Pulau Bidong Hòn Đảo Bao Dung - Nguyễn Kim

Pulau Bidong Hòn Đảo Bao Dung

Nguyễn Kim

Lời ngỏ: Trong một bài viết cách đây không lâu, tôi có chia sẻ với độc giả ý nghĩa ngày 30/4 đối với riêng cá nhân tôi có tầm quan trọng như thế nào. Lúc đầu, tôi chỉ muốn nhắc đến ngày ấy của năm 1979 đã đóng lên Curiculum Vitae của tôi con dấu “Boat people”. Thoạt tiên, tôi chỉ có ý định kể lại, viết xuống những gì mình còn giữ lại được trong ký ức về hòn đảo đã cưu mang chị em chúng tôi nói riêng và ít nhất trên 80 ngàn người vượt biển giữa 1978-1984 nói chung. Không biết sao, ký ức và suy tư đã đưa tôi đến khúc đoạn trước đó, bắt đầu từ 30/04/1975. Thế nên tôi vẫn “nợ” với quý bạn đọc và các thế hệ sau. Cũng không đúng hẳn! Thực ra là “nợ” với chính tâm nguyện của cá nhân: chỉ muốn ghi lại một giai đoạn khó quên trong cuộc đời riêng và lịch sử Việt Nam nói chung, cho hậu thế có vài tư liệu nếu còn muốn tìm hiểu.
 
Bây giờ là thời đại của Google và Wikipedia, ai muốn biết về bất cứ điều gì chỉ cần gõ vài chữ là hiện ra biết bao nhiêu thông tin, nhưng tôi không muốn viết kiểu như những thông tin đó. Tôi muốn ghi lại những gì mình thấy và cảm nhận, với con mắt và trái tim của một thiếu niên 13 tuổi. [Kim Nguyễn]
 
 
Buổi sáng 30/4/1979, tàu Mã Lai đưa chúng tôi đến trại tị nạn Pulau Bidong. [Trước đó vài tuần, tàu chúng tôi cập bến một hòn đảo nhỏ khác tên Pulau Pinang. Đây là câu chuyện khác, dịp nào đó, nếu có người muốn đọc, tôi sẽ có một bài viết riêng]. Tôi nhớ hôm đó biển êm, trời trong xanh không một gợn mây nên mặt biển cũng xanh mướt. Màu xanh đó một lần nữa lại đập vào mắt tôi khi chiếc tàu Mã Lai đưa chúng tôi đến gần. Cơ man nào là những đốm màu xanh da trời, trải dài khắp bờ biển, lan rộng lên tuốt luốt sườn đồi trên cao! Mãi sau này tôi mới biết đó là các tấm nylon màu xanh dương đậm, khá dầy, đủ sức che mưa, nhưng rất khiêm tốn trong việc che nắng (!), người ta dùng để làm mái che cho các “nhà” để tạm cư.
 
Tàu đưa chúng tôi đến đậu tại một cây cầu bằng gỗ, vươn dài ra ngoài biển mà sau này tôi mới biết nó tên là “Cầu Supply”. Đi dần vào trong, tôi… hết hồn, cứ phải đăm đăm nhìn xuống. Chẳng phải vì tôi còn say sóng hay vì Cầu Supply khấp khểnh khó đi, mà vì … Trời đất ơi! Thanh niên trai tráng đâu mà nhiều quá vậy? Mà ai cũng ở trần, mặc mỗi cái xà-lỏn, vài người tóc dài thậm thượt như… hải tặc Thái Lan chúng tôi mới gặp cách đây không lâu! Mãi sau tôi mới dám len lén nhìn lên, vẫn còn mắc cỡ vì không quen nhìn đàn ông con trai trong mỗi cái quần xà-lỏn! Phần đông ai nấy da ngăm đen nên cứ làm tôi liên tưởng đến hải tặc, nhưng họ đang cười toe toét, khoe hàm răng trắng bóc. Một số thanh niên đó hỏi có cần khiêng phụ giúp gì không? Mỗi đứa chúng tôi cũng như mọi người khác đâu có vật dụng nhiều, chỉ có vài bộ quần áo gói trong bao vải, nên chúng tôi cám ơn, không nhờ vả gì; đành phụ lòng các nam nhân đó vậy. Nhưng cũng có vài ông bà cụ già cũng như các gia đình có em nhỏ, họ rất biết ơn lòng tốt bụng của người đồng hương không quen biết.
 
pulau bidong hon dao bao dung
 
Chúng tôi được đưa đến một khoảng đất rộng, nền đất cứng và sạch sẽ, chắc được nhiều người đi qua lại nên không còn một cọng cỏ, được nén chắc nịch vì đang là mùa nắng, nên đi lại rất dễ dàng. Sau 5 ngày lênh đênh trên biển và gần 4 tuần ở đảo nhỏ trước đó, lần đầu tôi mới có lại cảm giác vừa vui vừa hơi sờ sợ, vì đảo đông người ghê lắm. Vui vì nghe thật nhiều tiếng Việt lao xao, thấy kỳ kỳ vì thanh niên ai nấy đều ăn mặc “nhẹ ký” như tôi đã nói lúc nãy. Họ cười nói, ồn ào, đi qua đi lại và nhìn chúng tôi. Sau này tôi mới hiểu họ nghe có tàu Mã Lai đưa người đến nên chạy ra xem, biết đâu gặp lại người thân hay bạn bè.
 
Gần trưa, chúng tôi được Ban điều hành trại lập danh sách, ghi tên chúng tôi để báo cho Cao Ủy Tị Nạn. Đây cũng là lần đầu tiên tôi nghe đến 4 chữ này. Chỉ mơ hồ hiểu rằng mình bây giờ là “con của Cao Uỷ”, như người trên đảo hóm hỉnh đặt cho mình và gọi nhau như thế. Tôi là út nên khỏi phải làm gì nhiều, đã có các chị lớn lo, chỉ đợi đến phiên mình đứng vô chỗ đã định sẵn, cầm tấm bảng nhỏ như bảng học sinh thời tiểu học, giơ lên trước ngực và nhìn không chớp mắt vào ống kính. (Không hiểu sao mà tôi còn giữ được tấm ảnh trắng đen 4×6 nhỏ xíu đó và đã chụp lại đăng trên bài trước).
 
Họ dặn chúng tôi lắng nghe thông báo trên các loa được mắc rải rác trên đảo, khi nào kêu tàu KG 0469 xuống khu hành chính để lập hồ sơ tiếp tục xin định cư, cũng như khi được kêu xuống phỏng vấn, thì nhớ đến cho đúng giờ.
 
Sau đó… mạnh ai nấy đi!
 
Chúng tôi hết sức bỡ ngỡ vì tưởng sẽ có người dẫn mình đến giao cho một khoanh nhỏ nào đó trong một barrack hay cái chòi nào cũng được. Nhưng không phải vậy! Trên đảo, tự ai nấy phải tìm nơi trú ngụ! Gặp được người quen thì tá túc vài hôm, rồi xoay xở mua lại những căn nhà của người khác ra đi (đã gửi lại cho người quen bán giùm). Hoặc mua những nhà mới được cất, do những người khéo tay, ở lâu trên đảo và có thì giờ lên rừng đốn củi, đem về đóng một chòi nhỏ rồi bán lấy tiền.
 
Sau 3 ngày, chúng tôi may mắn gặp được người quen từ thời ở Sài Gòn giới thiệu mua lại một căn “nhà” ở khu D, là tuốt trên gần đỉnh đồi, cao lắm. Gọi là “nhà” cho nó oai, chứ nó chỉ có một mái làm bằng tấm nylon màu xanh dương đậm và một bên vách. Phía trước và sau không có cửa và bên hông sát với nhà bên kia cũng không có vách ngăn! Người quen trấn an chúng tôi mai mốt anh sẽ giúp dựng lên cái vách, còn bây giờ ở chỗ này khá rộng, đủ cho 6 chị em. Chúng tôi phải chọn khu D, tuốt luốt trên cao vì nhà trên đó rẻ hơn các nhà dưới khu A và B là khu gần Ban Hành Chánh và gần bờ biển, không phải trèo cao. Nghe nói có những người còn phải đi xa hơn như khu F và khu G. Người quen còn đùa nói ở lâu rồi sẽ thấy thích, vì nhìn xuống thấy mặt biển và có cần “đi thăm lăng Bác” không phải lội bộ xa. “Đi thăm lăng Bác” là từ mới trên đảo họ đặt ra để tả công việc… đại tiện mà ai cũng cần làm. Sáng tạo và hài hước hết chỗ chê!
 
Để đi đến miền “đất thánh” đó chúng tôi chỉ cần leo đồi thêm độ 200m, đi qua những căn nhà cuối xóm là bắt đầu đến một bãi đất mà chúng tôi phải cẩn thận, nhắc chừng nhau coi chừng đạp “mìn”. Vì cũng hay mắc cỡ nên chị em chúng tôi luyện tập cho mình sao có một nhịp sinh lý đều đặn, đợi được đến chiều tối chạng vạng rồi cùng nhau đến đó “thi hành nhiệm vụ công dân” hay làm “Big business”(Chữ của chúng tôi). Chúng tôi phải canh sao đi cho sớm, trời chưa tối lắm để còn thấy đường, nhưng lúc đó muỗi lại bắt đầu vo ve, thi nhau ùa ra tấn công! Buồn cười, chị tôi nảy ra sáng kiến đem theo nhang muỗi. Thế là mỗi đứa cầm trên tay một vòng nhang muỗi màu xanh lá cây, đã được mồi trước. Có lần có người từ trong nhà nào đó gọi ra chọc ghẹo:
 
“Mấy cô lén Ba Má đi hút thuốc há?”
 
“Big business” lần hồi cũng quen. Thao tác cho “small business” cũng cần tập luyện. Số là mỗi nhà đều tự xây cho mình một “phòng tắm” riêng. Các “phòng” đó lớn như nhà Dixi (bên đây người ta hay mướn cho thiên hạ xài vào những đại hội văn nghệ Festival v.v.) Phòng tắm của chúng tôi cũng vậy, là những thanh cây đóng tạm bợ trên một khung gỗ hình vuông, gác lên trên một hố sâu độ chừng 1m, vách xung quanh được quây bởi những bao tựa như bao gạo được cắt ra. Khi dọn vô, phòng tắm đó 4 vách chỉ còn độ… 3 rưỡi và không cao quá đầu người bao nhiêu. Chúng tôi phải khéo léo “ngồi trông hướng” sao cho khỏi mang tiếng “công xúc tu sỉ”.
 
 
“Ngồi trông hướng” đã xong, “ăn trông nồi” dễ dàng hơn nhiều. Vì trong nồi chúng tôi quanh năm chỉ có 3 món: gà, cá hoặc đậu. Đó là 3 món thường trực trong bọc Supply. Ngoài ra, trong đó còn một bọc gạo và một gói bánh khô, vị mặn như bánh Ritz ngày xưa, hoặc một bao mì gói. Bọc Supply là một túi nylon lớn, một mặt in chữ UNHCR màu xanh dương, một mặt có hình trăng lưỡi liềm màu đỏ và hàng chữ tôi không nhớ rõ nữa. Tôi được học chữ UNHCR có nghĩa là “United Nations High Commission for Refugees, còn chữ kia có nghĩa là “Hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ”. Hình cái lưỡi liềm mang màu đỏ làm tôi lúc đầu cũng hơi sờ sợ vì nó làm tôi nhớ đến một cái lưỡi liềm khác. Nhưng may quá, nó đứng một mình, không đi chung với một cây búa màu đỏ. Vả lại, nó cho mình đồ ăn thì chắc dễ chịu và dễ thương với mình? Sau này tôi mới hiểu vì Mã Lai là xứ theo Hồi giáo nên cơ quan thiện nguyện tránh không dùng dấu hiệu chữ thập rất đặc thù cho đạo Thiên Chúa giáo. [Bây giờ tôi rõ hơn: IFRC là “International Federation of Red Cross and Red Crescent Societies” có nghĩa “Hiệp Hội Quốc Tế Hồng Thập Tự và Trăng Lưỡi Liềm Đỏ”].
 
Trở lại các bịch Supplies. Chúng tôi đã “quen mặt” chúng sau 4 tuần ở bên đảo nhỏ trước đó. Thời gian đầu, ai cũng thích được ăn bánh, nhưng chỉ vài tuần sau lại mong được nhận mì gói vì dễ ăn hơn, vì mì gói cũng cho ta được nước như món canh vậy. Ở đảo, có quen biết với người trong đội ngũ phân phối, có “connections”thì có thể đổi lấy bọc Supply trong đó có mì gói!