cách dùng từ rất độc đáo, riêng biệt và rất giàu hình ảnh. Khi nghe một bài hát của Trịnh Công Sơn, Hải Sâm luôn phải dừng lại, phải suy nghĩ, phải tìm tòi, phải tận hưởng. Nó không phải là những cơn gió thoáng qua, mà luôn là một nỗi lòng, một suy tư cùng ở lại.

Bùi Văn Phú: Nếu chọn ba bài nhạc Việt mà chị thích nhất, đó là những bài hát nào?

Trần Hải Sâm: Ba bài nhạc Việt mà Hải Sâm thích là “Hạ Trắng” của Trịnh Công Sơn, “Cô Đơn” của Nguyễn Ánh 9 và bài “Đâu Phải Bởi Mùa Thu” của Phú Quang. Hải Sâm nghĩ sự lựa chọn trên có thể sẽ thay đổi tùy theo mỗi khúc quanh của con đường đời mà mình đang đi qua.

Bùi Văn Phú: Nếu phải chọn một bài hát tiêu biểu nhất của Trần Hải Sâm, đó là bài nào? Tại sao lại là bài hát đó?

Trần Hải Sâm: Câu hỏi này rất khó cho Hải Sâm trả lời. Mỗi bài hát là một đứa con tinh thần với màu sắc hoặc cá tính riêng biệt. Khó mà Hải Sâm có thể nói bài nhạc nào là bài tiêu biểu của mình.

Mỗi bài hát của Hải Sâm là một đứa con tinh thần với sự cộng hưởng của ba yếu tố chính: ca sĩ, nhạc sĩ hoà âm và bài hát. Mỗi bài hát như một cánh diều, không thể tự bay lên, mà nó cần những cơn gió, đó là tiếng hát và nét hoà âm. Mỗi bài hát là một nắm tơ, mà Hải Sâm như con tằm, cố gắng dùng hết nhựa sống của mình để nhả tơ, để tuôn trào mọi ngọn nguồn cảm xúc.

Bùi Văn Phú: Cám ơn nhạc sĩ Trần Hải Sâm đã dành thời giờ cho cuộc phỏng vấn này.

 

Kim Phượng sưu tầm * tổng hợp

 

NHẠC Trần Hải Sâm

 

Kim Phượng sưu tầm & Tổng hợp

 

 

Xem thêm...

Sơ Lược Về Cách Xưng Hô Của Người Việt - Trần Văn Giang

Sơ Lược Về Cách Xưng Hô Của Người Việt 

Trần Văn Giang

Lời Giới Thiệu:
 
Hiện nay, số người Việt sinh sống ở hải ngoại cũng khá đông -có đến 4 triệu người (?) - Có nhiều gia đình đã có 3-4 thế hệ sống bên ngoài Việt Nam. Vấn đề là các thế hệ trẻ ở hải ngoại rất lúng túng trong cách xưng hô khi phải cố gắng dùng tiếng Việt trong các giao tiếp gia đình và xã hội.
 
Nếu đã nói tiếng Việt trôi chảy, chúng ta thấy ngay trong cách xưng hô tiếng Việt, chẳng hạn qua sự đối thoại trò chuyện giữa hai người, chúng ta có thể biết qua mối quan hệ, sự tôn trọng, thái độ, giới tính và tình cảm giữa họ; trong khi trong Anh ngữ, sự hiểu biết về các tương quan như vậy rất khó mà biết ngay được!
 
Bài sưu tập nhỏ này có hai mục đích:
 
1- Nêu nên vài cách xưng hô cần thiết, đã được chấp nhận và dùng rộng rãi bởi số đông.
 
2- Người viết mạo muội đề nghị một vài phương cách đơn giản hóa và dân chủ hóa sự xưng hô với mục đích giảm thiểu sự lầm lẫn, khinh miệt vô cớ…
 
Người viết, ở tuổi 68, trông cậy vào sự chỉ giáo và sửa sai của các độc giả uyên bác về vấn đề “văn hóa” nặng ký này.
 
TVG
*
Gần đây, trong một buổi họp báo tại thành phố Westminster, Orange County, California của Ông Tạ Đức Trí, đương kim Thị Trưởng Mỹ gốc Việt, 44 tuổi sinh năm 1973 (?) có một ông người Việt trung niên muốn nếu lên một câu hỏi và gọi Ông Tạ Đức Trí là “Anh Thị Trưởng (?)” Dù là vô tình hay cố ý, đây là một sự xưng hô cẩu thả rất đáng trách; nhất là khi chúng ta luôn miệng nói rằng Việt cộng (v-xi) là “vô văn hóa / kém văn hóa v..v..” Theo tôi, Ông Tạ Đức Trí là một người đáng kính, với chức vụ Thị Trưởng dân cử của một thành phố khá lớn (Thành phố Westminster có 92,000 dân, trong đó 47.5% là gốc Á châu), không thể “được” một công dân thành phố gọi là một cách hỗn hào là “Anh” - ngoại trừ em trai của Ông Trí có thể làm như vậy thôi…
 
Tương tự, chúng ta không thể đứng ngay giữa công đường (không phải bàn nhậu) mà gọi “Anh Tổng Thống này” hay “Anh Thống Đốc nọ…” nghe chẳng những rất kỳ cục mà còn chứng tỏ người nói có một tư cách thiếu hẳn giáo dục tối thiểu. Nên biết vi-xi thường gọi “Thằng Diệm,” “Thằng Thiệu,” “Thằng Kỳ,” “Thằng Ních-xơn,” “Thằng Dơn-sơn…” đồng thời vi-xi gọi “Bác Hồ,” “Bác Tôn,” “Bác Mao…” Nhưng bây giờ, vì gió đã đổi chiều, vi-xi lại quay đầu 180 độ khúm núm trơ trẽn gọi Ông Ted Osius dù chỉ là Đại Sứ Hoa kỳ ở Việt Nam là “Ngài Đại Sứ?!” (Người viết xin nhắc là “Ngài Đại Sứ” còn bé / rất nhỏ bé so với “Thằng Tổng Thống” đấy các “bác vi-xi” à!)
 
Một vài thí dụ nho nhỏ được nêu ra ở trên để cho chúng ta thấy vấn đề xưng hô bằng tiếng Việt hôm nay cần phải được nhắc nhở sao cho đúng cách, không thể gọi tùy hứng bừa bãi; cũng có nghĩa là xưng hô vừa phải không cao quá đáng kịch cỡm; mà cũng không quá thấp đến mức độ thiếu giáo dục.
 
Đây là cả vấn đề văn hóa Việt chứ không riêng cho tiếng Việt.  Đã đề cập đến văn hóa thì rất tinh tế.  Xưng hô cho đúng không phải là chuyện dễ dàng, không cần học hỏi, bởi vì tiếng Việt dùng nhiều danh từ (nouns) khác nhau tùy theo quan hệ quen biết, tuổi tác, chức vụ, nghề nghiệp, tôn giáo, và tình trạng hôn nhân để gọi nhau thay vì chỉ dùng một số “đại danh từ” (pronouns) như trong tiếng Anh (You/me – Mày / Tao; Bạn / Tôi) và tương tự trong tiếng Pháp (Je/moi/tu/toi)…  Ngoài ra, trong văn viết, đơn từ, thư tín v..v.. vấn đề xưng hô còn phức tạp hơn nhiều; không thể nói hết ra ở bài viết ngắn này. 
 
Tôi đã đọc qua nhiều bài khảo cứu khá công phu của nhiều học giả khác nhau về vấn đề xưng hô.  Tôi xin phép được trích ra từ một số tài liệu đã có sẵn rồi thu gọn lại cộng với một ít kinh nghiệm bản thân để đem đến cùng quý vị quan tâm suy gẫm, khuyên bảo nếu cần.
 
I- Danh xưng và cách xưng hô trong gia đình Việt Nam
 
Khi nói chuyện với người lớn tuổi hơn mình, tốt hơn là phải luôn luôn dùng cách “thưa gửi” và “gọi dạ bảo vâng” chứ không bao giờ nói trống không với người trên, lớn tuổi, cao cấp hơn. Người Việt chúng ta thường dùng tiếng “thưa” trước khi xưng hô với người ở vai trên mình, chẳng hạn như: “Thưa mẹ con đi học…”  Đồng thời khi trả lời hoặc thưa điều gì với người lớn hơn mình bắt đều với chữ “Dạ, Vâng, Ạ” ” để tỏ vẻ kính trọng và lễ phép. Thí dụ: “Chào Cô ạ!” “Vâng ạ!”
 
Trong cách xưng hô với người ở vai trên, chúng ta tránh không gọi tên tục (tên cha mẹ đặt cho) của ông bà, cha mẹ, cô cậu, dì dượng, và chú bác. Chúng ta chỉ xưng hô bằng danh xưng ngôi thứ trong gia đình mà thôi. Chẳng hạn, ta chỉ nói đơn giản là: “Mời Chú ăn cơm…”  mà không  gọi tên tục của Chú ra trong lời mời.
 
Trong cách xưng hô với anh chị em, chúng ta có thể dùng chữ Anh, Chị hay Em trước tên hay ngôi thứ. Thí dụ: “Anh Tuấn đi vắng… “ v..v.. Các em nhỏ không được phép gọi anh chị bằng tên trống không. Tuy nhiên, anh chị có thể gọi các em bằng tên trống không hoặc tên có thêm chữ ngôi thứ vào.  Thí dụ “Em An đi lấy cho anh cây viết” hay “An lấy cho anh cây viết” đều được cả.
 
Những người con trong gia đình gọi nhau bằng “mày” và xưng “tao” là do lỗi của bố mẹ không dạy bảo các con ngay từ khi chúng còn nhỏ. Các con gọi nhau bằng mày xưng tao mãi rồi thành thói quen. Khi đã thành thói quen thì chúng không thể đổi cách xưng hô cho đúng phép được.
 
Cha mẹ nên dạy con cái về cách xưng hô ngay từ khi con trẻ còn nhỏ. Muốn chúng chào ai, cha mẹ phải nói cho chúng biết cách chào và bắt chúng lập lại nhiều lần khi bắt đầu.
 
A- Bậc Trên Cấp Cha Mẹ
 
Người sinh ra ta được gọi là Cha Mẹ. Cha mẹ của Cha mẹ, Cô, Dì, Chú, và Bác của chúng ta được gọi là Ông Bà. Cha mẹ của Ông bà được gọi là Cụ. Cha mẹ của Cụ được gọi là Kỵ. Các Ông cha đời trước nữa được gọi là Tổ Tiên. Cha Mẹ sinh ra Các Con.
 
- Bậc bề trên trên cha mẹ nói chung:  Ông bà tổ tiên.
 
- Theo thứ tự thời gian:  Ông-Bà-Cố-Tổ, Tằng tổ, Cao tổ.
 
- Cha mẹ của Cha hoặc của Mẹ:  Ông, Bà (nội hoặc ngoại).    
                              
Xưng hô với các bậc trên cấp Cha Mẹ này thì dùng chữ Cháu.
 
Ở ngôi thứ ba, tương quan với bậc từ Cố trở lên thì gọi là Chắt.
 
Ở một vài tỉnh miền Trung Ông Bà còn được gọi là "Ông Mệ.”
 
B- Cha Mẹ, Con Cái, Anh Chị Em, Vợ Chồng
 
1) Cha Mẹ Ruột
 
Cha Mẹ ruột được gọi rộng rãi qua nhiều danh từ như:
 
Bố mẹ, Cha mẹ, Ba má, Tía Má, Thầy U, Song thân… 
 
Trong trò chuyện thân mật ở ngôi thứ ba thì gọi là “Ông Bà già tôi,” Các Cụ chúng tôi, Ông Bà Nội các cháu (hoặc Ông Bà Ngoại các cháu) v..v..
 
- Cha: Cả 3 miền Bắc Trung Nam đều gọi là Cha, Ba. Trong văn chương và ngôi thứ ba còn gọi là Thân phụ, ông Cụ Thân sinh… trong trò chuyện thân mật ở ngôi thứ ba thì gọi là “Ông già”;
 
Bắc: Bố, Thầy, Cậu.  Ngôi thứ ba thì gọi “Ông Cụ nhà tôi”;
 
Nam: Tía;
 
Trung: một vài nơi gọi Cha bằng Chú.
 
- Mẹ: Cả 3 miền gọi là Mẹ. Trong văn chương và ngôi thứ ba còn gọi là Thân mẫu, Bà Cụ Thân sinh, Bà Cụ chúng tôi... “Bà già”; 
 
Bắc: Me, Mẹ, U, Bu, Đẻ, Cái, Bầm, Mợ;
 
Nam: Má; Vú
 
Trung: Mạ, Mệ
 
Trước đây trong chế độ đa thê, người con ruột gọi mẹ mình bằng Chị (?) nhưng gọi bà vợ chính của cha mình bằng Mẹ.
 
- Cha mẹ gọi con ruột mình là Con. Nhưng người Bắc thường xưng hô với con trai và con gái đã lớn tuổi, hay có gia đình rồi, của mình bằng Anh và Chị.
 
2) Cha Kế / Mẹ Kế
 
- Chồng của Mẹ (mà không phải cha ruột mình) gọi là Dượng; người Trung còn gọi là Trượng.
 
- Vợ của Cha (mà không phải mẹ ruột mình) gọi là Dì (ghẻ); Nếu là vợ chính của cha, trong chế độ gia đình xưa thì gọi là Mẹ.
 
3) Cha Mẹ Vợ
 
Cha mẹ vợ gồm có: Ông Bà Nhạc, Ông Nhạc, Bà Nhạc, Cha Mẹ vợ, Cha vợ, và Mẹ vợ, v.v.
 
Tiếng gọi Cha Vợ khi nói chuyện với bạn bè thân gồm có: Nhạc Phụ, Nhạc Gia, Bố Vợ, Ông Nhạc, Ông Ngoại các cháu, v.v.
 
Tiếng gọi Mẹ Vợ khi nói chuyện với bạn bè gồm có: Bà Nhạc, Bà Ngoại các cháu, Nhạc mẫu, v.v
 
4) Anh Chị Em Ruột
 
- Anh:  Cả 3 miền đều gọi Anh.  Trong văn chương ở ngôi thứ ba là Bào huynh.
 
Trung: một vài nơi gọi là “Eng” (?)
 
Người anh đầu lòng người Bắc gọi là Anh Cả, người Nam gọi là Anh Hai.
 
- Chị: Cả 3 miền gọi là Chị.
 
Trung: một vài vùng gọi là Ả.
 
- Em trai, Em gái:  Cả 3 miền gọi là Em. Trong văn chương gọi là bào đệ, bào muội.
 
Trung: Út. Nếu người Trung gọi em là Út, thì chữ Út nầy được người Nam và người Bắc hiểu là người em cuối trong gia đình. Người Trung dùng chữ “Tui” (là chữ Tôi nhưng âm hưởng là Em) để xưng hô với anh chị mình.
 
5) Anh Chị Con Cháu Qua Hôn Phối (in-laws)
 
- Chồng Chị và Chồng Em gái gọi là Anh Rể và Em Rể. Vợ anh và Vợ em trai gọi là Chị Dâu và Em Dâu.
 
- Vợ con trai mình gọi là Con Dâu, chồng con gái mình gọi là Con Rể.
 
- Cha, mẹ, anh, chị, em (của) chồng gọi là Cha chồng, Mẹ chồng, Chị chồng, Anh chồng, Em chồng. Cha, mẹ, anh, chị, em (của) vợ gọi là Cha Vợ, Mẹ Vợ, Anh Vợ, Chị Vợ, Em Vợ.
 
Nên biết thêm:  Khi xưng hô với nhau giữa hai người thì các chữ Rể, Dâu, Chồng, Vợ sẽ mất đi (Ví dụ Con Dâu nói với Mẹ Chồng: "Con xin phép Mẹ"; hoặc Cha Vợ với con Rể: “Cha nhờ con việc nầy") - Khi nói với người thứ ba thì thêm “Rể... tôi”: Con Rể tôi, Con Dâu tôi, Cha Chồng (vợ) tôi, Mẹ Chồng (vợ) tôi.
 
6) Vợ Chồng
 
Tình vợ chồng người Việt rất đằm thắm, chân tình.  Họ đối đãi với nhau rất lịch sự và tương kính.
 
Tiếng xưng hô của Chồng với Vợ trong gia đình gồm có: Em, Cưng, Mình, Bu nó, Má mày, Má nó, Má thằng cu, Mẹ nó, Bà, Bà nó, Mợ, Mợ nó, Mình, Bậu, v.v.
 
Tiếng Chồng gọi Vợ trong khi nói chuyện với người khác gồm có: Nhà tôi, Bà nhà tôi, Má tụi nhỏ, Má sắp nhỏ, Má bầy trẻ, Tiện nội, Nội tướng tôi, Bà xã, Bà xã tôi, Vợ tôi, v..v..
 
Tiếng xưng hô của Vợ với Chồng trong gia đình gồm có: Anh, Cưng, Anh nó, Ba, Ba nó, Bố, Bố nó, Bố mày, Bố thằng cu, Ông xã, Cậu, Cậu nó, Ông, Ông nó, Mình, v.v.
 
Tiếng Vợ gọi Chồng trong khi nói chuyện với người khác gồm: Nhà tôi, Ông nhà tôi, Ba tụi nhỏ, Ba sắp nhỏ, Phu quân tôi, Ông Xã, Ông Xã tôi, Ông Chồng tôi, Anh ấy, v.v.
 
Nên biết thêm: Tại một vài nơi ở miền Trung người ta gọi Cha hoặc Mạ và thêm tên đứa con đầu: chẳng hạn đứa con đầu tên Long thì vợ gọi chồng là “Cha thằng Long”; chồng gọi vợ là “Mạ thằng Long”; và người ngoài xung hô là “ông Long,” “Mụ Long” chứ không gọi tên thật (còn gọi là tên tục).
 
Những cặp vợ chồng đứng đắn, có giáo dục không bao giờ gọi nhau bằng “Mày,” “Thằng đó,” “Con đó” và xưng “Tao.” Họ tìm những lời lẽ dịu dàng đầy tình cảm yêu thương để gọi nhau. Chính vì thế mà tiếng xưng hô giữa vợ chồng người Việt có rất nhiều, hơn xa tiếng xưng hô của vợ chồng người Tây phương.
 
C- Anh Chị Em của Cha Mẹ, Anh Chị Em Họ
 
- Anh của cha: Cả 3 miền gọi là Bác.
 
- Vợ của anh cha: Cả 3 miền gọi là Bác.
 
- Em trai của cha: Cả 3 miền gọi là Chú.
 
- Vợ em trai của cha: Cả 3 miền gọi là Thím.
 
- Chị của cha: Bắc gọi là Bác; Trung, Nam gọi Cô (hoặc O)
 
- Chồng chị của cha: Bắc gọi là Bác; Trung, Nam: Dượng (hoặc Trượng)
 
- Em gái của cha: Bắc, Nam gọi Cô; Trung gọi O.
 
- Chồng em gái của cha: Bắc gọi Chú; Nam, Trung gọi Dượng (hay Trượng)
 
- Anh trai của mẹ: Bắc gọi Bác; Nam, Trung gọi Cậu  - người Trung còn gọi “Cụ” (?)
 
- Vợ anh trai của mẹ: Bắc gọi Bác; Trung, Nam gọi Mợ - người Trung còn gọi là Mự (?)
 
- Em trai của mẹ: Cả 3 miền gọi là Cậu - người Trung còn gọi là Cụ.
 
- Vợ em trai của mẹ: Cả 3 miền gọi là Mợ - người Trung còn gọi là “Mự.”
 
- Chị của mẹ: Bắc gọi Bác; Trung, Nam gọi Dì.
 
- Chồng chị của mẹ: Bắc gọi Bác; Trung, Nam gọi Dượng (Trượng).
 
- Em gái của mẹ: Cả 3 miền gọi là Dì.
 
- Chồng em gái của mẹ:  Bắc gọi Chú; Trung, Nam gọi Dượng (Trượng)
 
- Anh chị em họ: Cả 3 miền vẫn gọi là Anh, Chị, Em như anh chị em ruột. Nhưng cấp bậc anh chị họ có nơi dựa trên tuổi tác cá nhân, có nơi, đặc biệt ở miền Trung, thì tùy vị thế trên dưới của các bậc cha mẹ. Chẳng hạn người con của chú mình dầu lớn hơn mình cả 20 tuổi nhưng vẫn gọi mình bằng Anh và mình gọi lại bằng Chú (tức là Chú em).
 
- Bác, chú cô dì... gọi các con anh em mình bằng Cháu.
 
Trong cách xưng hô với anh chị em của cha mẹ, người Bắc ưu tiên tuổi tác khi gọi anh, chị cha và mẹ là Bác, và cấp nhỏ là Chú Cậu Cô Mợ và chứ không dùng chữ “Dượng.”
 
Nên biết thêm: Người Nam và Trung ưu tiên về nội ngoại, thân sơ. Dì thì luôn bên ngoại dù tuổi cao hay thấp, Cô (hoặc O) thì luôn bên nội dù là chị hay em của cha. Chú thì chỉ dùng cho em cha, thuộc bên nội thôi. Người không thuộc dòng máu cha mẹ thi gọi là Dượng (hay Trượng), Mợ, Thím để phân biệt với Bác Trai, Chú, Cô, Cậu là anh em ruột thịt. Chỉ có cách gọi Bác Gái (vợ anh trai của cha) là một ngoại lệ.
 
II- Xưng Hô ngoài xã hội
 
Ngoài xã hội, cách xưng hô từ trường học, cơ quan chính phủ, sở làm cho đến chợ búa thực ra không có một quy tắc, nguyên tắc hay định luật nào nhất định viết trên giấy tờ. Cách tốt (và an toàn) nhất là dù ở hoàn cảnh nào, vị trí nào, mình luôn luôn khiêm tốn, lịch sự, lễ phép, tình cảm và tế nhị; tránh làm phật lòng, xúc phạm người khác. Kết quả của sự cẩu thả, tủy tiện có thể gây đổ vỡ thiệt hại cho bản thân mình và người khác. Nên nhớ là “Golden Rules” (“So in everything, do to others what you would have them do to you” - Matthew 7:12” - Đừng làm cho người khác những gì mình không muốn người khác làm cho mình”) sẽ là chân lý cần thiết muôn đời: Tôn trọng người thì người sẽ tôn trọng mình là vậy.
 
1) Xưng hô ở nơi công cộng, chợ búa
 
Đây là hoàn cảnh dễ gây lúng túng nhất cho chúng ta bởi vì đối tượng là người xa lạ. Trường hợp này chúng ta phải tùy thuộc vào sự quan sát và ước đoán về tuổi tác và giới tính mà xưng hô. Điều cần nhất vẫn là phải khiêm tốn lễ phép và tế nhị. Tôi đề nghị một điều “Nếu mình ở thế kẹt, không biết phải xưng hô như thế nào cho phải phép, cho thỏa đáng thì cứ mạnh dạn hỏi người mình đang phải nói chuyện là mình nên gọi họ như thế nào?” Người Mỹ họ hay làm như vậy (“What should I call you?”); rất an toàn.
 
2) Xưng hô ở Trường Học
 
Văn hóa Việt Nam đề cao việc học hành và sự giáo dục; đồng thời kính trọng người dạy dỗ; xếp hạng và nâng cao bậc “Thầy, Cô” lên trên cả cấp sinh thành (bậc cha mẹ). Thành ra, lễ phép trong việc xưng hô với Thầy Cô là chuyện phải làm. Kể ra, xưng hô với Thầy Cô cũng đơn giản: “Thưa Thầy,” “Thưa Cô…” không gọi Thầy Cô bằng tên tục. Chúng ta có thể xưng Em (hay Con) là đủ. Ngay cả trường hợp ở dưới quê, học trò đi học trễ tuổi nên tuổi tác gần như suýt soát với Thầy Cô nhưng vẫn phải xưng hô với Thầy Cô như các học trò nhỏ khác. Ở bậc Đại Học thì có vẻ thông thoáng hơn. Sinh viên còn có thêm thông lệ xưng hô với Thầy Cô qua học hiệu như “Thưa Giáo Sư,” Thưa Tiến Sĩ…” Sinh viên lớn tuổi có thể xưng “Tôi” thay vì “Em” hay “Con.”
 
3) Xưng hô ở sở làm, tại các cơ quan chính quyền
 
Sở làm, nhất là công sở, không phải là gia đình do đó các nhân viên nam hay nữ phải thẳng thắn dùng đại danh từ cho ngôi thứ nhất là “Tôi” - không có ngoại lệ. Ngôi thứ hai (đối tượng được gọi) có thể được gọi là Ông, Bà hay Ông, Bà cộng thêm chức vị (Thí dụ: Ông Giám đốc, Bà Chủ Tịch Ban Quản Trị…). Tuyệt đối không dùng các danh xưng có tính cách thân mật quen thuộc của gia đình như Chú, Bác, Cô, Dì, Cậu Mợ, Thím, Anh, Em, Con, Cháu v.v.. Chuyện đáng buồn là ngày nay cách gọi thiếu dân chủ, thiếu đứng đắn, thiếu chuyên nghiệp loại này đã lan tràn qua mọi ngõ ngách lớn nhỏ của công sở đến cả các cấp cao nhất của chính phủ cộng sản và cả ngoài xã hội dân sự.
 
Tôi xin trích một đoạn đối thoại trong một cuộc họp báo tầm quốc gia về vấn đề lớn (đó là “cá chết / môi trường”) có tính cách quốc tế giữa ông Võ Tuấn Nhân, Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên Môi Trường của vi-xi và một phóng viên báo chí trong nước như sau:
 
Phóng viên: - Không. Không. Em chỉ hỏi là mình nên đưa ra một cái mốc thời gian…
 
Thứ Trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi Trường Võ Tuấn Nhân ngắt lời: - Không. Không. Để cho anh nói hết.  Nói riêng với em…
 
Trới đất! “Anh-Anh/Em-Em” cái nỗi gì ở chỗ đang nói chuyện đứng đắn và chuyên nghiệp này… Đây đâu có phải là lúc nói chuyện thường tình mà cứ phải dùng cái “văn hóa du kích” khi còn đắp mô đặt mìn chặn xe đò trong sự nghiệp “chống Mỹ cứu nước,” hay lúc tình cờ gặp nhau khi đang khiêng tải đạn dược, chuyển quân dụng ở trên “đường mòn Hồ Chí Minh” dưới “địa đạo Củ Chi?!” Tương tự, một vấn đề đã nêu ở trên của một ông người Việt tị nạn gọi Thị Trưởng Tạ Đức Trí là “Anh Thị Trưởng” cũng sai trái y hệt như vậy thôi: Hoàn toàn thiếu đứng đắn và rất chướng… Nghe rất bịnh.
 
III- Vài đề nghị thay đổi cách xưng hô
 
Qua sự phát triển nhanh chóng của khoa học và kỹ thuật, nhất là kỹ thuật tin học, chúng ta có cơ hội tiếp cận với các văn hóa lớn ngoài Việt Nam chỉ qua vài cái “bấm” trên “con chuột điện tử.” Có nhiều cái hay của họ mình nên học hỏi; đồng thời những cái gì tốt, những cái có tính cách cá biệt bản sắc dân tộc Việt Nam, chúng ta cần phải duy trì và phổ biến đến họ. Chúng ta sẵn sàng hòa nhập và hội nhập nhưng nhất định không chịu (để) văn hóa 4 ngàn năm của mình hòa tan (melting) vào những văn hóa lớn rồi bị tiềm thực. Tuy vậy, không nên quá bảo thủ: Cái hay cần học hỏi; cái dở nên bỏ bớt đi. Chúng ta không cần một cuộc cách mạng văn hóa mà chỉ cần một sự thay đổi thận trọng để thích hợp; nhất là cần một sự dân chủ hóa các lối gọi, xưng hô ở cơ quan chính quyền và ngoài xã hội. Người dân đen yếu nhỏ bé thiếu quyền lực, cũng như giới trẻ thiếu kinh nghiệm không thể bị gọi người lớn, cấp trên một cách thấp cấp khinh miệt như “Mày, “Chúng mày,” “Em,” “Cháu…”
 
“.. còn trời còn đất còn non nước,
có lẽ ta đâu mãi thế này.”
(NCT)
 
“… lời nói không mất tiền mua,
lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.”
(Ca dao)
 
Trần Văn Giang
Orange County, ngày 24 thàng 2 năm 2017
 
Tham khảo
-“Xưng Hô Trong Gia Đình Việt Nam” – Nguyễn Đăng Trác
-“Cách Xưng Hô Trong Gia Đình Việt Nam” – Cao Thu Cúc
-“Quan hệ Gia Đình Làng Xóm của Người Quảng Ngãi” - Địa Dư Chi Quảng Ngãi
-“Cách Xưng Hô và Quan Hệ Trong Gia Đình Dòng Họ” - Đinh Khắc Thiện
 
Nguồn: NV
 
Nam Mai sưu tầm
 
Xem thêm...

Thư Gửi Người Em Saigon - Yên Sơn

 Thư Gửi Người Em Saigon

Yên Sơn

ngày 13.08.15

Để hồi đáp bức thư “Lâu Ghê Mới Gặp!” (*)

Còn có khi nào mình gặp lại
Chút tình miên viễn trả hư không

Kingwood, ngày… tháng… năm…

Mình đã gặp lại nhau, đi với nhau trọn một tuần lễ đầy – dù hầu hết đi với đại gia đình của anh ngoài một vài lần riêng lẽ, nhất là lần cuối cùng ngồi đối diện nhau trong quán café quen thuộc – mà vẫn không thể nói được tất cả điều thầm kín trong cùng tận đáy lòng. Nay, nhân dịp hồi đáp thư em gửi, anh mượn nó để nói hết những gì cần nói một lần rồi thôi.

Anh không biết là em vô ý viết lộn hay cố tình viết lộn con số thời gian? 40 năm chứ đâu phải 20 năm hả em! Rất có thể em cố tình để nghe nó nhẹ bớt những trải nghiệm đau thương trong đời sống của mỗi chúng ta; hay là để nghe cho có lý về một cuộc tình dang dở của đôi tình nhân sau một thời gian dài biệt tăm, mất bóng. Phải rồi, đâu có ai phải đau thương trong hoài vọng suốt hơn nửa đời người phải không em? Sẽ rất khó cho người ta tin một người con gái có dư điều kiện, có thừa bản lãnh, thông minh, xinh đẹp như em mà vẫn sống như một loại chùm gởi trên thân cây Việt Nam ruỗng mục 40 năm dài!

Vâng, chúng mình đã không gặp nhau 40 năm dài; thời gian có thể đã dài cho một số phận nhỏ nhoi nào đó. Nhìn chung quanh quán café anh cũng thấy hoàn toàn khác lạ so với khung cảnh ấm cúng, riêng tư thuở nọ. Dĩ nhiên 40 năm mọi việc đã đổi khác hơn nhiều, nhưng có quá nhiều cái đổi khác làm cho người Saigon cũ nhức nhối, làm cho anh trở thành lạc lõng, xa lạ trên chính quê hương mình. Anh có cảm tưởng mình đang ở một đất nước nào đó ở thế giới thứ ba chứ không phải chính giữa Saigon, Hòn Ngọc Viễn Đông của thời trước 1975. Cảm tạ ơn trên em không quá thay đổi theo cái xã hội bát nháo, vô cùng rối loạn này mặc dù chúng ta có già hơn xưa rất nhiều. Chúng ta đã gần đi trọn một cuộc đời; tóc anh đã bạc gần trắng đầu và tóc em cũng đã lốm đốm màu sương… dù anh có vẻ ngạc nhiên khi nhận ra em không có quá nhiều thay đổi như những người đàn bà trang lứa.

Anh thật sự rất ngạc nhiên đến ngỡ ngàng để biết, để nghe em kể về đời sống của riêng em. Anh dù có nằm mơ cũng không thể tưởng tượng được một người con gái giỏi giang, đầy kiêu hãnh đến cao ngạo như em lại có một cuộc đời thật lạ. Đâu có ai có thể tưởng tượng sau bao nhiêu thăng trầm, lăn lộn trong cuộc sống mà em vẫn là một người con gái trinh bạch!

Anh xin lỗi đã xỉ vả, mắng mỏ cái thằng đàn bà – Lã Quới Vỹ – đã làm hỏng đời em. Nó là ai mà dám đối xử thậm tệ với em như vậy? Anh bất cần nó là ai, nếu nó còn thô bạo như vậy anh sẽ không tha nó đâu nếu anh gặp lại. Thấy em chống đỡ yếu ớt rồi ngồi im không nói anh càng nổi giận. Anh không biết tại sao anh giận dữ như vậy nếu không phải vì tình yêu em còn sâu đậm nhường ấy. Vâng, anh còn yêu em nhiều lắm nhưng… yêu để mà yêu, để mà tiếc một thời đã qua chứ anh bây giờ đang có một gia đình hạnh phúc, một người vợ tuyệt vời, anh không đòi hỏi gì hơn và anh cũng biết em rất vui khi biết như thế.

Mặc dù em đã hai lần lắc đầu khi anh ngỏ lời cầu hôn với em năm xưa. Cho tới bây giờ anh vẫn không biết tại sao em lại làm như vậy trong khi em đã làm tất cả những gì của một người đang yêu chứ đâu phải riêng anh tự biên tự diễn, yêu đương một chiều. Bằng chứng cho đến bây giờ em vẫn còn yêu anh mới nhận lời gặp anh, đi chơi chung với đại gia đình cả một tuần lễ; nói với anh những lời tử tế, chia sẻ với anh những vui buồn của cuộc sống mà nhất quyết không nhận ở anh bất cứ một thứ gì dù anh tha thiết ước muốn giữa lúc em có bao nhiêu khó khăn giăng mắc. Em vẫn kiêu kỳ, em vẫn là em.

Vâng, anh yêu em hơn là anh tưởng. Vài lần nắm được tay em cũng đã làm anh rung động chơn chất, giống như thưở ban đầu. Chúng ta đã cùng bật cười thành tiếng lần nắm tay nhau dưới gầm bàn trong một nhà hàng đông khách nọ. Nói đến đây anh lại nhớ những ngày xưa thân ái quá chừng. Ba Mẹ hai bên đã coi chúng ta như chồng vợ sắp cưới mà cũng chỉ được vài lần lén lút hôn nhau khi xe lửa qua hầm Đèo Cả trong lần anh xin phép đưa em về thăm quê hương Miền Trung của anh. Những nụ hôn vụng trộm để lại men say chất ngất giữa lòng trời đêm đầy trăng sao vời vợi. Em nói đúng, em là hiện thân của một dĩ vãng tuyệt vời của chúng ta, là đại diện của một Saigon dấu yêu đã thất lạc trong anh, trong lòng những người Sagon xưa cũ. Kể từ hôm em dứt khoát lắc đầu khi anh nói với em sẽ không có lần nữa; anh cay đắng rời khỏi sân trường, rủi dong chinh chiến, rồi vận nước điêu linh đưa đến suy tàn, anh đã theo dòng người vượt thoát làn sóng đỏ bắc phương.

Người phương bắc như em đã chứng kiến 40 năm qua, đâu có ai tin vào sự hoang đường giả tưởng mỵ dân của những kẻ rao giảng giải phóng ngoài những tên đồ tể lợi dụng lớp bọc để mưu cầu lợi ích riêng tư. Ai giải phóng ai tự nó đã trả lời. Chiếm miền Nam để đưa toàn dân đến thiên đường xã hội chủ nghĩa!? Thiên đường mù đó đã chứng minh là một bánh vẽ vô duyên, trâng tráo khi dân quân miền Bắc tiến vào thủ đô Saigon. Thế giới đại đồng của họ là một bình phong cho những cướp giựt trắng trợn; tình đồng chí của họ là những bao che cho nhau giữa những lục lọi, chiếm đoạt, giết chóc, hà hiếp miền Nam. Họ hô hào Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc cho ai nếu không chỉ dành riêng cho chính họ – những người miền Bắc đói kém và gia đình cách mạng điên cuồng ăn bánh vẽ! 40 năm! Một đất nước đầy tài nguyên, không có chiến tranh; một dân tộc cần cù chịu khó, thông minh… lại đứng gần áp chót của nghèo khổ, chậm tiến. Chưa kể tới một xã hội Việt Nam càng ngày càng băng hoại; từ tình cảm con người với con người, tới học đường, văn hóa, chính trị; đến tất cả cơ quan công quyền từ anh công an đứng đường cho đến quan chức ở thượng tầng lãnh đạo!

Thôi em nhé, dẹp hết đi, mình nói chuyện hiện tại, kẻo không máu của anh lại trào ra mắt, niềm tức giận làm nghẹn cả cổ, đầu óc mụ mị, u tối thêm.

Em hỏi anh gia đình vợ con ra sao, hạnh phúc không? Anh chưa kịp trả lời thì em đã rào đón trước, “đừng có than vợ khen con như hầu hết quý vị đàn ông mà em thường gặp. Và em chỉ muốn nghe chuyện của cá nhân anh thôi.” Em à, trước nhất anh không phải những người đàn ông em đã gặp; em biết tính anh mà, nếu không thể tốt hơn thì chẳng thể nào tệ hơn so với những ngày xa em. Một tuần đi chơi chung với gia đình chắc em cũng đã cảm nhận điều đó. Dù chúng ta cũng đã có lúc ngồi riêng với nhau nhưng sao vẫn không nói được điều muốn nói đang cháy bỏng trong lòng. Cá nhân anh không có thành tích gì đặc biệt và đáng hãnh diện cho lắm. Nhưng hãy xem như chúng mình là hai người bạn thân lâu ngày gặp lại; em hỏi anh trả lời thật thà, đứng đắn để biết về nhau thôi chứ không nhằm khoe cái hạnh phúc của riêng anh trước một cuộc đời em cay nghiệt.

Theo em biết đó, ngày cuối tháng tư 1975 anh đã phải chạy mất dép, bỏ lại cả gia đình cha mẹ anh chị em. Được bà Mẹ nuôi người Mỹ bảo trợ anh ra khỏi trại tỵ nạn sau vài tuần lăn lóc mất định hướng. Ra khỏi trại tỵ nạn ngày Thứ Bảy, sáng Chủ Nhật bà dắt đi nhà thờ để cảm tạ Chúa, Thứ Hai đi làm bán thời gian với một người bạn nhà thờ của Bà ấy… Kể từ đó, cuộc đời anh với bao nhiêu thăng trầm, nghiệt ngã… vì anh có nghề ngỗng gì đâu ngoài nghề học trò và nghề làm lính chiến! Anh đã cố gắng tối đa trở lại trường, vùi đầu vào sách vở, vừa đi làm vừa đi học, để không có thì giờ trống nghĩ ngợi, thương nhớ và lo lắng về gia đình vốn không có một tin tức nào, không biết trôi nổi ở đâu. Ba năm sau anh lập gia đình với một cô bạn học chung trường, chung lớp khi được tin Ba Mẹ anh chị em vẫn được bình an, chỉ tội cho anh Ba đã bị chúng nó đày ải trong các trại tù gọi tên cải tạo lâu dài.

Mãỉ tới năm 1980, vợ chồng anh mới xong đại học và cùng lúc chào đón đứa con trai đầu lòng; ba năm sau thêm một cô nương xinh xắn. Hai vợ chồng lại lao đầu vào thương mại nhưng không thành công cho lắm sau sáu năm xoay trở đủ chiều. Anh muốn có bốn đứa con cho vui nhà vui cửa nhưng trời chỉ cho có ba đứa. Cậu con trai út cách chị nó 6 tuổi. Hiện tại lũ nhỏ đã khôn lớn, đứa nào cũng đã học xong bốn năm đại học, riêng con bé học lên tới Cao học về Quản trị Tài chánh và cũng là đứa duy nhất đã an bề gia thất. Riêng anh đã nghỉ hưu vài năm rồi trong khi bà xã còn vài năm nữa mới chịu nghỉ.

Em nhắc lại bài thơ của em anh đã đọc thuộc lòng cho em nghe hôm sum họp. Em biết tại sao anh thuộc lòng bài thơ không có gì đặc sắc đó so với vô số bài viết giá trị của em không? Chắc em đã biết nhưng anh muốn một lần nói ra cho nhẹ lòng. Đó là vì anh ghen, anh tức, anh tự ái. Em từ chối lời cầu hôn của anh để rồi làm thơ cho mấy thằng Mi, thằng Thức! Thằng Mi dở dở ươn ươn sao sánh bằng anh được; còn thằng Thức thì hết bồ này tới bồ khác, đâu phải túyp người của em! Cho đến sau này anh mới nghiệm ra rằng em chỉ cố tình trêu chọc anh một cách vô tâm, hoặc cố ý thử lòng anh vậy thôi… ai ngờ sự thiếu chín chắn, thiếu kiên nhẫn của anh đã làm nên cảnh chia ly lâu dài. Suy đi nghĩ lại chỉ có anh mới xứng đáng làm người yêu, làm chồng của em thôi – không phải anh hợm mình như em biết đó – nhưng tại sao em cương quyết chối từ? Nếu em nói còn ham chơi, còn tiếc thời con gái, muốn tự do thêm một thời gian nữa sao em không thẳng thắn nói với anh? Anh sợ mất em chứ anh cũng đâu có gấp muốn lập gia đình! Lứa tuổi đôi mươi lo thân chưa được thì làm sao nuôi vợ nuôi con hả em? Tất cả chỉ vì anh quá yêu em và sợ mất em. Anh sợ mất em, đơn giản chỉ có thế thôi!

Hôm gặp em lần cuối trước khi rời Việt Nam, anh ao ước em có thể tới phi trường tiễn anh đi; vậy mà em lắc đầu. Lại lắc đầu! Anh cũng biết sự chia tay nào cũng buồn bã nhưng kinh nghiệm cái lắc đầu của em lần đó, anh sợ mình không đủ thời gian để chờ đợi thêm 40 năm nữa. Anh cố nài nỉ để nghe em nói “nếu có bao giờ anh thong dong tự tại một mình, anh thu dọn về đây sống với em những ngày tháng cuối đời.” Anh nói, “em chọc anh thôi chứ em cũng thừa biết là anh yêu vợ thương con đến nhường nào.” Em cười mỉm rồi cúi mặt để cho nước mắt lã chã rơi.

Em kể anh nghe giai thoại hài của bạn Ngọc nào đó của em – Chuyện “Lâu ghê mới gặp”. Mới đầu nghĩ lại anh bật cười khan một mình. Nhưng rồi, từ từ anh mới nghiệm ra… giai thoại cười của em kể dường như đầy ẩn dụ cay đắng đối với hoàn cảnh của chúng mình, của em. Thôi em à! Chuyện chúng mình đã là như thế, dù muốn dù không cũng nên chấp nhận thôi. Tình cảm anh với em cũng giống như tình cảnh Ba Má Ngọc. Họ cãi nhau, ly dị, nhưng trong lòng vẫn còn yêu nhau. Kịp đến khi nhận biết thì mọi chuyện đã muộn màng. Anh biết em vẫn còn yêu anh lắm và anh cũng đã nói với em “anh còn yêu em nhiều hơn anh tưởng”, nhưng số phận đã an bài cho mỗi chúng ta có riêng một lối về.

Xin hãy xem nhau như là một người bạn thân mến hơn bất cứ một người bạn thân mến nào. Mai sau – nếu không là 40 năm kế tiếp – chúng ta lại có dịp hạnh ngộ nhau lần nữa, dù chỉ để ngồi bên nhau, ngó nghiêng mà giải bày những u uất trong đời nhau như chúng ta đã làm trong mấy lần riêng lẽ vừa qua. Hãy nói với nhau bằng tất cả chân tình câu “Lâu ghê mới gặp” mà không cần phải tủi buồn, cay đắng gì thêm, em nhé.
Thương quý,

Thương quý,
Yên Sơn

(*) Chú thích: Trích đoạn bài viết “Lâu Ghê Mới Gặp” của Nguyễn Thị Minh Ngọc:

“Bạn đồng nghiệp tấu hài của Ngọc gặp nhau cứ chào: “Chà! Lâu ghê mới gặp!” rồi ré lên cười từng cơn trước khuôn mặt bẽn lẽn với một chút gì hạnh phúc của má nó. Thấy em ngơ ngác, tụi nó kể:

– Cô Ngân biết không, đêm qua lúc nhắc tụi em nhớ đến dự lễ 49 ngày của Ba nó, Ngọc có kể hai giai thoại trong ngày ba nó mất.

Giai thoại một, ai cũng biết ba má nó ly dị nhau đã lâu. Hình như ba nó bị một tình địch hành hung lén, nặng tới độ phải đưa vào bệnh viện cấp cứu trong trạng thái hôn mê. Chỗ ông nằm tấp nập các cô vô thăm. Khi má đưa tay lên mũi của ông xem hơi thơ, ba nó bỗng cắn chặt ngón tay bà như muốn nói một điều gì rồi… ông tịch luôn. Các cô khóc rộ lên, bị má nó trừng mắt: “Câm ngay mấy con đĩ chó kia, chồng tao phải để tao khóc trước!” Khi các bà kia tạnh im phăng phắc xong, má nó mới bung người ra khóc như một người lĩnh xướng, các bà Hai, bà Ba, bà Tư mới nỉ non làm dàn đệm đồng khóc bè theo.

Giai thoại hai, má nó lãnh phần tắm rửa thi thể cho ba nó. Xong phần tay chân mặt mũi, xong đến cổ, thân mình, bụng… tới chỗ “đàn ông” nhất, bà khựng lại vài giây rồi thở ra, có lẽ với một chút ngậm ngùi: – “Chà! Lâu ghê mới gặp!”

 

Xem thêm...
Theo dõi RSS này