Khôi Phục Đèn Lồng Trung Thu Cổ Truyền Việt Nam - Trịnh Bách

Khôi Phục Đèn Lồng Trung Thu Cổ Truyền Việt Nam

  Trịnh Bách

trung thu 1
Trung Thu Hà Nội 1932 (tạo sắc từ ảnh của Bảo tàng Quai Branly)
 
Từ bao thế kỷ nay Việt Nam vẫn luôn là nước độc nhất trên thế giới lấy ngày Rằm tháng Tám Âm lịch mỗi năm làm Tết Nhi Đồng. Các nước Đồng Văn sử dụng Âm lịch khác là Trung Hoa, Hàn Quốc và Nhật Bản chỉ xem dịp Rằm tháng Tám là lễ hội đoàn viên hoặc lễ hội lúa mới. Và Việt Nam cũng là nơi duy nhất có phong tục làm lồng đèn hình các con thú cho trẻ em trong dịp Tết Nhi Đồng, tức là Tết Trung Thu.
 
Tương truyền vào thời Đường bên Trung Hoa (Phan Kế Bính cho là vào thời Tống) có con cá chép thành tinh. Mỗi năm đến tối rằm tháng Tám con tinh cá vào kinh đô Tràng An bắt người dân để ăn thịt. Triều Đình nhà Đường nghĩ ra một kế là dạy cho dân Tràng An làm đèn lồng hình con cá chép bằng khung tre phết giấy hay vải lụa, để đêm Trung Thu thắp lên đem ra treo trước nhà hay để đi rước trong kinh thành. Con tinh cá thấy thế tưởng đồng loại đã làm việc ở những chỗ ấy rồi nên bỏ đi. Tục lệ này dần lan ra mọi nơi trong nước và thành lệ mỗi năm. Nước ta lúc bấy giờ hãy còn bị nội thuộc nhà Đường, cho nên có lẽ người mình đã tiếp thu phong tục làm đèn lồng hình con cá này từ giai đoạn đó.
 
Khi người Mông Cổ chiếm được nước Trung Hoa từ nhà Tống năm 1279, lúc đầu họ đã bãi bỏ nhiều lề lối cũ của người bản địa. Và có thể tục lệ làm đèn con cá chép của người Hoa cũng bị phế bỏ lúc đó. Trong khi đó Việt Nam vì đã ngăn cản được các cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông, cho nên chúng ta vẫn giữ được nền tự chủ và các phong tục cũ. Trong đó có việc làm đèn lồng Trung Thu.

trung thu 2Đèn con cá chép cổ truyền (Henri Oger 1908)

Rồi lần hồi người Việt đã phát triển thêm các loại đèn lồng hình thú hay hoa quả khác cho trẻ em, dựa trên cổ tích Trung Thu. Ví dụ như đèn con thỏ ngọc, hay đèn con thiềm thừ hý nguyệt. Theo di thảo của vua Lê Thánh Tôn thì thiềm thừ, tức con cóc 3 chân, là thủy tổ của các loài cóc, ếch. Và thiềm thừ đã sống trên cung Trăng từ nhiều vạn năm. Sau này người mình còn tạo ra các loại đèn con bướm, con gà, con tôm, con cua, quả đào, quả lựu, v.v., cho thêm phong phú.
 
Từ nhiều thế kỷ, trẻ em Việt Nam đã vui Tết Trung Thu của mình với những thứ đồ chơi độc đáo như con giống làm bằng bột và đèn lồng hình dạng các con thú. Đấy là những phong tục đẹp đẽ và độc đáo của riêng người Việt. Nhiều bảo tàng bên Pháp hiện vẫn còn giữ được những cái đèn Trung Thu và những con giống bột rất đẹp, tinh xảo; được làm cho Tết Nhi Đồng của Hà Nội từ những thập niên đầu thế kỷ 20.
 
Cho đến cuối thế kỷ 19 thì thú chơi lồng đèn Trung Thu ở miền Bắc Việt Nam, nhất là ở Hà Nội, đã thành rõ nếp lắm rồi. Theo các ảnh chụp cũng như tranh vẽ đèn Trung Thu ở Bắc Việt của các nhiếp ảnh gia và các nhà nghiên cứu người Pháp, thì từ những năm cuối thế kỷ 19 đèn Trung Thu cho trẻ em ở Hà Nội đã rất xúc tích, đa dạng. Mẫu mã đèn Trung Thu ở Sài Gòn dù ở thời điểm cực thịnh về sau này, nghĩa là cho đến giữa thập niên 1970, vẫn không thể so sánh với các đèn Trung Thu ngoài Bắc mấy thập kỷ trước đó được. 
 
trung thu 3
Đèn Trung Thu Sài Gòn 1966 (ảnh Douglas Ross)
 
Ngày xưa ở Bắc Bộ có nhiều nơi làm đèn Trung Thu cho trẻ em. Nhưng nổi trội nhất phải kể đến làng Báo Đáp ở Nam Trực, Nam Định. Người làng Báo Đáp làm đèn Trung Thu bài bản và quy mô hơn mọi nơi khác. Có thể nói là nếu Bát Tràng nổi tiếng với đồ gốm và Vạn Phúc nổi tiếng với vải lụa, thì Báo Đáp được biết đến là làng đèn Trung Thu.
 
trung thu 4
Đèn cá chép theo phong cách Báo Đáp (ảnh tư liệu)
 
Các biến động chính trị, lịch sử đã làm nghệ thuật làm lồng đèn Trung Thu cổ truyền quý báu của người mình gần như biến mất từ lâu ở miền Bắc. Nhưng thật may là rất nhiều người dân làng Báo Đáp di cư vào Sài Gòn hồi giữa thập niên 1950 đã tụ họp lại lập ra xóm Phú Bình, hiện ở quận Tân Phú, và tiếp tục nghề làm đèn cố hữu của họ. Tất cả đèn Trung Thu của Sài Gòn và các tỉnh miền Nam từ hơn nửa thế kỷ nay đều được sản xuất từ Phú Bình. Nhưng các loại đèn cầu kỳ, tinh xảo cổ xưa cũng đã bị thất truyền ở Sài Gòn từ vài ba chục năm nay.
 
Từ năm 2007 tôi đã bắt đầu mầy mò ở khu Phú Bình, là chỗ tôi vẫn được đưa đến mua đèn Trung Thu loại cao cấp từ hơn nửa thế kỷ trước khi còn bé, để cố gắng tìm nghệ nhân tâm huyết cho việc phục hồi lại nghệ thuật quý báu này. Thật ra mục đích đầu tiên của tôi chỉ là làm lại cái đèn con thỏ mà Trung Thu mỗi năm hồi đó tôi nhất định phải có, do cùng một nghệ nhân làm. Tôi quý cái đèn con thỏ đó đến nỗi đã vẽ nằm lòng lại từng chi tiết của nó, nhất là cách dán lông thỏ đặc biệt của người nghệ nhân già. Và con thỏ đó sẽ là mấu chốt để phục hồi lại các đèn Trung Thu đẳng cấp của Báo Đáp-Phú Bình cũ.
 trung thu 5
Đèn con thỏ Sài Gòn trước 1975 được tái tạo (ảnh tư liệu)

Nhưng chuyện không đơn giản. Ví dụ như cách đây khoảng tám năm, có lần tôi cố gắng chỉ cho một người làm lồng đèn cách dán lông thỏ giả vào những cái đèn tương đối còn chấp nhận được, nhưng là những lồng đèn có vẻ đẹp nhất trong phố lúc đó, của anh ta. Như một gợi ý cho anh ta về cách trang trí đèn lồng Trung Thu hồi xưa. Nhưng vì anh thợ không hứng thú lắm, cho nên không thành công. Hiện nay, những lồng đèn bán ở chợ lồng đèn Trung Thu quận 5 vẫn dán lông giả đủ màu sắc mà hoàn toàn không có một căn bản mỹ thuật nào. Và người ta cũng không hiểu mục đích dán lông như vậy để làm gì.

Lông thỏ để làm đèn Trung Thu được đặt hàng từ mùa hạ để lấy lông ngắn, không quá xù. Riêng lông bụng dài đẹp phải đặt mua ở Đà Lạt vào mùa Đông. Hồi đó chỉ có thỏ ta lông ngắn cho nên phải khó như vậy. Rồi người ta phải biết chỗ nào trên đèn dán lông lưng thỏ, chỗ nào dán lông bụng. Ngày nay vì ý thức đạo đức cho nên phải dùng lông thỏ giả. Nhưng dùng lông giả thì cũng phải biết cách tỉa lông sao cho giống lông lưng, lông bụng thỏ thật.
 
Mãi đến 2017 tôi mới có cơ duyên gặp được gia đình cụ quả phụ Nguyễn Trọng Văn ở Phú Bình. Gia đình Cụ Văn đã có truyền thống làm đèn Trung Thu từ nhiều đời ở làng Báo Đáp. Từ khi dọn vào Sài Gòn họ vẫn tiếp tục giữ nghề, dù rằng có phải thay đổi một ít về hình thức của những chiếc đèn này. Người làm việc trực tiếp với tôi là em Nguyễn Trọng Bình, con trai cụ Văn. Bình rất khéo tay, kiên nhẫn, sáng dạ. Và quan trọng nhất là cầu tiến, yêu nghề. Em nhẫn nại chữa các lỗi kỹ thuật hay nhận những yêu cầu khó khăn mà không bao giờ than van, mệt mỏi…
 
trung thu 6
Cụ Nguyễn Trọng Văn và Nguyễn Trọng Bình (ảnh tư liệu)
 
Bình có những kỹ thuật và mẹo để uốn khung tre thành những hình dạng phức tạp một cách thật giản dị và tự nhiên đến buồn cười. Có lẽ đây là những gì còn sót lại từ quê tổ cũ. Chỉ một, hai ngày sau khi gặp gỡ, cái đèn con thỏ thân thương hồi bé của tôi đã hiện ra trước mặt như chưa hề vắng bóng. Cụ Văn cứ ôm cái đèn mà thì thầm: “Đây mới là đèn con thỏ…”. Thật cảm động. Các phác họa khung lồng đèn tôi đưa ra khó đến đâu Bình cũng giải quyết dễ dàng, nhuần nhuyễn như đã sẵn quen thuộc.
 
Nhưng thế chưa là tất cả trong việc hồi phục lại cái nghệ thuật cổ truyền quý giá đã mất này.
 
Sau khi đã phục hồi lại được một số đèn Trung Thu cao cấp của Sài Gòn cũ, chúng tôi vẫn bí tị không hiểu người Báo Đáp ngày xưa dán đèn bằng vật liệu gì. Theo hình ảnh và hiện vật còn lại ở các bảo tàng bên Pháp, một số rõ ràng được dán bằng giấy bóng kính. Có những cái đèn dán bằng lụa mỏng. Nhưng phần nhiều được dán giấy nhưng không phải là giấy bóng kính, vì cách vẽ theo lối bôi nước nhiều lần (tương tự như thủy mặc) trên các đèn này thì các loại giấy thường đều không chịu nổi.
 
Cụ Văn bị bán thân bất toại do tai biến mạch não, cho nên vẫn phải ngồi xe lăn từ nhiều năm nay. Và cụ dường như không để ý mấy đến những gì diễn ra chung quanh. Nhưng từ khi chúng tôi làm lại những lồng đèn cũ thì cụ có vẻ năng động hơn, và nói chuyện với tôi rất nhiều. Một hôm khi Bình và tôi đang bàn về loại vật liệu dán đèn khó hiểu đó, thì cụ Văn bật ra như thét: “Giấy Nhiễu! giấy nhiễu mới chịu được nước chứ”. Rồi cụ bảo Bình ra hỏi ‘A Dí’ xem bà ấy còn giấy nhiễu không. A Dí (tức ‘bà dì’ trong tiếng Quảng Đông) là một bà già người Hoa chuyên buôn bán giấy các loại ở chợ Kim Biên từ đã rất lâu, và là bạn thân của gia đình.
 
trung thu 7
Đèn con cua sống làm bằng giấy nhiễu (ảnh tư liệu)
 
Và A Dí cũng giật mình khi chúng tôi tìm giấy nhiễu, vì mấy chục năm nay không ai hỏi đến loại giấy này. Lúc đó gần Tết Nguyên Đán cho nên bà ấy hẹn sau Tết sẽ cố tìm nhập về cho chúng tôi một ít để thử.
 
Thì ra người Báo Đáp xưa kia phần lớn dán đèn Trung Thu bằng giấy nhiễu, hoặc có khi bằng vải. Giấy nhiễu là loại giấy bên trong có trộn vụn tơ hay sợi vải để chịu nước. Đến những năm 1940 trở đi họ cũng đã bắt đầu dán đèn bằng giấy bóng kính. Khi vào Sài Gòn, họ đổi theo phong cách và thị hiếu của các nhà buôn Chợ Lớn mà đổi sang hoàn toàn dán đèn lồng bằng giấy bóng kính, thường là màu đỏ. Theo phong cách của người Hoa Chợ Lớn, đèn Trung Thu cao cấp nhiều khi còn được gắn thêm lông thỏ và mặt mài kim kính. Chỉ tiếc là loại giấy bóng kính của Nhật mấy chục năm trước với độ dầy 20-24µ nay không còn nữa. Hiện người ta phải dùng giấy loại 18µ dễ loang mầu của Trung Quốc.
 
Cụ Văn cũng cho biết rằng các đèn Trung Thu có cái khung treo bên trên hình tròn bằng tre ngày xưa được gọi là đèn Tàu. Đèn Ta hoặc được treo trực tiếp lên cán tre, hoặc được gắn vào khúc cành tre ở bên dưới đèn.
 
Và cuối cùng chúng tôi cũng tìm tòi ra được các chất liệu và phương pháp để tạo khung, bồi giấy cho các loại đèn con thú cổ truyền Việt Nam. Hóa ra không phải chỉ cần có đúng chất giấy, chất liệu vẽ, và tạo được khung đèn là đủ đâu. Cao điểm là các lồng đèn con cua sống và con cá hóa long của người Báo Đáp ngày xưa, mà chúng tôi đã mầy mò từ khi gặp gỡ 3 năm trước đến nay, đã được xuất hiện trở lại nhân dịp Trung Thu 2020. Đến được bước này rồi thì các đèn Báo Đáp cổ truyền khác như đèn con cua luộc, con bướm, quả đào, quả lựu, v.v., sẽ chỉ tuần tự mà ra lò khi có thời giờ thôi…
 
trung thu 8
Con cá hóa long cổ truyền (ảnh tư liệu)
 
Bên cạnh đó, nhiều mẫu mã mới không có trong hệ thống đèn Trung Thu cổ cũng được tạo ra theo phong cách truyền thống để cho bộ sưu tập phong phú thêm. Ví dụ như đèn con lợn làm phỏng theo các loại tranh dân gian như Đông Hồ hay Kim Hoàng. Hay đèn con cá Koi Nhật Bản…
 
trung thu 9
Đèn con lợn Đông Hồ và Đèn con cá Koi (ảnh tư liệu)
 
Hiện nay các nhà sản xuất đèn ở Phú Bình cũng đã bắt đầu theo mẫu mã của gia đình cụ Văn mà làm lại đèn Trung Thu truyền thống, dù lúc đầu họ vẫn chỉ làm được những mẫu đơn giản về hình dạng. Nhưng số lượng khách đặt hàng đèn Trung Thu truyền thống từ khắp nơi trong nước, từ Hà Nội đến Huế hay Cần Thơ… đã tăng lên gấp bội so với những năm trước. Và nhiều trường học bắt đầu cho học sinh làm quen với thú vui rước đèn Trung Thu cổ truyền. Đèn Trung Thu Truyền thống Việt Nam đang tái xuất hiện một cách rất tích cực.
 
Điều quan trọng nhất là người thanh niên Phú Bình/Báo Đáp này hiện đã nắm giữ lại được tất cả các bí quyết của nghệ thuật làm đèn Trung Thu cổ truyền của đất nước, mà trong bao năm tưởng như đã mất.
 
 
Trịnh Bách
Theo VOA tiếng Việt ngày 22/9/2020
 
******
 

Người mang Trung thu Hà Nội xưa về gần hơn với ngày nay

Đó là nhà nghiên cứu Trịnh Bách, người miệt mài tìm kiếm, khôi phục những mẫu đèn Trung thu xưa, những con giống bột màu gắn với tuổi thơ của biết bao người Hà Nội.

Lật tìm trong dấu xưa

Trịnh Bách kể, sau khi về nước năm 1994, chứng kiến việc trẻ em cứ đến rằm tháng Tám lại chơi các đồ chơi Trung Quốc mà không hề biết đến những đèn lồng Trung thu cổ truyền độc đáo của nước mình, ông thấy thương các em, và tự thấy mình cần phải “làm cái gì đó”. Thế là ông cứ mày mò tìm trong ký ức, tìm sách vở tư liệu trong thư viện, “đào xới” trên internet để truy tìm những hình ảnh còn vương sót trong sách báo nước ngoài.

Nhà nghiên cứu Trịnh Bách và những mẫu đèn cổ khôi phục được

Tới quãng năm 2007, sau hàng chục chuyến đi về các làng nghề, Trịnh Bách đến khu Phú Bình (Quận 11, TP Hồ Chí Minh) - vốn là chỗ vẫn sản xuất đèn Trung thu từ khi ông còn bé - để tìm nghệ nhân tâm huyết có tay nghề để phục hồi lại nghệ thuật quý báu này. May mắn, ông gặp được gia đình cụ quả phụ Nguyễn Trọng Văn ở đấy.

“Gia đình cụ Văn đã có truyền thống làm đèn Trung thu từ nhiều đời ở làng Báo Đáo (Nam Trực, Nam Định). Từ khi chuyển vào TP Hồ Chí Minh, họ vẫn tiếp tục giữ nghề, dù rằng có phải thay đổi một ít về hình thức của những chiếc đèn này. Người làm việc trực tiếp với tôi là các em Nguyễn Trọng Bình, Nguyễn Trọng Thành, con trai cụ Văn. Họ rất kiên nhẫn, sáng dạ và quan trọng nhất là cầu tiến, yêu nghề…”, ông Trịnh Bách nhớ lại.

Theo nhà nghiên cứu Trịnh Bách, lồng đèn hình con thú có nguồn gốc từ thời Đường bên Trung Hoa. Khởi thủy chúng được làm với hình cá chép. Rồi sau đó còn có thỏ ngọc và cóc 3 chân, là những con vật sống với Hằng Nga trên cung Trăng… nhưng phong tục này đã mất ở Trung Quốc từ lâu. Trong khi đó, người Việt về sau còn tiếp tục tạo thêm đèn hình các con vật khác như gà, bướm, chuồn chuồn, ông sao, củ ấu...

Cái hay là ở chỗ đó, người Việt mình tiếp thu và sáng tạo thêm những thứ gắn với đời sống thường ngày, gần gũi với chúng ta để đưa vào những chiếc lồng đèn. Chính bởi vậy, lồng đèn dân gian của Việt Nam mang đặc trưng của văn minh lúa nước, văn minh sông Hồng với những hình ảnh quen thuộc không thể trộn lẫn được.

Người mang Trung thu Hà Nội xưa về gần hơn với ngày nay

Ngày xưa ở Bắc Bộ có nhiều nơi làm đèn Trung thu cho trẻ em nhưng nổi trội nhất phải kể đến làng Báo Đáp. Theo ông Trịnh Bách, đèn Trung thu của người làng Báo Đáp nổi tiếng đến nỗi nhiều bảo tàng bên Pháp hiện vẫn còn giữ được những cái đèn Trung thu rất đẹp, tinh xảo của họ làm từ những thập niên đầu thế kỷ XX.

Người Báo Đáp phần lớn dán đèn Trung thu bằng giấy nhiễu, hoặc có khi bằng vải. Đến những năm 1940 trở đi họ cũng đã bắt đầu dán đèn bằng giấy bóng kính. Khi vào Sài Gòn, họ đổi theo phong cách và thị hiếu của các nhà buôn Chợ Lớn mà đổi sang hoàn toàn dán đèn lồng bằng giấy bóng kính, thường là mầu đỏ. Theo phong cách của người Hoa Chợ Lớn, đèn nhiều khi còn được gắn thêm lông thỏ và mặt mài gắn kính.

Năm 2017, nhà nghiên cứu Trịnh Bách bắt đầu phục dựng lại đèn của phong cách Sài Gòn cũ mà ông vẫn được thấy và được chơi ở Sài Gòn khi còn nhỏ. Sau đó, từ ký ức của cụ Văn, ông cũng đã hồi phục được một số đèn theo phong cách Báo Đáp xưa, của những năm 1950, tiêu biểu như đèn Trung thu hình con cua mà lâu nay chỉ thấy trên bức ảnh tư liệu đen trắng. Chiếc đèn này đã được bàn giao cho Bảo tàng Hà Nội để phục vụ công chúng.

Nhuận sắc thêm cho những con giống bột màu

Qua nghiên cứu, ông Trịnh Bách khẳng định: Việt Nam là đất nước độc nhất có tục lệ nặn con giống bột làm đồ chơi trẻ em trong dịp Tết Trung thu. Tục nặn con giống bột có từ hàng trăm năm trước. Viện Viễn đông Bác Cổ hiện còn lưu giữ được ảnh những con giống bột được chụp từ đầu thế kỷ XX, với chú thích là “Đồ chơi bằng bột nhuộm màu của Tết Trung thu Hà Nội”.

Theo nhà nghiên cứu Trịnh Bách, con giống bột Trung thu Hà Nội có ba xuất xứ là khu vực Đồng Xuân (các phố Đồng Xuân, Hàng Đường, Hàng Mã…), Phố Khách (Hàng Buồm, Mã Mây…) và nhất là làng Xuân La, Phú Xuyên. Vì lý do lịch sử mà các con giống bột Hà Nội từ lâu nay hầu như đã bị thất truyền. Không ai còn biết đến chúng nữa. “Những năm 1995, 1996 tôi vẫn thấy một thiếu nữ bán con giống bột Trung thu ở chợ Trung thu phố Hàng Mã (Hà Nội). Sau đó không thấy nữa, vì nghe nói bà cụ làm con giống đã qua lớn tuổi không còn tiếp tục giữ nghề được nữa”, ông Trịnh Bách nói.

 

Con giống tò he, đặc trưng của Trung thu Hà Nội

Từ những ký ức trung thu xưa kết hợp với việc xem, chụp ảnh những con giống bột màu đang được lưu giữ trong bảo tàng ở Châu Âu, Trịnh Bách lại tiếp tục hành trình đưa con giống bột màu trở lại với đời sống đương đại. Quãng năm 1998, trong một lần tìm kiếm, Trịnh Bách đã gặp được Đặng Văn Hậu - một thiếu niên nặn tò he ở Phú Xuyên (Hà Nội) rất khéo tay.

Lúc đó hỏi Hậu và ông ngoại về con giống bột Trung thu Hà Nội thì cả hai đều không biết. Lại mất tới hơn 10 năm nữa, năm 2017, khi ấy Đặng Văn Hậu may mắn được gặp bà Phạm Nguyệt Ánh ở Nhân Hòa, Hà Nội. Bà Nguyệt Ánh trước kia ở Đồng Xuân, là nghệ nhân cuối cùng của dòng giống bột Đồng Xuân còn sót lại hiện nay. “Với kiến thức của bà Nguyệt Ánh, tay nghề của Đặng Văn Hậu và ký ức của tôi, chúng tôi đã hồi phục lại được cả ba dòng con giống bột và con bánh chim cò nói trên”, ông Trịnh Bách kể.

Nhà nghiên cứu Trịnh Bách cho rằng, trong quá trình khôi phục lại những gì đã mất, khó nhất là tìm được nghệ nhân biết nghề, yêu nghề, và nhất là có lương tâm nghề nghiệp. Việc khó kế tiếp là phải tìm lại được công thức cho ra được nguyên liệu gốc. “Một cái khó nữa là chống chọi lại được trước sự ra đời của các “truyền thống giả”.

Trẻ em thích thú với những con tò he dịp trung thu

Vì bao năm chiến tranh, thiếu thốn, nhiều ngành nghề đã bị mai một. Phần đông người ta đã không còn biết đến các ngành nghề này nữa. Lợi dụng điều không may này, nhiều người đã tự đặt ra những thứ “gọi là truyền thống” để trục lợi, đánh vào khát khao tìm về truyền thống của mọi người, nhất là giới trẻ hiện nay. Từ ẩm thực, văn chương, cho đến thủ công mỹ nghệ. Việc này có hại cho tương lai của nền văn hóa dân tộc”, nhà nghiên cứu Trịnh Bách khẳng định.

 

Hồng Anh sưu tầm

 

Ýnghĩa của ngày Tết Trung thu

 

Chỉnh sửa lần cuối vào %PM, %28 %049 %2020 %20:%09
back to top