Rượu Đế Trong Dân Gian Tây Nam Bộ Dưới Góc Nhìn Văn Hóa
Bùi Túy Phượng
1. Khó có thể biết được rượu ra đời từ lúc nào, ở đâu, song nói về rượu, về tác dụng chữa bệnh, về văn hóa uống rượu thì tất cả các dân tộc trên thế giới đều có. Ở Việt Nam, rượu gắn với sinh hoạt cộng đồng, với các nghi lễ, hội hè, đình đám, với những lời thề ước, nhưng nếu uống rượu quá đà cũng gây nhiều phiền lụy... Chính vì vậy, chẳng biết tự bao giờ, rượu đã đi đời sống văn hóa của người bình dân và bằng cách này hay cách khác nó đã tồn tại trong cộng đồng người Việt nói chung, trong đó có người dân đồng bằng sông nước Cửu Long.
Theo Cơ sở văn hoá Việt Nam của Trần Quốc Vượng (chủ biên), Nxb Giáo Dục, H. 2006, phần được coi là Tây Nam Bộ có diện tích khoảng 4.000 km2, chủ yếu là vùng đồng bằng sông Cửu Long, một số đảo (lớn nhất là đảo Phú Quốc) cùng một vài dãy núi thấp ở phía Tây An Giang, Kiên Giang. Lịch sử hình thành vùng đất này gắn liền với bước chân những người đi mở cõi thế kỷ XVII – XVIII
Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ con cá vùng cũng kinh
Gắn liền với đời sống sinh hoạt hàng ngày thức uống của họ ngoài nước mưa, nước giếng, họ còn dùng trà hay các thứ rễ cây, lá cây pha nước để giải khát. Rượu cũng là loại đồ uống không thể thiếu đối với người lao động bình dân. Rượu là đồ uống, nhưng không phải là nước, chức năng của nó không đơn thuần chỉ là giải khát, và đương nhiên rượu cũng được chế biến kỳ công hơn là nước có sẵn từ tự nhiên. Xét về góc độ văn hóa, rượu đã tạo nên một đặc trưng thú vị!
2. Cách nấu rượu: Để có được rượu ngon tuyệt hảo người ta phải chăm chút từng hạt nếp, cục men, từng động tác chưng cất, pha chế để được loại rượu ngon nhất. Chọn nếp là bước quan trọng đầu tiên. Muốn được rượu trong thì nếp phải ''rặt'', tuyệt đối không được lộn hạt gạo nào. Thường là nếp mỡ và nếp mù u và nếp than đen tuyền, ... Sau khi chọn nếp ngon, đem nấu thành cơm nếp, để nguội (còn âm ấm) thì rắc men vào (giã nhuyễn) vào ủ kín. Men rượu nguyên thủy được mài rễ thảo mộc hoặc men bí truyền chế từ các vị thuốc bắc: quế khâu, đinh hương, trần bì, quế chi, đại hồi cộng thêm nhãn lồng, trầu hương... Sau ba đêm, men đã lên, người ta chan nước vào ủ kín lại như lúc đầu, để thêm ba đêm sau nữa thì nấu.
Lò nấu rượu đắp bằng đất sét. Cơm rượu được cho vào trã (loại nồi bằng đất nung lớn), dùng rơm, rạ, củi khô đun lên, hỗn hợp cơm rượu có nước bay hơi, người ta cho hơi nước ấy gặp lạnh (nước lạnh này chứa trên cái việm sành) thì ngưng lại thành giọt rượu, cứ thế hứng vào chai, ve, can nhựa, …
Lúc trước nấu bằng rơm, trấu nên phải mất cả ngày trời mới xong một mẻ rượu, nay nấu bằng than đá nên nhanh hơn, chỉ cần khoảng 4 tiếng đồng hồ là xong (một tiếng đun sôi, 3 tiếng chưng cất rượu).
Rượu lấy được lúc đầu gọi là rượu gốc, nước trong veo, cao độ, cứ thế dần về sau nước rượu nhạt dần. Khi nấu xong, tùy theo yêu cầu và mục đích dùng người ta pha “nước gốc” và “nước ngọn” chung vào nhau, cũng có khi để nguyên rượu gốc mà dùng, hay pha thêm nước cho nồng độ lạt bớt đi!
Xin được nói thêm ngày nay, nhiều người đã thay nếp bằng gạo để nấu rượu, chất lượng của loại rượu này đương nhiên thấp hơn so với nguyên thủy!
3. Tên gọi các loại rượu: Rượu nấu bằng nếp như chúng tôi đã miêu tả nên tên gọi đầu tiên của nó là rượu nép. Dân gian còn gọi bằng nhiều tên khác như rượu trắng, rượu đế, …
Rượu trắng là dựa vào màu sắc của nước rượu. Cũng loại rượu ấy, nhưng nhiều người nấu nếp than (loại nếp hạt đen) làm cơm rượu (xin nói thêm cơm rượu này cũng là cơm nếp ngon, được vò viên tròn nhỏ cỡ đầu ngón chân cái, ủ men, chan nước đường, dùng ăn chơi lũ nhàn nhã, thức ăn này có loại men riêng, còn “cơm rượu” dùng để nấu rượu ít người “ăn nổi” bởi nồng độ men của nó “nặng” hơn nhiều!), nghiền nát cho thêm nước có đường vào pha chung tạo thành loại rượu có màu hồng sẫm, được gọi là rượu nếp than.
Rượu nếp than đậm đặc rồi chôn xuống đất, … mấy tháng đào lên uống rất ngon hơn nhiều lần, dân nhậu gọi là “lão tửu”!
Rượu trắng, rượu nếp than còn có những tên gọi khác: rượu đế, nước mắt quê hương!
Tên gọi rượu đế được nhiều bậc lão nông tri điền miệt này giải thích rằng: Đầu thập niên 1860, Pháp đến xâm chiếm vùng Sài Gòn – Gia Định, sau đó lấn dần toàn cõi Nam Kỳ Lục Tỉnh. Chúng ngang nhiên “cấm người bản xứ nấu rượu” nhưng lại buộc dân ta uống “rượu Tây!”. Bà con ta tất nhiên là không chịu để bọn thực dân đô hộ lộng quyền nên quyết định… nấu rượu lậu. Rượu lậu vừa rẻ lại vừa ngon hơn rượu của Nhà nước thực dân, cơm rượu được cho vào các hũ sành rồi đem giấu trong những lùm tranh, lùm đế ở xa nhà, hoặc khi thấy Tây đoan đến bắt, nghe động thì bê tất cả nồi rượu, bình rượu chạy vội giấu dưới đồng cỏ hoang dại mọc toàn cây đế, một loài cây giống cỏ năn, cỏ lác, cỏ tranh, hay lau sậy mọc cao vút đầu. Từ đó, dân gian gọi rượu này là rượu đế!
Nhưng xem ra không mấy bợm nhậu hiểu tường tần nguyên lai của hai tiếng rượu đế này. Họ chỉ gọi rượu đế là rượu vua. Dân nhậu tự xưng là con Ngọc Hoàng, mà con Ngọc Hoàng thì không phải sợ ai cả!
Hiu hiu gió thổi đầu non
Mấy thằng cha uống rượu là con Ngọc Hoàng
Đặc sản rượu đế có rượu đế Gò Đen. Gò Đen là một địa danh Bến Lức, tỉnh Long An. Rượu đế Gò Đen có từ thời Pháp thuộc. Vì sao Gò Đen lại được coi là ''đệ nhất tửu''? Truyền rằng, trước đây, dân Gò Đen nấu rượu bằng tất cả cái tâm.
Người Gò Đen cẩn thận trong các bước nấu rượu. Nếp được ngâm đến ngày thứ bảy thì mới bắt đầu cất rượu. Rượu đế Gò Đen dễ nhận biết. Dân sành rượu thường dùng cách lắc chai để nhận biết rượu ngon hay dở. Rượu ngon khi lắc chai sẽ nổi bọt và phân thành 3 tầng rõ rệt, bọt lại chậm tan.
''Mỹ tửu'' Gò Đen ''chinh phục'' người uống bởi rượu trong như nước mưa. Mỗi khi rót rượu vào ly, tiếng rượu chảy, vị cay nồng đã đủ làm say, làm khao khát lòng người uống.
Để đánh giá chất lượng rượu, người bình dân miệt này còn truyền tai câu hát:
Rượu ngon bởi vì men nồng
Người khôn bởi vị giống dòng mới khôn.
Rượu đế được đem ngâm với bìm bịp (một loài chim mà theo kinh nghiệm dân gian là một phương thuốc có tác dụng bổ thận tráng dương), gọi là rượu bìm bịp, ngâm với con tắc kè (loài bò sát, đã được thẩm định là có chức năng chữa bệnh gân cốt) gọi là rượu tắc kè, … Tương tự thế, rượu đế ngâm với chuối hột (trái chuối hột chín, loại chuối rừng cho trái nhỏ, vỏ dày, nhiều hột đen, được đem về ép phơi khô, nướng sơ qua lửa than rồi cho vào keo đổ rượu đế vào ngâm) một tháng sau, rượu có màu đỏ au, gọi là rượu chuối hột; rượu ngâm với rễ nhàu, hoặc trái nhàu chín tạo nên màu vàng nhạt, gọi là rượu nhàu! (Nhàu ở đây còn được bợm nhậu chơi chữ, uống vô… nhào luôn!)
Riêng rượu rắn thì có nhiều loại tam xà, ngũ xà, nhiều khi người sành điệu chỉ ngâm trong hũ duy nhất một con… hổ mang chúa! Rượu ngâm thuốc bắc cũng rất đa dạng, những năm gần đây dân miệt này cũng rất hảo loại… Minh Mạng thang!
Ngoài những thứ rượu đế ngâm hoặc để nguyên chất uống, nhiều người còn ngâm rượu để bóp chân tay, gân cốt, … thứ này không phổ biến, thường chỉ có các thầy thuốc nam, hoặc các thầy dạy võ mới sử dụng!
4. Rượu trong lễ nghi, phong tục: đối với người miệt sông nước, bất cứ nghi lễ nào cũng không thể thiếu… rượu!
Đối với đời người, lễ đầy tháng, thôi nôi cho trẻ con mới sinh cũng dùng rượu để cúng mười hai mụ bà, mười ba đức thầy, cầu mong cho trẻ mau lớn, khỏe mạnh!
Trong lễ cưới, hỏi của nam nữ thanh niên, rượu luôn luôn có mặt. Cách đây gần thế kỷ, khi đi mời khách đến dự đám cưới, đám hỏi, nhiều gia đình khá giả, hiểu lễ nghĩa thường cho người mặc áo dài, chít khăn đóng, mang theo mâm trầu rượu đến nơi thì kính cẩn rót rượu mời gia chủ và sau đó mới trình thưa chuyện. Ngày nay, trong thiệp hồng báo tin vui, người ta vẫn dùng câu… Vui lòng đến dự tiệc Rượu, chung vui cùng gia đình chúng tôi, …. Trong mọi hoạt động lẽ nghi của đám cưới, đám nói, luôn luôn có một chiếc bình nhỏ và hai chiếc chung nhỏ (gọi là mâm trầu rượu). Muốn nói gì, thưa chuyện gì chủ lễ đều phải rót rượu để trình rồi mới thưa chuyện, …
Cũng từ đó mà đôi tân lang tân giai nhân vui mừng ra mặt khi dâng chung rượu cho đấng sanh thành:
Rượu lưu li chân quỳ tay rót,
Cha mẹ uống rồi nối gót theo anh.
Trong lễ tang, rượu cũng được dùng cúng tế, lễ cúng đám giỗ thì sau ba tuần rượu, hai tuần trà mới được… lui mâm! Khi đốt áo quần vàng mả, đồ đốt cháy hết người ta rưới vào đó ít rượu với tâm niệm để người dưới suối vàng… nhận lễ!
Trong các lễ hội cúng đình, cúng miễu, rượu cũng luôn luôn có mặt, và giữ vai trò quan trọng về mặt nghi lễ! (Trừ lễ Phật ở chùa, bởi rượu là thứ giới cấm của Phật giáo)
Rượu ngon chắt để bàn thờ
Ba bốn năm không lạt (nhạt), sao giờ lạt đi?
5. Rượu để uống
Như chúng tôi vừa nói, rượu chủ yếu là để uống. Các hình thức uống rượu, mục đích của việc uống rượu vốn rất đa dạng, phong phú.
5.1. Uống rượu… một mình: chỉ một người, một bình rượu đế nhâm nhi để giản gân cốt sau một ngày đào mương, vét cỏ, làm vườn, cấy ruộng, … Hay người trong cuộc có chuyện buồn đau trong đời không thể bày tỏ cùng cộng đồng, người ta cũng mượn rượu để giải khuây.
Hồ Xuân Hương ngày trước đã có câu thơ nổi tiếng miêu tả tình cảnh đó: Chén rượu hương đưa say lại tỉnh (Tự Tình)
Rượu càng uống cảng tỉnh, mới là nỗi đau lên đã lên đến tận cùng!
5.2. Rượu uống với bạn bè để vui vẻ: dân gian thường nói trà tam rượu tứ. Uống rượu, ít khi một mình. Thường mâm rượu có hai, ba, bốn, … thậm chí cả… chục người cùng nhau “nâng ly, cạn chén”. Người dân miệt sông nước Cửu Long có đặc tính hào phóng mỗi khi rượu đã vào. Có khi lúc đầu mâm rượu bày trước cửa sân nhà chỉ vài người, sau một hồi, … gặp bất cứ ai đi ngang (không phân biệt quen hay lạ) đều được gia chủ mời vô… uống! Chuyện cười ra nước mắt cũng xảy ra: những vị khách “trên trời rơi xuống” này, uống đã, say lăn ra ngủ. Khi tỉnh lại cả chủ lẫn khách không ai nhận ra ai, bởi họ chẳng… quen nhau!
Mỗi khi có khách ở xa đến chơi thì gần như chắc chắn sẽ có… nhậu, bởi khách đến nhà không gà thì vịt, vậy mà! Đồ ăn, thức nhấm sang thì:
Bắt con cá lóc nướng trui
Làm mâm rượu trắng đãi người phương xa.
Nhiều lúc cao hứng chỉ vài cần vài con khô cá sặc, khô cá trê, thậm chí chỉ là trái chuối chát, trái khế, trái me dốt với chén mắm ruốc, vài cục muối, mấy trái ớt, … họ cũng nhậu được!
Về chỗ nhậu thì trong nhà, ngoài vườn, trên bờ mương, đầu ruộng, … miễn là có chỗ ngồi được là xong.
Ở miệt này, thường uống bằng ly (loại dùng uống trà), kích cỡ lớn nhỏ khác nhau. Uống rượu cũng có nhiều cách. Chơi nguyên táo, tức là uống cạn cả ly; cưa hai cho đậm đà tình nghĩa, tức là người trước uống nửa ly, người sau uống nửa ly còn lại. Theo cách uống này, thì ai lớn tuổi hơn được kính trọng mời uống, người nhỏ hơn uống sau. Có khi, để tỏ rõ sự sòng phẳng trong bàn nhậu họ tự giao ai bưng ly nấy uống, như vậy đỡ tốn tiền đò! (tức chuyền tới chuyền lui)
Nếu như ở nhiều nơi ngoài miền Bắc trong mâm rượu, mỗi người được “phân” một chung, rượu rót đầy ai muốn uống sao thì tùy lượng, còn ở vùng này ít khi uống rượu cách đó, cả mâm chỉ dùng chung một ly. Bàn rượu cử “chủ xị” làm người cầm chai rót và chuyền. Chủ xị thường phải công bằng, chuyền cho đủ và không được quên ai, kỵ nhất là “quên mình” (nếu xảy ra, sẽ bị coi là ăn gian, bị phạt nặng). Muốn “từ chức”, chủ xị phải tự uống 3 ly, ai cãi chủ xị, nếu sai cũng bị phạt 3 ly, nếu chủ xị (tức bỏ qua ai đó trong mâm), sẽ bị phạt, … Uống rượu thì phải cạn đáy, ai uống còn sót lại chút ít, bị cho là “kê tán”… sẽ bị cười, bị mất danh của… người nhậu!
Ai đến sau, hoặc về trước cũng bị phạt theo “luật” vào ba, ra bảy (đi trễ uống liên tiếp 3 ly, về trước thì phải “nốc”… 7 ly!), ...
Đánh giá tửu lượng, dân ăn nhậu truyền nhau bài vè:
Một ly nhâm nhi tình bạn
Hai ly giải cạn tình sầu
Ba ly mũi chảy tới râu
Bốn ly nằm đâu gục đó
Năm ly cho chó ăn chè
Sáu ly ai nói nấy nghe
Bảy ly le le lội nước,
Tám ly chân bước chân quỳ
Chín ly còn gì mà kể
Mười ly khiêng để xuống xuồng
…
Xem ra, đây chỉ là bài vè dùng để chế nhạo người có tửu lượng yếu, mới có bảy, tám, … ly đã bước, đã quỳ! Sự thật, có người tửu lượng đến 1 – 2 lít là chuyện… thường! (đương nhiên còn tùy theo chất lượng nồng độ của rượu nữa!)
Ngoài uống, rượu còn dùng pha với để tắm cho trẻ con mà dân gian cho là phòng gió độc, chóng trúng nước! Rượu dùng để tẩy rửa những nơi có mùi xú khí!
6. Mấy điều suy ngẫm
6.1 Những nét đẹp
Rượu trở thành “đối tượng” để người hiện tại giao tiếp với người khuất mặt. Mượn men rượu nhờ thánh thần chứng kiến con cháu hiện tiền làm ăn, chung sống vẹn tình trọn nghĩa.
Giúp con người thêm mạnh mẽ giữa vùng hoang vu thời mở cõi, giúp con người khuây khỏa tinh thần, …
Rượu thắt chặt tình thâm thủ túc, bằng hữu, người lạ hóa quen, nhiều khi nhờ một ly rượu… tình cờ.
Trong bữa rượu sự công bằng, nét đẹp trọng tình giữ nghĩa vẫn còn được lưu giữ qua từng ly rượu mời, rượu uống.
Rượu giúp con người thêm khỏe mạnh nếu uống với lưu lượng vừa phải, hợp lý.
Rượu cũng mang lại những giá trị kinh tế cho người miệt đồng. Hèm rượu được nông dân dùng nuôi heo tăng thêm thu nhập, nhiều gia đình thoát nghèo nhờ mô hình đó, …
6.2. Những mặt hạn chế
Không phải nói nhiều, dân gian đã cảnh báo ngay:
Rượu nhạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm
Điều thường gặp là “rượu vào, lời ra", nói nhiều, nói dài nhưng không ý thức hết điều đã nói, gây chuyện “đa ngôn đa quá" (nhiều lời thì càng nhiều lầm lỗi). Chí ít, cũng phiền nhiễu đến người xung quanh:
Ở đời chẳng biết sợ ai,
Sợ thằng say rượu nói dai tối ngày.
Sai be bét không làm chủ được mình, gây rối trật tự, … thậm chí dẫn tới phạm pháp, để lại những hậu quả không lường!
Nhiều người, mượn rượu để đánh giá con người “nam vô tửu như kỳ vô phong” một cách cực đoan, khích bác, vô lý, gây mất đoàn kết, hiềm khích không trọn vẹn của tình làng nghĩa xóm!
Uống rượu không điều độ, bỏ công ăn việc làm, hao tiền tốn của thiệt hại không nhỏ về kinh tế. Dân gian phê phán những con người ấy, thế này:
Rượu chè, cờ bạc lu bù,
Hết tiền đã có mẹ thằng cu bán hàng
Hay:
Giàu đâu những kẻ ngủ trưa
Sang đây những kẻ say sưa tối ngày
Về sức khỏe, rượu gây nhiều tác hại nghiêm trọng cho sức khỏe cho con người, các chứng bệnh nan y phần lớn có nguyên nhân do rượu gây nên!
Không thể tách rượu ra khỏi đời sống, nó đã trở thành nét sinh hoạt độc đáo, thú vị mà người bình dân tạo nên. Vấn đề là làm sao người dùng đủ “tỉnh táo” sử dụng nó một cách hiệu quả và hợp lý nhất!
Bùi Túy Phượng
*********
Trong các loại rượu đế , ta có Rượu Đế Gò Đen , ngoài ra còn có Rượu Phú Lễ
Rượu Phú Lễ
Phú Lễ (Bến Tre) có 6 cái nổi tiếng: rượu đế, nghề đan lát, 505 phụ nữ không chồng, chiến khu Lạc Địa, ngôi đình Phú Lễ 180 tuổi, và cái nổi tiếng cuối cùng của xứ này là tuy có 5 cái nổi tiếng vừa nêu, đáng lý phải là gói du lịch hấp dẫn khách với nhiều ngôi làng còn nguyên nét cổ sơ, nhưng lại ít ai biết đến.
Chắc là chờ vài năm nữa, để rượu Phú Lễ trở thành “vị đại sứ” cho nó kịp đi khắp năm châu.
Những ngôi làng ở Phú Lễ còn giữ nguyên nét cổ xưa, nếu được bảo tồn chất lượng, sẽ trở thành những ngôi làng “miền Trung”, xứ Quảng, với hệ thống đường đất đỏ cũ kỹ, giữa miền Nam. Ba Tri sẽ trở thành bảo tàng làng cổ.
Ở đây, nhà của người dân phần đông là nhà rọi – loại nhà cột chống thẳng lên đầu kèo, chia không gian nhà làm hai – đặc trưng của những người dân miền Trung nghèo. Vả, ở cái xứ họ chọn làm nơi sinh sống “tị địa”, họ cũng đến bằng tay trắng, cũng nghèo, lại không có nhiều cây rừng, làm sao sắm nổi nhà rường – loại nhà cột chống ở trính và kèo chịu lực bằng trụ lỏng – rất tốn cây. Đặc trưng “tị địa” đến nay vẫn còn mạnh làng nào làng nấy sống, ít khi người dân làng này sang làng khác.
Gần đây Phú Lễ được nhiều người biết đến hơn khi tỉnh Bến Tre đầu tư vào một dự án 77 triệu đồng để phục hồi danh giá của rượu Phú Lễ vốn có tiếng từ thời Tây, lại dần dần lụi tàn chất lượng vào thời lương thực thiếu thốn sau năm 1975. Công trình kéo dài 18 tháng để chuẩn hóa công thức làm hồ men và thời gian kháp rượu. Ông Nguyễn Văn Chí, mọi người quen gọi là Ba Chí, cho biết tới nay, có khoảng 100 hộ nấu rượu, có khả năng sản xuất mỗi ngày 5.000 lít rượu.
Nhiều ý kiến cho rằng rượu Phú Lễ ngon tùy thuộc vào 4 yếu tố:
Một là: men; hai là, nước giếng của vùng này. Bởi vậy khi người con gái lấy chồng sang xứ khác vẫn không nấu được loại rượu giống y như ngày còn ở với mẹ. Ba là, nếp trồng trên chính vùng đất này. Một số nhà kháp thử bằng nếp khác, rượu đã không ngon bằng. Và bốn là, do những cái tỉn ủ cơm để lâu hằng trăm năm, chăng?
Rượu Phú Lễ có thể xếp vào hàng danh đế ngang hàng với làng Vân, Kim Long, Bàu Đá và Gò Đen.
Nghề đan lát ở Phú Lễ cũng là nghề có hàng trăm năm tuổi, và nhiều người dân hiện nay vẫn thực hành nghề này kiếm sống qua liên kết với những công ty làm hàng thủ công mỹ nghệ. Chị Trần Thị Lan, phó chủ tịch hội phụ nữ xã cho biết, các công ty Thanh Bình, Ngọc Ẩn đến liên hệ với địa phương bàn chuyện gia công sản xuất cho họ. Người dân chỉ cần bỏ công ra làm theo mẫu mã họ mang đến rồi được trả tiền theo sản phẩm đã làm. Niềm hy vọng nghề truyền thống ở đây vẫn tiếp tục sống và rồi sản phẩm của họ có lúc bán trực tiếp đến tay du khách.
Đình Phú Lễ cũng là một trong những di tích khá cao tuổi, một thời gian chiến tranh, được người dân làng tháo dàn trò cất. Và đến năm 1950 mới ráp lại. Đình được phong di tích văn hóa năm 1993, là một quần thể gồm 11 ngôi nhà, mỗi năm có hai lễ hội lớn là lễ hạ điền (còn gọi là lễ Kỳ Yên) tháng 3 và lễ thượng điền tháng 11. Qui mô của đình cũng nói lên được phần nào một thời trù phú của người dân làng.
Phú Lễ cũng là nơi lưu giữ một trữ lượng ca dao, dân ca phong phú, từ hò, lý, vè, nói thơ, hát bội đến điệu hát sắc bùa.
Từ đình Phú Lễ đi vài cây số là vào sâu căn cứ Lạc Địa. Gọi là Lạc Địa vì ai vào đây cũng có thể đi lạc và phải vái ông địa, một bô lão trong làng cắt nghĩa. Ông cụ còn kể lại kinh nghiệm: “Theo đường trâu đi thì ra được, không theo đường trâu thì không biết đường ra, dầu cho có ở đây mấy chục năm trời”. Đây là khu vực có gần 400 đìa lớn, đìa nhỏ không tính. Hiện đìa được giao khoán để nuôi cá. Tỉnh đã đầu tư vào đây 2,8 tỉ đồng để từng bước biến nơi này thành khu du lịch sinh thái.
Ý định là vậy nên con đường đất đỏ chính trong làng đã sắp sửa bị gạt sổ bởi qui hoạch đường liên huyện biến nó thành đường nhựa để du khách dễ tiếp cận với khu du lịch sinh thái Lạc Địa hơn? Nhưng người ta quên nghĩ rằng, du khách không nhất thiết phải đến đây để tìm phong vị đường nhựa . Và ba cái làng Phú Thạnh, Phú Lợi, Phú Khương, ngày mai nếu không có kế hoạch bảo tồn hợp lý sẽ hư mất. Và Ba Tri mất đi một mảng lớn về cái hấp dẫn du khách cộng hưởng với khu mộ các danh nhân văn hóa Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu; sân chim Vàm Hồ và những bến sông.
Theo SGTT
Hoàng Điệp ST.