Văn học nghệ thuật

Văn học nghệ thuật (1296)

Find out the latest local and worldwide news.

Children categories

Thơ

Thơ (26)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Âm nhạc

Âm nhạc (123)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Truyện

Truyện (257)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...

Bưu chính Việt Nam xưa

 Bưu chính Việt Nam xưa

 Trong thời kỳ chiến tranh và cả ngày nay, thông tin luôn là yếu tố quan trọng trong hầu hết mọi hoàn cảnh. Vì vậy ngay khi người Pháp vào được Sài Gòn họ đã thiết lập một trung tâm liên lạc để có thể nắm bắt tình hình thực tế trong mọi trường hợp.

Nhà dây thép (bưu điện) được người Pháp xây dựng đầu tiên vào năm 1860 khi chiếm được Sài Gòn (Nguồn: Manhhaiflickr)

Ngày còn đi học, trong giờ sử cô giáo đặt câu hỏi phương tiện vận chuyển bưu chính thời xưa. Đám học trò giơ tay xin trả lời nhưng cô giáo hướng mắt về bộ mặt ngơ ngác của tôi. Tôi đứng dậy lòng đầy bối rối, nói đại là chạy bộ marathon cho xong. Cả lớp ồ lên khiến tôi đỏ mặt. Nào ngờ cô giáo khen rằng “đúng”. Cô giải thích, chuyện một chiến binh Hy Lạp trong trận chiến từ thành Marathon đã chạy hết quãng đường hơn 42 km để đưa thư chiến thắng về thành Athens rồi đứt hơi ngã lăn ra chết. Từ đó, trong thể thao điền kinh có môn chạy Marathon ghi nhớ công lao của anh lính chuyển thư kiểu này.

Chuyện xưa tích cũ ngàn năm, ấy vậy mà khi tôi nhìn những tấm ảnh lịch sử bưu chính Việt Nam vào thời Pháp mới chiếm xong 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ lại thấy bùi ngùi cho nghề giao chuyển thư bằng “xe lô ca chân” (đi bộ). Hồi đó, đường sá chưa có, khắp nơi rừng rậm vây quanh, thú dữ luôn đe doạ tính mạng của người khuân gánh thư giao chuyển cho các bưu trạm để kết nối liên lạc với chính quyền các vùng trong tỉnh.

Con tem phát hành đầu tiên tại Sài Gòn năm 1863 có hình con đại bàng, cho nên dân chúng gọi con tem là tem con cò (Ảnh: Internet)

“Con cò”

Đọc “Đất Gia Định xưa” của nhà văn Sơn Nam mới hình dung vào thời Pháp chiếm Bến Nghé, ngoài khu vực nhỏ của thành Gia Định rộng vài ba cây số vuông, Sài Gòn còn là nơi nê địa hoang vu, rộng ra các vùng xa chung quanh là Đồng Nai, Bình Dương chưa có đường bộ thông suốt mà chỉ là một vài con lộ nhỏ giao thông bằng phương tiện đi chân đất hoặc xe ngựa, xe bò. Sau khi chiếm Gia Định, người Pháp thành lập ngay bưu cục để bảo đảm thông tin liên lạc cho bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Sài Gòn với chính phủ tại Pháp. Bên cạnh đó, bưu cục là nơi nhận chuyển thư từ của binh lính Pháp về cho thân nhân và ngược lại, chứ người dân An Nam trong nước chưa hề biết chuyển một lá thư theo cách thức trên góc phải bìa thư có dán con tem mà dân mình gọi là con cò.

Con cò ra sao, cho tôi mạn phép dông dài đôi chút về hình ảnh con cò thân thuộc đối với người dân Việt. Thời Pháp thiết lập bưu cục, dân ta chẳng biết mô tê gì về các loại tem (stamp) thư. Ngay thời vua chúa phong kiến, thư từ, bưu kiện chuyển đi từ các bưu trạm bằng ngựa cũng chỉ niêm đóng dấu bằng mực đỏ. Liên lạc thư tín, công văn chỉ dùng trong chính quyền quan lại không phải mất tiền vận chuyển. Khi người Pháp cho phát hành con tem hình vuông có vẽ hình con chim phượng hoàng, biểu tượng của hoàng đế Napoleon dán lên bao thư như một chức năng thanh toán vận chuyển thì người Việt mình thấy con chim có cái cổ dài không khác con cò nên gọi con tem là con cò cho tiện.

Theo tài liệu lịch sử bưu điện thời Pháp thuộc thì Nhà Bưu chính đầu tiên khánh thành tại Sài Gòn năm 1863 và đưa vào sử dụng công cộng một năm sau đó. Tuy nhiên trước đó, người Pháp đã thiết lập đường dây thép đầu tiên Sài Gòn – Biên Hoà dài 28 km nối liên lạc với vùng đất Nông Nại đại phố sung túc một thời từ khi Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh chúa Nguyễn vào Nam phân chia địa giới, lập xứ Đồng Nai. Và tiếp theo là những cột dây thép mọc lên ở các tỉnh miền Nam kết nối giao thông liên lạc qua đường dây điện tín. Đến năm 1872, hệ thống thông tin điện tín đã mở rộng nhiều vùng Đông Nam bộ với tổng số đường dây lên đến 6,600 km trong đó có cả 36 đường cáp ngầm chui qua những con sông. 

Cột cờ Thủ Ngữ

Trong “Gia Định phong cảnh quốc âm ca vịnh” – tác giả Hai Đức ghi rằng: Gia Tân nền trạm thuở xưa / Ngày nay có dựng cột cờ gần bên (chỗ Cột cờ Thủ Ngữ ở bến Bạch Đằng) / Tư bề dây thép giăng lên / Lưu thông các thứ báo tin truyền lời”. Dù vậy, việc sử dụng thư từ, đánh dây thép vẫn còn là chuyện xa xỉ đối với người dân nghèo Sài Gòn – Chợ Lớn và cả vùng Nam bộ. Giá tiền thuở ban đầu đó là con tem mất 4 xu (tương đương 1.3 kg gạo), một bức điện tín đánh đi ít nhất phải tốn 20 kg gạo.

Thời chưa có xe vận chuyển, thư từ bưu phẩm phải vận chuyển bằng sức người đi bộ (Nguồn: Manhhaiflickr)

“Xe tờ”

Sau đó bưu điện đã mở thêm nhiều dịch vụ vận chuyển bưu kiện, hàng hoá. Tuy nhiên chủ yếu vẫn là dịch vụ phục vụ dành cho khách hàng người Pháp và người giàu có.

Đây là thời gian phát triển ngành bưu điện vận chuyển giao phát thư từ, hàng hoá không còn dùng người gánh vác đi chân trần trên đường đất mà chuyển qua dùng xe ngựa thay thế cho nhanh vì lúc đó đường bộ bắt đầu được mở rộng kết nối nhiều tỉnh lỵ lân cận và việc giao chuyển thư từ, công văn đã dùng xe kéo, xe ngựa. Ở các vùng Tây Nguyên còn dùng đến voi thồ. Ca dao ghi nhận rằng: Biên Hoà còn dạng xe tờ / Mới bày bảy giờ xe máy Tây Ninh”.

Xe tờ là xe gì mà dùng trong vận chuyển cho ngành bưu chính. Tìm hiểu thêm thì ra đó là xe có 2 ngựa kéo một thùng rộng 4 bánh. Thùng xe cao có 2 băng ghế khách ngồi đối diện nhau. Loại xe này là kiểu xe ngựa dùng bên Pháp, nhận thêm nhiệm vụ vận chuyển bưu kiện, thư từ, tờ trác, công văn của chính quyền nên người dân gọi gọn “xe tờ” cho tiện, chứ lúc đó chưa gọi “xe thơ” như sau này bưu điện nhờ xe đò vận chuyển. Đến năm 1900, Bưu điện Sài Gòn xin độc quyền vận chuyển vật phẩm bưu chính bằng xe hơi gọi là omnibus automobile nhưng đến năm 1903 chiếc xe hơi đầu tiên mới theo tàu cập bến Sài Gòn.

“Xe máy”

Việc phân phát thư từ, điện tín, bưu phẩm ở các tỉnh như Tây Ninh, Gò Công đã dùng xe đạp mà người dân quen gọi là xe máy. Mãi đến năm 1917, các trạm bưu điện mới trang bị xe đạp. Nguyên cả tỉnh Gò Công, bưu điện được cấp cho 4 chiếc xe đạp, lúc này chính quyền phải thuê một “chuyên gia” người Pháp từ Sài Gòn về hướng dẫn cách đạp xe. Nhà dây thép Tây Ninh có 10 chiếc xe máy để phân phát thư. Hình ảnh chiếc xe đạp sườn ngang bằng nhôm, trên yên sau vắt ngang hai cái túi da với tiếng gọi tên chủ nhà ra nhận thư của người bưu tá thật khó quên đối với nhiều người lớn tuổi kéo dài nhiều thập niên. Trong khi đó ở Sài Gòn trước khi dùng xe đạp giao phát thư, người bưu tá còn ngồi xe kéo giống như ông chủ bảnh tẻn, người phu kéo xe dừng từng nhà, ông bưu tá dõng dạc kêu tên gia chủ ra nhận thư. Còn người muốn gởi thư phải đích thân đi ra nhà dây thép, chứ người phát thư không nhận. Đến sau này thời Cộng Hoà, ngành bưu chính mới cho đặt các thùng thư công cộng trên các đường phố để người dân tiện việc gởi thư mà không mất thời gian đi ra bưu điện. Mỗi ngày hai lần có nhân viên bưu điện đến mở thùng lấy thư giao cho bưu điện trung tâm phân phối về bưu điện quận hoặc chuyển đi các tỉnh theo xe đò.

Xe vận chuyển thư từ hồi đầu thế kỷ 20 tại Sài Gòn (Nguồn: Manhhaiflickr)

“Nhà dây thép”

Đầu thập niên 20, Pháp đã thiết lập hệ thống nhà dây thép ở các tỉnh miền Nam và mãi đến cuối thập niên này, hệ thống nhà dây thép miền Trung và miền Bắc mới được hoàn chỉnh, đồng thời thành lập luôn hàng không bưu chính từ Đông Dương qua Pháp. Thư từ, bưu phẩm vẫn phải nhờ xe đò tư nhân làm nhiệm vụ trung chuyển. Chủ xe không nhận tiền thù lao mà được hưởng quyền ưu tiên chạy qua các chốt cảnh sát xét hỏi an ninh, ưu tiên qua cầu phà trước không cần xếp hàng nối đuôi. Do đó, nhiều nhà xe các tỉnh tình nguyện nhận nhiệm vụ này. Chuyến xe từ Sài Gòn đi mỗi tỉnh mỗi ngày đều có 3, 4 chuyến xe thơ. Chủ xe chỉ cần treo tấm bảng “xe thơ” chữ màu đỏ phía trước. Nhiều hành khách thích đi xe thơ vì xe ưu tiên, nhanh chóng về quê mà không phải mất thời gian chờ đợi qua phà. Ngoài xe đò chở thơ, còn các phương tiện giao thông khác như tàu thuỷ, tàu hỏa, tàu bay cũng tham gia vận chuyển các loại bưu phẩm của ngành bưu chính.

Người bạn cùng thời với tôi bỏ nghề dạy học mặc dầu sắp tới tuổi hưu, thành lập công ty chuyển phát nhanh cạnh tranh với nhiều công ty dịch vụ bưu chính khác. Bạn nói: “Bây giờ thông tin liên lạc viễn thông điện tử ở Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung đã thay thế nhiều chức năng giao nhận thư của ngành bưu chính. Bưu điện hầu như chỉ còn làm dịch vụ giao chuyển bưu phẩm”. Riêng tôi lại nghĩ đến những thùng thư công cộng trên các đường phố chẳng biết còn không hoặc đứng trơ gan cùng tuế nguyệt. Và từ sau 1975, xe đò chở thơ cũng chẳng còn nhiệm vụ vì bưu điện các tỉnh đều trang bị xe chuyên dùng.

Trang Nguyên

Xem thêm...

PHONG TỤC KỲ LẠ CỦA NGƯỜI ANH XƯA: MANG VỢ RA CHỢ...BÁN

PHONG TỤC KỲ LẠ CỦA NGƯỜI ANH XƯA:

MANG VỢ RA CHỢ...BÁN

Nhiều người không tin nhưng đây là câu chuyện hoàn toàn có thật. Cho đến đầu những năm 1900, tất cả đàn ông ở Anh đều được phép bán vợ công khai cho người trả giá cao nhất.



Nhiều người không tin nhưng đây là câu chuyện hoàn toàn có thật. Cho đến đầu những năm 1900, tất cả đàn ông ở Anh đều được phép bán vợ công khai cho người trả giá cao nhất.

Vào tháng 4/1832, anh nông dân Joseph Thomson đưa vợ ra khu chợ ở thành phố cũ Carlisle để rao bán. Trước sự chứng kiến của đám đông, Thomson ngồi trên một chiếc ghế gỗ sồi lớn, cầm trên tay sợi dây thừng quấn quanh cổ vợ và nói: “Thưa các quý ông, tôi xin giới thiệu vợ tôi Mary Anne Thomson, trước đây là Williams, người tôi sẽ bán cho ai trả giá cao nhất và tốt nhất. Tôi lấy cô ta để thỏa mãn ham muốn của bản thân và chăm lo cho gia đình nhưng cô ta giờ đã trở thành một kẻ khó ưa, một lời nguyền và quỷ dữ”.

Thomson nói thêm: “Mary cũng có những mặt tốt. Cô ta có thể đọc tiểu thuyết và vắt sữa bò. Cô ta cười khóc dễ dàng như khi các ngài uống cạn một cốc bia để giải khát. Cô ta có thể làm bơ, đốc thúc người giúp việc, và hát các giai điệu Moore. Mary không giỏi nấu rượu nhưng cô ta thử và đánh giá chất lượng rượu rất chính xác. Do đó, tôi xin ra giá là 15 si – ling”. Cuộc đấu giá kéo dài trong một giờ đồng hồ và Mary được bán cho Henry Mears với giá 1 bảng Anh cộng thêm một chú chó Newfoundland.

Phong tục kỳ lạ của người Anh xưa: Mang vợ ra chợ... bán

Kỷ nguyên vàng

“Rao bán vợ” phổ biến nhất vào giữa những năm 1780 – 1850. Theo sử ký, gần 300 phụ nữ đã bị bán trong thời kỳ này. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng con số thực còn lớn hơn do rất nhiều cuộc đấu giá đã diễn ra bí mật.

Mục đích của tổ chức đấu giá công khai là để mọi người ngầm công nhận vai trò và trách nhiệm của người đàn ông đã kết thúc. Người chồng sẽ không còn phải lo cái ăn và chỗ ở cho người vợ cũ sau khi đã bán cô ta cho một người đàn ông khác. Mặc dù vậy, về mặt pháp luật và đối với nhà thờ, hai người này vẫn còn quan hệ vợ chồng.

Một trong những “thương vụ” bán vợ đầu tiên được ghi chép bắt đầu vào năm 1733 ở Birmingham, miền trung nước Anh. Báo địa phương đưa tin, người đàn ông có tên Samuel Whitehouse đã bán người vợ có tên Mary cho Thomas Grifiths tại một khu chợ sau khi thống nhất mức giá cuối cùng 5 si – linh và 6 xu. Thỏa thuận “nhượng vợ” của Samuel có ghi rõ Grifiths phải chấp nhận Mary bằng cả con người cô ấy, bao gồm cả những tật xấu.

Cũng có thời kỳ, giá của những người vợ khá rẻ mạt. Năm 1801, một người phụ nữ được mua lại với giá chỉ một xu. Thậm chí, có người đàn ông còn chấp nhận đổi một nửa đời mình chỉ để lấy một thùng bia. Đôi khi những người vợ cũng được định giá dựa trên cân nặng của họ.
Một người đàn ông đang rất cần tiền phải bán vợ mình ở Guthrie, Oklahoma.

Lối thoát cho hôn nhân bế tắc

Sau khi tòa án ly hôn đầu tiên được thành lập ở Anh vào năm 1857, việc bỏ vợ trở nên vô cùng khó khăn và tốn kém. Ở thế kỷ 19, mức án phí ly hôn có thể lên đến 3.000 bảng Anh (tương đương 20.000 USD ngày nay) do nghị viện phải lập một bộ luật dành riêng cho những người vợ hợp pháp. Đối với các quận nghèo như West Midlands, ly hôn theo kiểu truyền thống là điều gần như không thể, do đó các ông chồng đã chọn cách rao bán vợ của mình như một món hàng.

Theo thông lệ, đàn ông “dắt” vợ ra chợ bán với một chiếc dây thừng tròng quanh cổ hoặc quấn quanh eo giống như vật nuôi. Người vợ sẽ đeo sợi dây đó cho đến lúc về nhà chồng mới và chỉ tháo ra sau khi đã bước qua ngưỡng cửa. Tập tục này thường thấy ở các vùng nông thôn Anh trong những năm 1800. Cuộc trả giá diễn ra trong khung cảnh hỗn loạn, đám đông tụ họp chế giễu và cười đùa, trong đó những người đàn ông độc thân tranh nhau hét giá. Một khi thỏa thuận mua bán được thông qua, các bên liên quan và hầu hết đám đông sẽ đến quán rượu trong vùng để ăn mừng. Các anh chồng sẽ dùng số tiền bán vợ để mời mọi người trong quán, bao gồm cả vợ cũ và chồng mới của cô ta. “Rao bán vợ” không chỉ cách nhanh nhất và đơn giản nhất để các cặp vợ chồng ly thân mà còn là trò tiêu khiển cho dân làng.

Mặc dù bị đối xử tồi tệ nhưng những người phụ nữ này không có vẻ gì là oan ức, thậm chí họ còn tình nguyện để bị bán. Trên thực tế, đa số cuộc rao bán đều có sự đồng thuận của cả hai vợ chồng. Một người phụ nữ bị đem đi đấu giá ở Wenlock năm 1830 đã viết một dòng nhắn nhủ cho chồng rằng “tôi sẽ được bán, tôi muốn thay đổi” sau khi anh này thay đổi ý định. Rất nhiều trường hợp, phụ nữ được nhượng lại cho chính người tình của họ với cái giá được thỏa thuận trước khi đấu giá công khai.

Ảnh minh họa trong tiểu thuyết "Thị Trưởng Casterbridge" của Thomas Hardy về một người đàn ông bán vợ mình cho người trả giá cao nhất.

Ly hôn vợ thông qua rao bán không hoàn toàn hợp pháp, song chính quyền địa phương thường làm ngơ cho qua, trong khi phía nhà thờ và chính quyền ra sức phản đối. Sau này, khi việc rao bán phụ nữ dần bị hạn chế, nhiều người đàn ông phải ra hầu tòa và lĩnh án phạt lên tới 6 tháng tù giam. Năm 1855, việc mua bán phụ nữ đặc biệt không còn được ủng hộ như trước. Tại thị trấn Chipping Norton ở Costwolds, một người đàn ông bán vợ của mình và nhận được 25 bảng Anh, một khoản tiền hời với giá khởi điểm chỉ 25 xu. Ba đêm đầu tiên sau cuộc đấu giá, người vợ và chồng mới bị dân làng mắng chửi thậm tệ. Đến đêm thứ ba, khi hình nộm rơm bị đốt trước cửa nhà, anh chồng mới đành phải chịu thua và trả thêm tiền để chồng cũ mang cô vợ trở về nhà.

 
Bảo Anh / Theo: Dân Việt
 
Xem thêm...

“Tôi vẽ đời em” .Đi nghe nhạc Trần Hải Sâm ở San Jose

 “Tôi vẽ đời em” .

Đi nghe nhạc Trần Hải Sâm ở San Jose



BuiVanPhu_2023_0531_ChieuNhacTranHaiSam_H01
Nhạc sĩ Trần Hải Sâm trong chiều nhạc “Tôi vẽ đời em” .
 

Đi nghe nhạc Trần Hải Sâm ở San Jose

Bùi Văn Phú

Hi Sâm đã viết my ca khúc v ni kinh hoàng và nim đau do dch gây ra cho nhiu gia đình người Vit qu