ĐẶC ĐIỂM NGƯỜI VIỆT
Đọc xong thấy nhột quá chừng
Mỹ ở xa mình nửa vòng trái đất mà họ tinh thật, ngại ghê!
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao”
1.- Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn.
2.- Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt.
3.- Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình.
4.- Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng lại không phát huy được xu hướng nào thành những nguyên lý.
5.- Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt).
[when small, they study because of their families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs]
6. Cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài.
7. Tiết kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương). [to save face or to show off].
8.- Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này ít khi có.
9.- Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ.
10.- Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 3 người làm thì kém, 7 người làm thì hỏng việc).
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy người Mỹ đã hiểu rất rõ người Việt. Tại sao người Việt lại có những đặc tính như thế này?
Người xưa cũng đã nhận ra:
Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953) khi viết bộ Việt Nam Sử Lược, ấn hành lần đầu tiên năm 1919, cũng đã phân tích khá rõ ràng những đặc tính của người Việt và những yếu tố tạo nên những đặc tính đó. Đa số người lớn tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử này. Tôi chỉ xin trích lại dưới đây một số đoạn chính ông viết về đặc tính của người Việt.
Trong bài tựa, ông nói ngay:
“Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: “Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!”
“Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?”
“Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.”
Ở Chương VI nói về “Kết Quả của Thời Bắc Thuộc”, ông có nhận định rõ hơn:
“Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm, mà nhất là về đời nhà Chu thì cái học thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho giáo và Lão giáo, đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy thịnh lên, lại có Phật giáo ở Ấn độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo tông chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và phong tục tương tự như nhau cả…”
“Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, thì đất Giao châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo ấy. Về sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.
“Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà ra. Mà người mình đã theo học thuật và Tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua kém Tàu, mà tự người mình không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất sắc, gọi là có cái tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao? …
“Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không tìm cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người ta là đủ.
“Địa thế nước mình như thế, tính chất và sự học vấn của người mình như thế, thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và việc gì cũng phải thua kém người ta vậy.”
Đọc cuốn “Lều chõng”, một tiểu thuyết phóng sự của nhà văn Ngô Tất Tố (1894 – 1954), chúng ta có thể thấy rõ nền học vấn của người Tàu mà người Việt rập khuôn theo đã kềm hảm con người như thế nào. Ông vốn là một nhà Nho, đã từng tham dự các kỳ thi Hương dưới triều Nguyễn, nên đã phản ánh một cách trung thực những oái ăm của các kỳ thi này và nêu lên sự sụp đổ tinh thần của những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường tiến thân nhưng lại bị hoàn thất vọng .
“Trước là làm đẹp sau là ấm thân”
Nước Việt Nam bị Pháp đô hộ gần 100 năm, đã cởi bỏ nền học vấn của Trung Hoa, tiếp thu nền học vấn mới của phương Tây, nhưng vẫn còn giữ lại nhiều nét căn bản của nền văn hóa Trung Hoa. Có nhiều hủ tục trong quan, hôn, tang, tế mà cuộc Cách Mạng Văn Hoá của Trung Quốc đã phá sạch, nhưng nhiều người Việt vẫn cố giữ lại như những thứ “quốc hồn quốc túy”.
Con ơi! muốn nên thân người
Lắng tay nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dồi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối được nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt sau là ấm thân
Bây giờ người con gái không còn chỉ “giữ việc trong nhà”, và người con trai không còn chỉ “đọc sách ngâm thơ” mà đã đi vào khắp mọi lãnh vực của cuộc sống, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn chỉ là “Trước là đẹp mặt sau là ấm thân”.
Tiêu chuẩn của cuộc sống hiện nay của nhiều người, nhiều gia đình là có nhà sang cửa rộng, có xe hơi, có con đi du học nước ngoài… Đi đâu cũng nghe khoe nhà trên cả tỷ bạc, xe loại sang trọng nhất, con đang học bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư… Gần như không nghe ai khoe những công trình đang nghiên cứu hay thực hiện để đưa con người, cộng đồng và đất nước đi lên.
Tất cả chỉ tập trung vào hai tiêu chuẩn là “đẹp mặt” và “ấm thân”.
Nếu mỗi gia đình và mỗi cá nhân chỉ lấy những mục tiêu như trên làm mục tiêu của cuộc sống và truyền từ đời nọ sang đời kia, còn lâu cộng đồng và đất nước với ngóc đầu lên được.
Chúng ta không mong người Việt có những nhà phát minh làm thay đổi nhân loại như: John V. Blankenbaker (phát minh ra máy vi tính 1971), Bill Gates, Steve Jobs…, chúng ta chỉ mong người Việt biết quan tâm đến cộng đồng, đất nước và nhân loại nhiều hơn. Nhưng điều này quá khó. Đúng như người Mỹ đã nhận xét:
Người Việt vì những lý do vớ vẩn, có thể hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ (như kiếm chút danh chẳng hạn). [sacrifice important goals for the sake of small ones]
Người Việt thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh. Một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 3 người làm thì kém, 7 người làm thì hỏng việc!
Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến, không bị vướng mắc với quá khứ, học được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa cộng đồng và đất nước đi vào một hướng đi mới tốt đẹp hơn.
Tính cách chung của người Việt nam
Rất nhiều bạn người Nhật thường hỏi tôi về “ Tính cách chung của người Việt Nam”. Nhân dịp này cho tôi giới thiệu sơ qua về tính cách chung ấy nhé.
Thực ra, tổng hợp đặc điểm chung của người dân một quốc gia không đơn giản, nhưng sau rất nhiều cuộc nói chuyện, cả tranh cãi với các bạn Nhật, tôi nghĩ rằng tính cách chung của người Việt Nam có thể nói như sau.
Người Việt nam vô cùng coi trọng giá trị bản thân và gia đình. Lợi ích cá nhân và gia đình được ưu tiên hàng đầu. Có nghĩa là hầu như không có chuyện người Việt nam hy sinh cuộc sống cá nhân vì công ty. Ở công ty Nhật, nhân viên sẽ phải điều chỉnh lịch cá nhân phù hợp với tình hình công việc ở công ty, cho dù ko đồng tình với chỉ thị của cấp trên thì vẫn chấp hành. Nhưng Việt nam thì gần như ngược lại. Công ty ở Việt nam thường ưu tiên hoàn cảnh của nhân viên và điều chỉnh công việc để phù hợp với nhân viên đó. Người Việt nói chung rất kém làm việc tập thể, đa số không thực hiện báo cáo, liên lạc tình hình công việc đầy đủ. Ngoài ra, người Việt có xu hướng ưu tiên việc hiếu hỉ của cá nhân hơn công việc ở công ty. Nhưng nói vậy không có nghĩa là người Việt chỉ biết tư lợi. Tính cách này xuất phát từ văn hóa truyền thống coi trọng gia đình từ xưa. Người Việt cho rằng công ty mà có thể coi trọng hoàn cảnh gia đình của từng nhân viên sẽ có thể phát triển ổn định và vững chắc.
Người Việt nam nổi tiếng khéo tay. Những sản phẩm thủ công tinh xảo như tranh thêu, đồ gốm, tranh cắt giấy, đồ mây tre đan…luôn được đánh giá cao. Trong cuộc sống hàng ngày, dễ dàng bắt gặp người dân tự sửa xe máy hay máy móc các loại khi hỏng hóc. Ngoài ra, trí nhớ của người Việt cũng rất tốt. Họ có thể nhớ và thực hiện tốt các thao tác khó, quy trình sản xuất phức tạp
Người Việt Nam tin rằng, chỉ có chăm chỉ học tập từ nhỏ mới có thể có tương lai tươi sáng nên bố mẹ không bao giờ tiếc tiền của, thời gian cho việc học của con dù cuộc sống còn nhiều thiếu thốn. Đối với bố mẹ người Việt Nam, con cái đạt thành tích cao, vào học ở những trường điểm là niềm tự hào không gì sánh bằng. Ngoài ra, không ít người học cùng lúc hai trường. Khả năng tiếp thu kiến thức mới của người Việt cũng rất nhanh. Và họ luôn ý thức nâng cao giá trị bản thân mình.
Nói chính xác là không nghĩ trước sau mà chỉ nghĩ đến điều trước mắt. Ví dụ rõ nhất là quan điểm về tiền bạc của người Việt. “Hôm nay kiếm được 10 đồng hơn ngày mai kiếm được 1000 đồng” là cách nghĩ phổ biến của nhiều người. Người Việt coi trọng việc “kiếm tiền ngay bây giờ”. Nguyên nhân là do chiến tranh kéo dài và lạm phát đột biến. Sau khi chiến tranh kết thúc, việc duy trì cuộc sống hiện tại với họ đã là hết sức có thể. Trong tình hình đó, phát triển kinh tế tăng tốc, vật giá leo thang nhưng thu nhập của người dân không thể đuổi kịp sự thay đổi đó nên họ luôn tìm mọi cách có thể để ngay bây giờ kiếm ra tiền. Điều đó dần trở thành đương nhiên đối với họ.
Phụ nữ Việt Nam luôn được đánh giá là làm việc có hiệu quả. Thời chiến, khi hầu hết đàn ông ra trân thì ở nhà việc làm nông, nuôi dạy con cái, chăm sóc bố mẹ già, lo kinh tế gia đình đổ hết lên vai người phụ nữ. Nhờ thế mà họ trở nên mạnh mẽ hơn. Chiến tranh kết thúc, sự mạnh mẽ ấy không thay đổi và khiến cho đàn ông trở nên lép vế trong gia đình. Về điểm này tôi thấy giống phụ nữ Nhật ngày nay. Các bạn có thấy thế không?