mà tìm…”
Nhạc sĩ Thanh Sơn, ông hoàng
của những tình khúc mùa Hè
Nói về những ca khúc mang dấu ấn mùa Hè, ông hoàng của những nỗi buồn mùa phượng nở, ít ai có thể sánh ngang với nhạc sĩ Thanh Sơn (1938-2012). Dân mê Bolero, hầu như ai cũng biết những bài hát tuổi hoa niên, ngập tràn những giai điệu thổn thức của ông như Nỗi Buồn Hoa Phượng, Hạ Buồn, Phượng Buồn, Ba Tháng Tạ Từ, Lưu Bút Ngày Xanh…
Dân trong làng âm nhạc coi nhạc sĩ Thanh Sơn là bậc đàn anh dòng nhạc về tuổi trẻ, nhớ thương và vụng dại. Nhiều năm sau 1975, ông thường ngồi trong một quán cafe nhỏ trên đường Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần, Quận 3) để trò chuyện với những người cùng thời như nhạc sĩ Hoàng Trang, Mặc Thế Nhân, Hàn Châu… và đồng thời để tìm bài vở, góp làm các album. Vốn từ năm 2000, nhạc sĩ Thanh Sơn nhận làm biên tập, tức vai trò thu thập bài vở, tổ chức các chương trình ca nhạc mới cho Trung Tâm Rạng Đông. Vào thời điểm những ca sĩ hải ngoại bắt đầu về Việt Nam, và một số bài hát cũ được duyệt để in vào CD, nhạc sĩ Thanh Sơn hay giúp cho anh em bạn bằng cách đưa những bài hát đã sáng tác từ thời trước năm 1975 vào chương trình.
Thanh Sơn tên thật là Lê Văn Thiện, ông sinh năm 1938 (có tài liệu ghi là 1940) tại Sóc Trăng. Thanh Sơn được sinh ra trong một gia đình có 12 người con, ông là người con thứ mười.
Năm 1955, nhạc sĩ Thanh Sơn lưu lạc ở Sài Gòn, và bắt đầu học nhạc với nhạc sĩ Lê Thương. Nhưng lúc đầu, ông không nghĩ mình sẽ trở thành một nhạc sĩ mà mơ đến chuyện được đứng trên sân khấu như một ca sĩ. Ngoài giờ học nhạc và làm việc, nhạc sĩ Thanh Sơn cứ mở đài phát thanh để nghe những bài hát mới và tập hát theo.
Và rồi đến năm 1959, Thanh Sơn ghi danh tham dự cuộc tuyển chọn ca sĩ của Đài phát thanh Sài Gòn. Lúc này ông trình bày nhạc phẩm Chiều Tàn của nhạc sĩ Lam Phương và đã đạt giải nhất trong cuộc thi. Tiếc là bây giờ không còn băng ghi âm lưu trữ để mọi người nghe lại, nhưng lúc đó, nhạc sĩ Thanh Sơn đã hát hay và vượt lên nhiều thí sinh, mà sau này đều trở thành những ca sĩ lừng danh như: Phương Dung, Chế Linh, Nhật Thiên Lan… Ban giám khảo trong cuộc thi đó là những người có tên tuổi như: Võ Đức Thu, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Nghiêm Phú Phi.
Sau khi đoạt giải nhất, Thanh Sơn được mời đi hát trong ban Tiếng tơ đồng của Hoàng Trọng. Ông được mời lưu diễn ở nhiều nơi, và mời ghi âm ở Đài phát thanh. Lúc sinh thời, nhạc sĩ Thanh Sơn kể lại chuyện này với nụ cười mỉm “hồi đó, mình nghe người ta hát trên đài mà mê, không biết chừng nào mới có dịp đến mình. Đến khi nghe Đài phát lại mấy bài hát của mình, mới ngạc nhiên sao đời như giấc mộng”. Chuyện ca hát của nhạc sĩ Thanh Sơn thành công đến mức được mời vào diễn trong đoàn Văn nghệ Việt Nam của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ. Năm 1960, ông tham gia hát ở vũ trường Maxim’s và được tham gia đi lưu diễn ở một số quốc gia như: Lào, Miên, Tân Gia Ba, Mã Lai, Nam Dương…
Năm 1965, Thanh Sơn gia nhập quân đội và phục vụ trong binh chủng Quân Vận, sau đó ông được chuyển về Tổng Tham Mưu và vẫn tiếp tục công việc sáng tác. Trong thời gian này, Thanh Sơn đã cho ra đời nhiều ca khúc nổi tiếng viết về đề tài người lính VNCH, nhất là ca khúc Mười Năm Tái Ngộ rất được mọi người yêu thích qua tiếng hát của nữ ca sĩ Phương Dung.
Chuyện sáng tác của nhạc sĩ Thanh Sơn bắt đầu từ việc ông xin nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ hướng dẫn cho mình, đọc thêm các sách vở âm nhạc khác. Năm 1960, khán giả bắt đầu biết cái tên Thanh Sơn qua nhạc phẩm Lưu Bút Ngày Xanh. Đó cũng là giai đoạn khởi đầu việc hình thành nhiều bài hát học trò, mùa Hè… nổi tiếng của ông. Thích thú với vai trò sáng tác, nhạc sĩ Thanh Sơn bắt đầu cho ra hàng loạt các ca khúc mới, được nhiều nhà xuất bản nhạc giấy chào đón. Đặc biệt trong chuỗi Nỗi Buồn Hoa Phượng của ông được coi như là một nhạc khúc đi liền với giọng hát Thanh Tuyền, trở thành một di sản đặc biệt của tình ca mùa Hè, nền văn nghệ Việt Nam.
Sau năm 1975, phải mất một thời gian dài, nhạc sĩ Thanh Sơn mới sáng tác lại. Lập tức ông được khán giả đón nhận nồng nhiệt qua các tác phẩm như Gợi Nhớ Quê Hương, Hình Bóng Quê Nhà, Hương Tóc Mạ Non, Hành Trình Trên Đất Phù Sa, Bạc Liêu Hoài Cổ…
Cũng như các nghệ sĩ của miền Nam, nhạc sĩ Thanh Sơn cũng phải chịu đựng nhiều điều khó khăn và kỳ thị của chế độ kiểm duyệt. Vào năm 2001, có lần ông bị gọi lên Sở Văn hóa Thông tin (lúc bấy giờ Phó Giám đốc là Phạm Minh Tuấn, nhạc sĩ của chế độ mới), để tra vấn việc ông dùng chữ “phu quân” trong một bài hát. Về sau khi bị buộc thay chữ đó, nhạc sĩ Thanh Sơn buồn bực than rằng “chẳng lẽ họ không biết chữ phu quân là người chồng sao?”. Hóa ra, bên kiểm duyệt nghi ngờ ông muốn cài cắm chữ “quân” là ám chỉ… quân (đội) VNCH trong bài hát.
Những câu chuyện như vậy thường được than vãn quanh bàn cafe của các nhạc sĩ Thanh Sơn, Mặc Thế Nhân, Hoàng Trang và Hàn Châu, lúc nhạc sĩ Thanh Sơn còn sống. Những người quen biết được kề cận, mới biết được nỗi niềm và cả những tâm sự nghề nghiệp của họ.
Khó mà tin được là những ngày tháng cuối cuộc đời ấy, những người nhạc sĩ vẫn đôi khi còn trách nhau về những nốt nhạc vụng dại đã từng viết ra hoặc vẫn chất vấn về một câu chữ không rõ nghĩa. Âm nhạc đối với họ không chỉ là nghề, mà là niềm vui, là trách nhiệm và sự đau đáu ước muốn được một lần quay trở lại thời của mình từng được sống tự do, để hoàn thiện nghiệp dĩ.
“Có những lúc nghĩ về một nốt nhạc đã lỡ viết ra, mình ân hận vì muốn sửa cho hay hơn nhưng tiếc là khán giả đã thuộc lòng cái sai của mình mất rồi” – trong một lần ngồi kể lại chuyện xưa, nhạc sĩ Thanh Sơn tần ngần nói như vậy.
Và bao giờ cũng vậy, khi nhắc về Nỗi Buồn Hoa Phượng, ánh mắt của ông bao giờ cũng lấp lánh niềm tự hào. Ca khúc tràn ngập tuổi trẻ, kỷ niệm và thổn thức riêng của mỗi người này vẫn được mọi người trong chiếc bàn ấy bình chọn vui là “quốc ca mùa Hè”.
Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn,
Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương,…
Màu hoa phượng thắm như máu con tim,
Mỗi lần hè thêm kỷ niệm,
Người xưa biết đâu mà tìm.
Với những khán giả không thuộc dòng nhạc vàng, những âm điệu và ngôn ngữ này dường như có vẻ là “sến”, nhưng không ai có thể chối cãi rằng những hình ảnh và âm giai của bài hát này đã âm vang trong trái tim nhiều thế hệ, thậm chí làm không ít người phải ngẩn ngơ thổn thức khi nghe bài hát này.
“Phải chi được sống lại ở tuổi 30” – nhạc sĩ Thanh Sơn từng trầm ngâm nói. Tuổi 30 của ông với những bài ca đã tạo nên tên tuổi của ông và tạo nên một vệt dài độc đáo trong di sản văn hóa đặc thù của miền Nam. Tuổi 30, ông đem lại một khung trời giai điệu của tuổi học trò, đẳng cấp và khó quên một khi đã nghe và chiêm nghiệm về nó như Ba Tháng Tạ Từ, Màu Áo Hoa Phượng, Lưu Bút Ngày Xanh, Hạ Buồn, Ve Sầu Mùa Phượng…
Và rồi một ngày, cơn đột quỵ vào năm 2012 khiến chỗ ngồi quen thuộc vắng đi một người. Chiếc bàn nhỏ như một ký ức sót lại của vàng son bolero ngày càng lặng và buồn hơn. Ðôi khi nhạc vẳng lên từ chiếc loa cũ lại làm những người còn lại thở dài. Tiếng hát “giã biệt bạn lòng ơi…” dường như càng thấm thía hơn bao giờ hết.
Và rồi một buổi chiều Tháng Tư năm 2012, khi tin nhạc sĩ Thanh Sơn bỏ cuộc chơi lan đi, dù biết nhưng vẫn làm hụt hẫng nhiều người. Sau dòng nhạc của Thanh Sơn, khó có thể tìm được ai tiếp nối, những giai điệu ngọt đến nao lòng của Hát Nữa Đi Em, hoặc dân dã đến mức lịm hồn như Bạc Liêu Hoài Cổ?
Nền âm nhạc Việt Nam, đặc biệt là miền Nam, đã mỗi lúc mỗi vắng hơn những cái tên quen thuộc. Mọi thứ đang mất dần. Giờ thì “Mỗi lần Hè thêm kỷ niệm, người xưa biết đâu mà tìm…”
Cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ Thanh Sơn được đánh giá cao với việc viết nhạc cho tuổi học trò và quê hương Nam Bộ. Ông đã chạm đến trái tim của nhiều người thông qua những bài hát sâu sắc, đầy cảm xúc. Thanh Sơn đã có nhiều sáng tác nổi tiếng như “Lưu luyến trường xưa”, “Tiếng hát trong mơ” và “Chỉ cần bạn thương”. Những bài hát này không chỉ mang âm nhạc đẹp mà còn thể hiện tình yêu quê hương, tình cảm thanh niên và ý nghĩa cuộc sống. Nhạc sĩ Thanh Sơn là gương mặt nổi bật trong làng nhạc Việt Nam..
Chủ đề chính trong tác phẩm của Thanh Sơn có thể chia thành 2 mảng lớn, đó là nhạc về tình yêu, về tuổi học trò, với những ca khúc nổi tiếng: Nỗi Buồn Hoa Phượng, Lưu Bút Ngày Xanh, Hạ Buồn, Ba Tháng Tạ Từ… và những ca khúc quê hương mang âm hưởng dân ca Nam Bộ, tiêu biểu là Hành Trình Trên Quê Hương (sau này ông đổi tên thành Hành Trình Trên Đất Phù Sa), Hình Bóng Quê Nhà, Hương Tóc Mạ Non, Gợi Nhớ Quê Hương…
Ngoài ra nhạc sĩ Thanh Sơn cũng là tác giả của nhiều bài nhạc lính nổi tiếng: Đọc Tin Trên Báo, Mười Năm Tái Ngộ, Hai Người Lính Tâm Sự, Những Vùng Đất Mang Tên Anh (Thăm Những Vùng Địa Sử)…
Nhạc sĩ Thanh Sơn tên thật là Lê Văn Thiện, sinh năm 1938 tại tỉnh Sóc Trăng, ông là người con thứ 10 trong gia đình có 12 anh chị em. Trước năm 1954, vì cha của ông tham gia chống Pháp nên bị chính quyền Pháp theo dõi, gia đình phải ly tán mỗi người một nơi. Cha của ông phải ra bưng ở Cà Mau để trốn tránh, còn mẹ ông thì bươn chải ở Sài Gòn làm thuê để mưu sinh.
Vì hoàn cảnh gia đình như vậy, cộng với việc quá đam mê ca hát từ nhỏ nên nhạc sĩ Thanh Sơn bỏ bê việc học, chỉ theo học được đến lớp Đệ Tứ. Năm 19 tuổi, Thanh Sơn cùng với người bạn thân sau này là ca – nhạc sĩ Trường Hải cùng nhau rời quê hương lên Sài Gòn để tìm kiếm cơ hội theo con đường ca hát. Tại đô thành, ông sống cùng mẹ và đi làm công rất vất vả để mưu sinh.
Sau khi lên Sài Gòn được 2 năm, cậu thanh niên tên Lê Văn Thiện ghi danh tham gia chương trình tuyển lựa ca sĩ do đài phát thanh Sài Gòn tổ chức năm 1959. Với nghệ danh là Thanh Sơn, ông đạt giải nhất với ca khúc Chiều Tàn của nhạc sĩ Lam Phương, xếp trên những thí sinh cùng tham gia năm đó là ca sĩ Phương Dung, Chế Linh, Nhật Thiên Lan. Sau này cả 3 ca sĩ kia đều nổi danh, trở thành những huyền thoại của dòng nhạc vàng, thì Thanh Sơn lại chuyển hướng sang lĩnh vực sáng tác, trở thành một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất của nhạc vàng.
Tuy nhiên trước khi trở thành nhạc sĩ, ông vẫn theo đuổi nghiệp hát, và nhờ được giải cao của cuộc thi hát năm 1959 nên giọng hát của ông thường được phát trên đài phát thanh cùng các ban nhạc Hoàng Trọng, Võ Đức Tuyết, Hoàng Lang…, sau đó ông cũng được nhận vào đoàn Văn Nghệ Việt Nam của nhạc sĩ Hoàng Thị Thơ để hát tại vũ trường Maxim’s cũng như được đi lưu diễn tại nhiều nước Châu Á.
Nhạc sĩ Thanh Sơn ngồi ở thứ 3 từ trái sang, trong đoàn văn nghệ của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ
Nhờ được làm việc chung với nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ nên Thanh Sơn đã được chỉ dẫn những bước đầu để viết nhạc. Sau này, nhạc sĩ Thanh Sơn cho biết ông học sáng tác chủ yếu từ cuốn sách mang tên Để Sáng Tác Một Ca Khúc Phổ Thông của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ soạn và xuất bản năm 1955. Những sáng tác đầu tay được ông đưa cho các nhạc sĩ đàn anh như Hoàng Trọng, Nguyễn Hiền, Văn Phụng… xem để góp ý và chỉnh sửa.
Những ca khúc đầu tay của nhạc sĩ Thanh Sơn là Đôi Mươi, viết năm 1959 chung với nhạc sĩ Song Ngọc khi đó mới 16 tuổi, sau đó là ca khúc Người Ấy Là Ai (năm 1960), nhưng những bài hát này đều không được mấy người biết đến. Sang năm 1961, tên tuổi của Thanh Sơn mới được bắt đầu được công chúng biết đến trong vai trò là nhạc sĩ với ca khúc Tình Học Sinh, sau đó là Mùa Hoa Anh Đào (1962) mang đậm âm giai ngũ cung của nhạc Nhật. Bài hát này được ông viết tặng người vợ của ông, là người có khuôn mặt hao hao một thiếu nữ Nhật Bản.
Vợ chồng nhạc sĩ Thanh Sơn thời trẻ
ên tuổi của nhạc sĩ Thanh Sơn thực sự nổi bật khi ông bắt đầu sáng tác những ca khúc học trò, đó là Lưu Bút Ngày Xanh (1962), và đặc biệt là Nỗi Buồn Hoa Phượng (1963), có thể xem là ca khúc nổi tiếng và ăn khách nhất trong sự nghiệp của ông, được viết cho mối tình đầu thuở còn đi học ở quê nhà Sóc Trăng.
Vào khoảng năm 1953, ông có tình cảm với một nữ sinh cùng lớp tên là Nguyễn Thị Hoa Phượng, nhưng rồi 2 người phải xa nhau vì gia đình cô gái chuyển lên Sài Gòn. Trong lần cuối gặp để tiễn đưa nhau, chàng trai 15 tuổi bâng khuâng nói rằng chia tay rồi không biết làm sao có thể được gặp lại. Cô gái tên là Hoa Phượng đáp lại: Cứ mỗi năm hè đến, nhìn hoa phượng thắm sẽ giống như là được gặp lại nhau.
Tròn 10 năm sau đó, nhạc sĩ Thanh Sơn nhớ lại lời nói đó và sáng tác thành ca khúc Nỗi Buồn Hoa Phượng:
Nếu ai đã từng nhặt hoa thấy buồn,
Cảm thông được nỗi vắng xa người thương.
Màu hoa phượng thắm như máu con tim,
Mỗi lần hè thêm kỷ niệm,
Người xưa biết đâu mà tìm…
gười xưa biết đâu mà tìm…
gười xưa biết đâu mà tìm…
Từ năm 1963, nhạc sĩ Thanh Sơn bỏ hẳn ca hát để chuyên tâm sáng tác nhạc, và những ca khúc đầu tiên trong sự nghiệp của nhạc sĩ Thanh Sơn đều viết về những rung động đầu đời của tuổi học trò: Tình Học Sinh, Lá Thư Học Sinh, Lưu Bút Ngày Xanh, Nhật Ký Đời Tôi, Nỗi Buồn Hoa Phượng, Hạ Buồn… Khi khai thác đề tài sáng tác này, ông như là chạm được về lại quá khứ của chính mình, đó là một thời trong trẻo, hồn nhiên, và được sáng tác tự do, không bị gượng ép vì vấn đề kiểm duyệt. Trong một lần trả lời phỏng vấn vào cuối năm 1963, nhạc sĩ Thanh Sơn cho biết:
“Đời học sinh, ai mà chẳng luyến tiếc. Nhất là khi mình ra đời, gặp lắm cảnh chẳng vui gì. Được sống lại cái thiếu thời ăn chưa no lo chưa tới ấy, tôi vui sướng như người bộ hành đi dưới nắng trưa, ghé lại quán bên đường uống miếng nước ngon, hưởng cơn gió mát”.
Thời gian sau đó, kể từ năm 1973, ông tiến xa hơn với một chủ đề âm nhạc rộng lớn hơn, đó là những ca khúc viết về quê hương, với những hình ảnh đồng ruộng, xóm làng Miền Nam trù phú. Tiêu biểu nhất là 2 ca khúc Bài Ngợi Ca Quê Hương và Hành Trình Trên Quê Hương được sáng tác từ trước năm 1975. Ít người biết rằng sau năm 1975, 2 ca khúc này được ông sửa lại một số câu, đổi tên khác, Bài Ngợi Ca Quê Hương đổi tên thành Hồn Quê, còn Hành Trình Trên Quê Hương đổi tên thành Hành Trình Trên Đất Phù Sa. Mời các bạn nghe 2 phiên bản trước 75 của 2 ca khúc này ở bên dưới.
Click để nghe Thanh Tuyền và Bùi Thiện hát Bài Ngợi Ca Quê Hương
Click để nghe Sơn Ca hát Hành Trình Trên Quê Hương
Mảng nhạc quê hương được nhạc sĩ Thanh Sơn sáng tác rất mạnh mẽ, đặc biệt từ sau năm 1975 với hàng loạt ca khúc được công chúng yêu thích: Hoài Cổ, Áo Mới Cà Mau, Áo Trắng Gò Công, Hương Tóc Mạ Non, Hình Bóng Quê Nhà, Gợi Nhớ Quê Hương…
Những ca khúc quê hương của nhạc sĩ Thanh Sơn hiện lên hình ảnh lối đi dưới hàng dừa trên bờ đê, cây cầu khỉ bắc ngang qua dòng kênh xanh để dẫn về chốn xưa, hoặc bến phà đưa người người qua con sông lớn, gợi lại nét yêu kiều đằm thắm của câu vọng cổ mênh mang trên sông nước.
Với 2 đề tài chính trong sáng tác là tuổi học trò và nhạc quê hương, có thể nói những ca khúc của Thanh Sơn như là những chuyến xe đưa chúng ta về thăm lại quê hương trong trí nhớ, từ ngôi trường thời ấu thơ, mở rộng ra chân trời bát ngát những ruộng lúa của Miền Nam.
Từ một thanh niên ở vùng quê nghèo Sóc Trăng lên Sài Gòn làm thuê, ghi danh thi hát và đạt giải quán quân rồi trở thành 1 ca sĩ, sau cùng lại trở thành nhạc sĩ nổi tiếng – Đó là một hành trình trải qua nhiều biến cố nhưng chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn của nhạc sĩ Thanh Sơn. Ông từng nói rằng việc chuyển hướng sang lĩnh vực sáng tác là một sự bất ngờ, vì khi đặt chân lên đất Sài Gòn, ông chỉ muốn theo đuổi đam mê ca hát từ thuở còn rất nhỏ, tuy nhiên sau đó thì có sự thay đổi trong quan điểm nghệ thuật, như lời ông tâm sự: “Tui khoái làm nhạc sĩ hơn. Bởi vì mình là nhạc sĩ mình có tâm sự gì thì viết ra thành lời được. Ca sĩ thì chỉ diễn đạt bài của người ta làm sẵn thôi“.
Ngoài những ca khúc viết về quê hương vùng Tây Nam Bộ, nhạc sĩ Thanh Sơn còn viết về miền Trung với ca khúc Thương Về Cố Đô, viết về Đà Lạt với ca khúc Những Ngày Trên Đà Lạt, đặc biệt ông còn là tác giả của nhiều ca khúc nhạc xuân nổi tiếng cho đến ngày nay: Đoản Xuân Ca, Ngày Xuân Tái Ngộ, Chúc Xuân…
Sau năm 1975, Thanh Sơn chọn ở lại trong nước, trải qua những ngày đầu tiên gian khổ khi thời cuộc thay đổi. Để mưu sinh, ông đã phải lặn lội đi bán chợ trời và làm đủ nghề vất vả để mưu sinh suốt gần 15 năm sau đó. Cho đến khoảng cuối thập niên 1980, khi thị trường âm nhạc trong nước trở nên tương đối cởi mở, nhạc sĩ Thanh Sơn mới bắt đầu viết nhạc trở lại với một sức sáng tác mạnh mẽ hiếm thấy, và hầu hết là các ca khúc thời gian này là ông viết về quê hương, tiêu biểu là Bạc Liêu Hoài Cổ, Hình Bóng Quê Nhà, Hương Tóc Mạ Non, Gợi Nhớ Quê Hương, Áo Mới Cà Mau…
Tuy là một nhạc sĩ danh tiếng với nhiều nhạc phẩm nổi tiếng cả trước và sau năm 1975, nhưng cuộc sống của ông ít khi nào được khá giả, gần như cả đời ông sống với sự giản dị. Trước khi qua đời vào năm 2012, ông sống cùng người vợ đã găn bó từ thuở hàn vi trong căn nhà nhỏ ở con hẻm đường Đinh Tiên Hoàng từ năm 1960. Trong những năm thập niên 1990, 2000, ông phụ trách biên tập chương trình cho các hãng dĩa trong nước như Sài Gòn Audio, Rạng Đông…
Năm 2011, khi đang trợ giúp trung tâm Thúy Nga tư liệu để thực hiện cuộc Paris By Night số 103, ông bị tai biến, rồi qua đời vào ngày 4 tháng 4 năm 2012.
nhacxua.vn biên soạn
Ngọc Lan sưu tầm & tổng hợp