Những người giúp chữ Quốc ngữ làm nên lịch sử

Những người giúp chữ Quốc ngữ làm nên lịch sử

**********

 
https://baomai.blogspot.com/
Pháp áp đặt chế độ bảo hộ ở Bắc Kỳ sau khi đuổi hết quân Thanh đi
 
Ở Việt Nam vừa có thêm một sáng kiến nhằm ghi công và vinh danh các vị truyền giáo Pháp, Bồ Đào Nha đã 'xây dựng, phát triển' chữ Quốc ngữ.
Nỗ lực tìm lại các nhân vật lịch sử đã đóng góp cho việc hình thành ký tự La Tinh của tiếng Việt luôn là việc cần làm và rất đáng khuyến khích.
Nhìn lại cuộc giao lưu Đông Tây ở Việt Nam, có lẽ ta cần tránh cả mặc cảm bài ngoại, đề cao người Việt quá mức cũng như tâm lý sùng bái các giáo sỹ người Âu.
 
Có ba lý do:
Một là việc tạo ra bộ mẫu tự La tinh cho tiếng Việt không có gì quá độc đáo, thậm chí xảy ra sau Trung văn khá lâu.
Hai là chính các nỗ lực của trí thức Việt Nam và chính sách tiến bộ, khoa học của chính quyền Pháp tại Đông Dương mới thực sự tạo đà cho chữ Quốc ngữ lan tỏa.
Ba là Đông Kinh Nghĩa Thục không đi tiên phong quảng bá Quốc ngữ mà chỉ xóa nốt rào cản tâm lý đã bị lạc hậu để trí thức bản địa yên tâm dùng Quốc ngữ.
1. La tinh hóa các tiếng ngoài châu Âu
Trong lịch sử ngôn ngữ, việc La tinh hóa (Romanisation) các tiếng ngoài châu Âu đã diễn ra khá nhiều và tiếng Việt không phải là biệt lệ.
Đến Trung Hoa vào cuối thế kỷ 16, nhà truyền giáo Matteo Ricci đã nhanh chóng soạn tự điển tiếng Trung bằng ký tự La tinh đầu tiên.
Sang đầu thế kỷ 17, ông cho xuất bản tại Bắc Kinh cuốn Tây Tự Kỳ Dị (Xizi Qiji - Miracle of Western Letters) bản tiếng Trung theo âm La Tinh.
Sách ra tại Bắc Kinh năm 1605, gần nửa thế kỷ trước khi cha Alexandre de Rhodes xuất bản ở Rome năm 1651 'Phép giảng tám ngày' tiếng Việt dạng La tinh và cuốn 'Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum'.
Cả Matteo Ricci và Michele Ruggieri đều dùng tiếng Bồ Đào Nha để phiên âm Hoa ngữ, như cách các giáo sỹ Bồ Đào Nha đầu tiên ghi ký âm tiếng Việt.
Sang năm 1626, một giáo sỹ dòng Tên khác, Nicolas Trigault (1577-1628) xuất bản cuốn 'Tây Nho Nhĩ Mục Tư (Xiru Ermu Zi) ở Hàng Châu.
 
https://baomai.blogspot.com/
Hoàng đế Bảo Đại và Bộ trưởng Thuộc địa Albert Sarraut tại Pháp năm 1933. Ông Albert Sarraut sau khi làm Toàn quyền Đông Dương đã về nước và làm Bộ trưởng Thuộc địa trong hai nhiệm kỳ
 
Đến cuối thế kỷ 19, Thomas Wade và Herbert A. Giles soạn 'Chinese-English Dictionary' năm 1892, tạo chuẩn quốc tế cho Hoa ngữ dạng La tinh.
Sau này, Mao Trạch Đông cho tạo ra bộ bính âm (pinyin) ở CHND Trung Hoa nhưng ký âm Wade và Giles đến nay vẫn được dùng ở Hong Kong và Đài Loan.
Tại Ấn Độ, tiếng Hindi dạng Devanagari được học giả, nhà thống kê và quan chức thuộc địa người Scotland, William Hunter chuyển sang hệ La tinh cuối thế kỷ 19.
Hindi hệ Hunterian vẫn được chính phủ Ấn Độ ngày nay sử dụng và từng là chuẩn để các nước Nam Á nghiên cứu khi La tinh hóa tiếng của họ.
Vua Thái Lan hồi đầu thế kỷ 20 cũng cho soạn ra bộ chữ La tinh tiếng Thái, và tham khảo từ hệ Hunterian.
Việc La tinh hóa như thế không phải là quá khó khăn mà quan trọng hơn cả là môi trường chính trị, xã hội có thuận tiện để phể biến alphabet mới.
Ví dụ tiếng Ả Rập được người Pháp chuyển sang hệ La tinh nhưng bị phái dân tộc chủ nghĩa Ả Rập bác bỏ vì coi đó là một 'âm mưu Do Thái'.
Nay, giới trẻ Trung Đông lại dùng không chính thức tiếng Ả Rập hệ La tinh cho mạng xã hội vì giản tiện khi viết trên smartphone .
Còn tại Thổ Nhĩ Kỳ, cải cách ký tự thời Ataturk năm 1932 đã nhanh chóng 'Âu hóa' văn tự hệ giống tiếng Ả Rập để chuyển sang La tinh toàn bộ như ngày nay.
Các tiếng Trung Á từng đổi hai lần, từ ký tự Ả Rập sang Cyrillic thời Liên Xô để gần đây lại chuyển sang hệ La tinh, với Kazachstan là muộn nhất, sẽ xong năm 2025.
Các vị truyền giáo đã có công đầu tạo ra bộ chữ Việt hệ La tinh nhưng giả sử không có họ thì việc đó cũng hoàn toàn có thể được làm sau này.
Theo Britannica, Alexandre de Rhodes muốn dùng chữ Quốc ngữ để "cải đạo Ky Tô cho toàn thể dân chúng" ở Đàng Trong và Đàng Ngoài nhưng chỉ cải đạo được cho chừng 6500 người Việt, con số không đáng kể.
Người Pháp sau khi chiếm Đông Dương đã không ủng hộ việc biến người Việt thành dân tộc Thiên Chúa Giáo.
https://baomai.blogspot.com/
Thủ tướng Jules Ferry của Pháp thời kỳ đánh Bắc Kỳ
 
Ngược lại, các lãnh đạo nền Cộng hòa Pháp khi đó nổi tiếng là chống tăng lữ (anti-clerical) và theo tinh thần giáo dục thế tục.
Họ đã đem Quốc ngữ dạy trong các trường dòng ra trường công lập cho toàn thể dân Việt, mở đường cho cách viết mới này trở thành phổ biến.
2. Vai trò của Jules Ferry và các quan chức Pháp
Hồi năm 2012, BBC News có bài nói về hai người khổng lồ của văn hóa Pháp, Jules Ferry và Marie Curie (Giants of French history: Jules Ferry and Marie Curie).
Bà Marie Sklodowska-Curie (1867-1934)) nhà khoa học Pháp gốc Ba Lan được hai giải Nobel, thì nhiều người ở Việt Nam đã biết đến.
Tên của bà được đặt cho trường học tại Đông Dương trước đây và Việt Nam hiện nay.
Còn Jules Ferry (1832-1893), thủ tướng Pháp, nhà cải cách giáo dục nổi tiếng, cũng từng có tên đặt cho đường phố ở Việt Nam nhưng sau bị xóa.
Người Việt Nam có thể chỉ coi ông là Pháp thực dân nhưng Ferry là nhân vật rất quan trọng đối với Đông Dương cuối thế kỷ 19.
Năm 1881, Jules Ferry đề ra cải cách giáo dục cho Cộng hòa Pháp, dựa trên bốn nguyên tắc: Phổ cập tiểu học; Miễn phí, Bình đẳng giới tính và Phi tôn giáo.
Cùng thời gian, chính quyền Pháp cho giải tán dòng Tên (Jesuits) và cấm mọi dòng tu và việc dạy tôn giáo nằm ngoài thỏa thuận Concordat với Vatican.
Luật Ferry trở thành tiêu chuẩn của giáo dục hiện đại ở Cộng hòa Pháp, đi trước Anh và Đức, rồi thành chuẩn cho toàn châu Âu sau này.
Là người nhiệt thành ủng hộ việc xâm chiếm thuộc địa ở Việt Nam, ông bị chính giới Pháp đặt cho cái tên 'Người Bắc Kỳ'.
Năm 1885, Jules Ferry mất chức thủ tướng sau khi quân Pháp thua lính nhà Thanh ở trận Lạng Sơn.
Nhưng hệ thống giáo dục kiểu Pháp theo cải cách Jules Ferry được đem vào Việt Nam đã thay đổi diện mạo xứ sở này.
Tính phổ cập, không phân biệt giới tính trong giáo dục là những tư tưởng quá mới lạ ở nơi đa số người dân mù chữ, phụ nữ trong cả nghìn năm không được đi học.
Các trường thuộc địa đã đưa hàng vạn em trai và em gái người Việt đến lớp, học với thầy giáo và cô giáo Pháp theo hệ giáo dục văn minh nhất châu Âu.
Trong giáo trình này, Việt văn và Quốc ngữ đóng vai trò quan trọng nhờ vào cả chính sách của Pháp và sức thuyết phục của trí thức Việt.
 
3. Vì sao Pháp ủng hộ Quốc ngữ?
https://baomai.blogspot.com/
Thầy giáo và học sinh trường trung học bảo hộ Albert Sarraut, Hà Nội
 
Thời kỳ người Âu xâm chiếm, khai thác và khai hóa các thuộc địa kéo dài hàng trăm năm nên khó có một đánh giá chung đen trắng rõ rệt.
Nhìn chung thì các thuộc địa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là lạc hậu nhất, của Anh Pháp tốt hơn, và của Hà Lan, Bỉ thì kém cỏi, ít được đầu tư.
Ngoài việc truyền đạo, khai hóa và kiến thiết, các chế độ thực dân cũng tàn phá văn hóa bản địa, bóc lột nô lệ và còn gây tội ác diệt chủng như ở Brazil.
Nhưng khi Pháp sang Việt Nam vào thế kỷ 19, văn minh tại châu Âu và ý thức về dân quyền cũng đã được nâng cao.
Paris cho sang Đông Dương không ít nhà cai trị có uy tín về văn hóa, khoa học.
GS Trịnh Văn Thảo trong 'L'ecole francaise en Indochine' nói Gustave Domoutier, Paul Bert đều là những nhà cải cách theo trường phái Jules Ferry.
Ông Domoutier, giám đốc Viện Viễn đông Bác Cổ, không chỉ nghiên cứu về núi Ba Vì, về Cổ Loa, Hoa Lư bằng tiếng Pháp mà còn soạn 'Bài tập tiếng Annam'.
Cùng thời, Paul Bert trước khi sang làm Thống sứ Trung kỳ và Bắc Kỳ đã là nhà khoa học lỗi lạc, cha đẻ của y học không gian (aviation medicine).
Ngày nay, của công trình mang tính tiên phong của ông về ảnh hưởng về mặt sinh lý của áp suất không khí và dưới nước vẫn được áp dụng cho hàng không vũ trụ.
Sau đó, toàn quyền Paul Doumer sang Đông Dương từ 1897 đến 1902 tiếp tục các công trình xây dựng Hà Nội và cải tổ hệ thống giáo dục.
Nhưng phải đến khi Albert Sarraut sang làm toàn quyền Đông Dương hai lần (1911-14, 1916-19) thì chữ Quốc ngữ mới thực sự khởi sắc.
Theo Keith Taylor, nhờ 'Kỷ nguyên Albert Sarraut' mà tiếng Việt, văn hóa và sách báo Quốc ngữ được nâng cao chưa từng có.
 
"Ông mời các trí thức Việt Nam đến để cùng khai thác, định nghĩa thế nào là văn hóa Việt Nam ở thể thức có thể cùng tồn tại hài hòa với văn hóa Pháp....Cùng việc bỏ hệ thống khoa cử và chữ tượng hình, chữ Quốc ngữ được đẩy lên để đóng vai trò phương tiện chuyển tải và quảng bá văn hóa."
 
https://baomai.blogspot.com/
Cô giáo Pháp dạy các nữ học sinh Việt
 
Ý tưởng ban đầu muốn xóa toàn bộ tiếng Việt và áp dụng tiếng Pháp cho toàn Đông Dương như đã làm ở châu Phi bị bác bỏ.
Mặt khác, các trí thức như Trương Vĩnh Ký và Phạm Quỳnh đã thuyết phục được người Pháp rằng tiếng Việt không phải là một thứ thổ ngữ (Patois) mà chuyển tải được các tư tưởng văn minh, tiến bộ.
Để người Việt dùng Quốc ngữ, chính quyền Pháp cũng đạt mục tiêu là phá bỏ quá khứ Hán hóa và xóa dần ảnh hưởng Trung Hoa ở Việt Nam.
Từ thời Albert Sarraut, Quốc ngữ thành ngôn ngữ hành chính bên cạnh tiếng Pháp và Hán văn.
Mô hình ba ngôn ngữ này được ông Hà Ngại, một vị quan triều Nguyễn kể lại trong cuốn 'Tiếng Tơ Đồng':
"Đến Tòa sứ Quy Nhơn, tôi được Công sứ Pháp Fries phái đến dịch án với các ông Phán toà. Án hình và án hộ do tỉnh đệ đến Tòa, bằng chữ Hán và Quốc ngữ, phải dịch ra chữ Pháp cho Công sứ duyệt. Các bản án nào cũng có một bản chữ Hán và một bản Quốc ngữ..."
 
Đây mới là điều độc đáo bậc nhất trong lịch sử thế giới: ba ngôn ngữ cùng tồn tại và được sử dụng tại Việt Nam cho cả mục đích hành chính và truyền thông.
 
https://baomai.blogspot.com/
Tạp chí Nam Phong đã đóng vai trò quan trọng để quảng bá Quốc ngữ
 
Hệ thống trường Pháp không chỉ dạy lịch sử Việt Nam 'từ Hồng Bàng đến nhà Nguyễn', và 'Chuyện đời xưa' (Trương Vĩnh Ký) mà còn dạy Việt văn gồm cả Chinh phụ ngâm khúc, Truyện Thuý Kiều (Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim)...
Sách Quốc văn Giáo khoa thư đã thành nền tảng giáo dục cho nhiều thế hệ học sinh.
4. Đông Kinh Nghĩa Thục và sự tự ý thức
Nhưng sự phổ biến văn hóa Âu và chữ Quốc ngữ chưa lan ra cả nước vì phản ứng chống Pháp vẫn còn trong giới Nho học.
Phải đợi đến phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1917) thì Quốc ngữ mới được chấp nhận "toàn tâm toàn ý" để quảng bá tư tưởng dân tộc.
Nhưng ở Nam Kỳ, các báo Quốc ngữ của Diệp Văn Kỳ, Trương Vĩnh Ký, Sương Nguyết Án đã có mặt hàng chục năm trước, cụ thể là Gia Định Báo có từ 1865.
Từ những năm 1880, Trương Vĩnh Ký (1837-1898) và người Pháp trong Cơ quan Học chánh Nam kỳ đã soạn sách giáo khoa dạy Quốc ngữ ở cấp tiểu học.
Bởi thế Đông Kinh Nghĩa Thục ở miền Trung và miền Bắc là phong trào tự thức tỉnh của các nhà Nho để không bị thời cuộc bỏ rơi chứ họ không đi tiên phong.
Tuy nhiên, ý nghĩa chính trị của phong trào là xóa mặc cảm cuối cùng để giành lấy một phương tiện ngôn ngữ nhằm tự nâng mình lên.
Đông Kinh Nghĩa Thục cũng thúc đẩy tạo ra một thế hệ tư sản dân tộc là dùng Quốc ngữ, những người sẽ có đóng góp to lớn cho công cuộc độc lập sau này.
Cùng lúc, đây là thời kỳ thoái trào của Hán học.
Năm 1919, vua Khải Định cho bỏ khoa cử, coi chữ Quốc ngữ thành chữ viết chính thức của quốc gia.
Nhưng sự kiện quan trọng nhất cho sự phát triển của Quốc ngữ phải kể đến là sự ra đời của Nam Phong tạp chí năm 1917.
https://baomai.blogspot.com/
Trích báo Nam Phong
 
Lần đầu tiên, các tư tưởng Đông Tây, kim cổ, lịch sử Việt Nam, Trung Hoa, cải cách Minh Trị ở Nhật Bản, hệ thống chính trị Mỹ, Pháp, vấn đề triết học Đức, nữ quyền ở Đông Dương... được Nam Phong chuyển tải hoàn toàn bằng Quốc ngữ đến người Việt Nam.
Nhà báo, học giả Phạm Quỳnh (1892-1945) có viễn kiến coi Quốc ngữ là phương tiện để nâng dân tộc lên hàng văn minh và Nam Phong tạp chí đóng vai trò đó hết sức xuất sắc.
 
https://baomai.blogspot.com/
Các thầy giáo Pháp và học sinh Việt trường Petrus Ký, Sài Gòn
 
Sau khi Pháp thua Nhật, vào tháng 4/1945, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục trong chính phủ Trần Trọng Kim soạn các sách giáo khoa, gồm cả sách toán, kỹ thuật lần đầu bằng tiếng Việt.
Bộ Quốc văn Giáo khoa thư vào áp dụng ngay trong niên học 1945-46 tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Sau đó, Chính phủ VNDCCH từ tháng 9/1945 tiếp tục đẩy mạnh chiến dịch xóa nạn mù chữ ở nông thôn bằng sắc lệnh 'Bình dân học vụ' nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ 1948 đến 1955, chính phủ Quốc gia Việt Nam dù phụ thuộc người Pháp vẫn lấy tiếng Việt Quốc ngữ làm ngôn ngữ số một.
Tổng quan mà nói, chữ Quốc ngữ tuy không quá đặc biệt về mặt kỹ thuật La tinh hóa, nhưng qua thăng trầm lịch sử, nhờ nỗ lực của nhiều nhân vật độc đáo, cùng chính sách Đông-Tây hội tụ đúng lúc nên đã bén rễ và còn có sức sống vượt qua chiến tranh để kết nối cả một quốc gia như ngày nay.
 
Nguyễn Giang

Alexandre de Rhodes và chữ quốc ngữ

Dòng Tên, Alexandre de Rhodes và chữ quốc ngữ: cơ hội canh tân đất nước bị bỏ lỡ cách đây 400 năm

Nhiều học giả coi cuốn tự điển Annamiticum Lutsitanum et Latinum (Việt – Bồ – La), công trình của giáo sĩ dòng Tên Alexandre de Rhodes được xuất bản tại Rome năm 1651, như bản khai sinh của chữ quốc ngữ. Như vậy chỉ còn 1 tháng nữa đến năm 2011 là chữ quốc ngữ được tròn 360 tuổi. Nhân dịp này tôi xin kể qua lịch sử dòng Tên và những hoạt động nổi bật nhất của nó ở nhiều nơi trên thế giới từ khi Dòng được thành lập cách đây gần 5 trăm năm cho đến ngày nay. Tôi cũng sẽ xin nói thêm là chữ Quốc ngữ là di sản quý báu nhất mà dòng Tên đã để lại. Tiếc là các vua chúa thời đó đã bỏ lỡ cơ hội không biết dùng nó thay chữ Hán để thoát khỏi lệ thuộc Trung Quốc về tư duy và canh tân đất nước.

Tóm tắt lịch sử Dòng Tên

image

Sinh trong một gia đình quí tộc người Basque Y Pha Nho, vị sáng lập dòng Tên Ignace de Loyola (1491-1556) hồi trẻ chỉ lo ăn chơi trác táng. Mới nhập ngũ được 8 ngày đã bị thương trong trận vây đánh thành Pampelune. Trong thời gian 1 năm nằm chờ vết thương lành, ông suy nghĩ về sự huyền bí của tạo vật và đột nhiên cảm thấy có ơn Chúa gọi nên ông đợi đến khi lành lặn hẳn đi hành hương ở thánh địa Jerusalem trước khi trở về học các trường Đại học Alcalá, Salamanque Y Pha Nho và sau đó tới Paris học Đại học Sorbonne. Năm 1534 cùng mấy đồng bạn lên gò Montmartre ở Paris thề nguyền từ bỏ nhục dục, sống nghèo khổ. Được thụ phong linh mục tại Venise năm1537 và 3 năm sau (1540) chính thức sáng lập Dòng Tên .

image

Tên tiếng Pháp của dòng là La Compagnie des Jésuites. Tiếng Việt gọi là Dòng

Tên (tránh gọi tên Jésus sợ phạm húy). Compagnie có nhiều nghĩa: ngoài nghĩa hội, đoàn (tiếng Anh gọi là The Society of Jesus), còn có nghĩa “Đội quân”. Ông Loyola dùng những từ ngữ quân sự để muốn nói dòng mình là một đội quân của Chúa Giê Su và mỗi giáo sĩ là một người lính của Chúa. Vị lãnh đạo Dòng (được chọn sau một cuộc bầu cử) mang danh hiệu là “ông Tướng” (le Général). Tiêu chuẩn đầu tiên của dòng là phải có óc phục tòng như người lính phục tòng ông tướng. Tiêu chuẩn thứ 2 là kiến thức: Mỗi chủng sinh phải qua 1 thời gian đào tạo rất lâu dài, ít nhất là 10 năm: 2 năm tiểu chủng viện. 3 năm học triết và các ngành nhân văn, khoa học. Thực tập ngoài đời từ 3 đến 5 năm. Trở lại đại chủng viện học thêm 4 năm thần học. Nhờ được đào tạo kỹ lưỡng như vậy nên giáo sĩ Jésuite nào cũng có đủ kiến thức, đức tính và khả năng để có thể trong bất cứ trường hợp nào cũng có thể thích ứng với môi trường nơi mình truyền đạo, cải tạo xã hội theo hướng của Dòng. Đồng thời đức tính phục tòng bề trên và thói quen nhẫn nại cũng giúp người giáo sĩ dòng Tên sống một cuộc đời mẫu mực để làm gương và giáo huấn tín đồ. Nói tóm lại, người sáng lập Hội đoàn Jésuite muốn dòng của mình là một dòng ưu việt, một “đội quân” dũng mãnh về mặt giáo lý và kiến thức để có thể hoàn thành tất cả mọi nhiệm vụ được giao phó.

image

Hồi đầu Ignace de Loloya muốn dòng Tên chỉ có mục tiêu đem kiến thức thuyết phục những người theo đạo Phản thệ hay người ngoại đạo trở về với Giáo hội La Mã. Nhưng cũng chính lúc đó các thân hào ở tỉnh Messine (thuộc đảo Sicile Ý) yêu cầu ông Loloya mở trưởng cho tỉnh (1548). Trường được nổi tiếng và kể từ đó ở Âu châu Dòng Tên thấy cần thay đổi mục tiêu là đào luyện một tầng lớp trí thức có khả năng canh tân xã hội theo đường lối Công giáo. Dòng Tên từ đó mở ra những trung tâm đại học danh tiếng cho tới ngày nay. Khi ông Loyola mất năm 1556 dòng có 1000 giáo sĩ. Một trăm năm sau số giáo sĩ lên đến 15000 với 580 trường học ở Âu, Á, Mỹ.
Những hoạt động nổi bật nhất của dòng Tên từ khi mới được thành lập

1° Hoạt động mang nhiều màu sắc chính trị ở Âu châu
Ở Âu châu dòng Tên hoạt động đúng vào thời kỳ có những xung đột tôn giáo hoà lẫn với chính trị nên gặp nhiều sự chống đối của giới cầm quyền vua chúa cũng như giáo hoàng. Dòng bị xua đuổi, giải tán, cả thảy 30 lần:
Ở Pháp, năm 1563 dòng Tên mở Collège de Clermont cạnh tranh với Đại Học Sorbonne lấy hết sinh viên của Đại học này vì không những dạy giỏi mà còn dạy miễn phí. Những người ghen ghét dòng Tên tìm cơ hội để triệt hạ Dòng: Năm 1594 Jean Chatel một cựu học sinh trường Clermont lấy dao đâm vua Henri IV. Lập tức trường bị đóng cửa, các thày dạy bị đi đầy, ông thày dạy Chatel thần học bị treo cổ xác bị vứt ngoài bãi. Mãi đến năm 1618 trường mới được vua Louis XIV cho phép mở lại với tên là Louis Le Grand (bây giờ là trường Trung học sửa soạn thi Đại học danh tiếng nhất nhì nước Pháp). Năm 1762 Trường lại bị đóng cửa vì 1 người làm công cho trường tên là Damien tính ám sát vua Louis XV.

image

Năm 1750 khi Y Pha Nho và Bồ Đào Nha ký hiệp uớc chia nhau khu tự trị Paraguay Nam Mỹ dòng Tên huy động dân bản xứ lập quân đội chống lại liên quân 2 nước này. Bồ Đào Nha trả đũa cấm dòng Tên được hoạt động ở Bồ Đào Nha và ở mọi lãnh thổ Bồ Đào Nha trên thế giới.
Năm 1767, vua Y Pha Nho Charles III ra lệnh bắt 5000 giáo sĩ dòng Tên và đóng cửa 240 cơ sở của Dòng, không những ở chính quốc mà còn ở khắp mọi nơi trên thế giới thuộc thẩm quyền Y Pha Nho.
Năm 1773, cũng vì quá thành công ở Trung Quốc nên những kẻ ghen ghét dèm pha với Giáo hoàng là dòng Tên chấp nhận tục thờ cúng tổ tiên trái với giáo lỳ Công giáo. Giáo hoàng ra lệnh giải tán Dòng. Mãi đến năm 1814 Giáo Hoàng Pie VII mới cho lập lại.

2° Những hoạt động “cách mạng” chống thực dân ở Mỹ châu

image

Ở Mỹ Châu hoạt động nổi bật nhất của Dòng là đã đứng về phía người Da đỏ Guarani ở Paraguay (Nam Mỹ) chống lại thực dân Y Pha nho và những tập đoàn bắt người làm nô lệ. Dòng thành lập những thị xã trong cả thẩy 38 “tiểu vực” (reductions) để tạo ra một nước tự trị gồm 110000 dân da đỏ trên một lãnh thổ rộng bằng nửa nước Pháp, đóng thuế thẳng cho vua Y pha nho. Mỗi thị xã đều có khu nhà dân cư, khu công cộng gồm nhà thờ, toà hành chính, trường học… cai trị bởi một hội đồng quản trị gồm người bản xứ và qua một cuộc bầu cử trực tiếp. Tiếng bản xứ được dạy ở trường. Học sinh được tập thể dục và có những hoạt động văn hóa như diễn kịch, ca hát … Trong xã hội mọi người đều bình đẳng không có kẻ giầu người nghèo. Không có án tử hình. Nhà nước lập quân đội gồm người bản xứ để chống ruồng bắt nô lệ. Voltaire, Montesquieu và sau này Lafargue rể của K.Marx đều ngợi khen nước Cộng Hòa Ki Tô này. Thời gian tồn tại của nước này cũng được 181 năm, từ 1588 cho tới khi dòng Tên bị vua Y Pha Nho đuổi năm 1769.

3° Ở Viễn Đông dòng Tên chinh phục các vua chúa bằng kiến thức khoa học và kỹ thuật:
Ở những nước Viễn Đông theo truyền thống Khổng Mạnh như Nhật Bản, Trung Hoa và Đại Việt (Việt Nam), dòng Tên gặp phải sự chống đối của giới quan lại vì bị coi là muốn phổ biến những ý tưởng trái ngược với quan niệm Quân phu phụ của Khổng Tử khiến trật tự xã hội có thể bị đảo lộn. Để qua mặt giới này các giáo sĩ dòng Tên tìm cách đến gần các vua chúa, đem những mưu kế và những kiến thức khoa học và kỹ thuật cống hiến các vua chúa để được tin dùng. Một khi đã được sự bảo trợ của các vua chúa, các giáo sĩ cũng dễ dàng xin được phép truyền đạo trong dân chúng.

Vấn đề là tuy cùng một văn hoá, hoàn cảnh chính trị 3 nước Nhật Bản, Trung Hoa và Đại Việt hoàn toàn khác nhau nên điều quan trọng nhất là phải biết tùy nghi mà hành động. Vị lãnh đạo dòng Tên biết vậy nên đã chọn lựa và cử qua các nước này những vị giáo sĩ ưu tú nhất:François Xavier (Nhật Bản), Matteo Ricci (Trung Hoa), Alexandre de Rhodes (Đại Việt).

image

 Tôi xin kể những hoạt động của 3 vị này

Nhật Bản:

image

François Xavier (y Javier) (1506-1552) sinh ở Navarre xứ Basque sau bị Y Pha Nho chiếm. Thù ghét Y pha Nho nên năm 18 tuổi qua Pháp học Đại học Sorbonne. Cùng Ignace de Loloya sáng lập Dòng Tên. Được Loyola cử đi truyền giáo ở Goa thuộc địa Bồ Đào Nha ở Ấn độ năm 1542. Trong những lần đi Malacca (Mã lai) gặp nhiều người Nhật nên nuôi ý định đi truyền giáo ở Nhật. Ngày 15-8-1549 ông lên một chiếc thuyền Trung Quốc đi tới tỉnh Kagoshima bên Nhật. Ở tỉnh này ông thường trao đổi ý kiến và bàn luận với một vị cao tăng Nhật. Sau đó ông đi Kyoto tiếp xúc với các nho sĩ Nhật trước khi đi đến vùng Yamayuchi lập nhà Thờ và tới Funai trên đảo Kyushu ở. Năm 1552 nghe lời khuyên của các nhà nho Nhật là muốn cảm hóa được nhiều người Nhật theo đạo thì trước hết phải thuyết phục được người Trung Quốc, ông lên 1 chiếc thuyền đi Quảng Châu và bị mất trước khi tới.

Trong thời gian ngắn ngủi ở Nhật ông Xavier cảm hóa được nhiều người theo đạo trong số các quan chức như Shogun (Tướng quân, Mạc chúa) Otomo và nhiều daimyos (đại danh)). Cũng nhờ vậy mà đạo Thiên chúa trong thời gian này được truyền bá rất mau chóng nhất là ở tỉnh Nagasaki, nơi mà Dòng Tên còn được phép độc quyền mua bán tơ lụa. Trớ trêu thay Nagasaki nơi có nhiều người theo đạo Công giáo nhất cũng là nơi chịu trái bom nguyên tử 400 năm sau.

Đọc kỹ lịch sử truyền giáo ở Nhật mới thấy các mạc chúa Nhật không thiển cận như các vua chúa Việt Nam thời ấy: Các mạc chúa và các nhà truyền giáo dòng Tên đặt quan hệ trên nguyên tắc trao đi đổi lại: cho quyền giảng đạo miễn là đừng lấn tới chính trị và các giáo sĩ phải giúp các Mạc chúa súng ống, cách đóng thuyền, trang bị các tàu thuyền của Nhật dụng cụ đi biển. Nhờ vậy mà thương thuyền Nhật bản có mặt ở cùng Đông Nam Á: Đài Loan, Phi Luật Tân, Nam Dương và nhất là Việt Nam (Hải Phòng, Phố hiến, Hội An, Đà Nẳng….) Mạc chúa Mobunaga (1534-1582) lại còn lợi dụng đạo mới Tây phương để khuynh đảo những giáo phái Phật giáo mà ông ghét. Mạc chúa Hideyoshi (1536-1598), tuy ra lệnh giết 26 người Kitô giáo Nhật nhưng vẫn sủng ái dòng Tên nên cho phép các thương thuyền Bồ Đào Nha dựa vào thế lực dòng này được buôn bán ờ Nagasaki (coi phim Shogun). Sự đố kỵ và tranh giành thị trường giữa người Hòa Lan theo Thệ phản và người Bồ Đào Nha theo Công giáo cũng được các mạc chúa khai thác để chia rẽ những người Tây phương với nhau. Chỉ bắt đầu từ Mạc chúa Tokugama Leyasu (1543-1616), khi thấy có thể giao thiệp thẳng với các vua chúa và các nhà cầm quyền vùng Đông Nam Á (kể cả Phi Luật Tân thuộc Y Pha Nho) không cần sự môi giới của các nhà truyền giáo, đồng thời những kỹ thuật đóng tàu, đi biển không còn gì là bí mật nữa, mới cấm đạo trở lại. Chính sách lợi dụng những hiểu biết của Tây phương rồi vắt chanh bỏ vỏ có từ thời các mạc chúa mấy trăm năm trước Minh Trị và vẫn tiếp tục cho tới ngày nay.

Trung Hoa:

image

Matteo Ricci: Gốc người Ý. Sinh năm 1552. Chủng sinh Dòng Tên năm 1571. Sau khi được thụ phong linh mục Matteo Ricci theo vết chân của François Xavier qua Trung Quốc, coi Trung Quốc là nơi truyền giáo lý tưởng vì không có những đạo giáo như đạo Hồi, cần phải đấu tranh một mất một còn, và là nơi 2 nền văn minh văn hoá Trung Quốc và Âu Tây có thể hoà hợp bổ sung nhau. Ngay khi mới tới Macao tháng 8 năm 1582, ông đã lo học tiếng Tàu và khi được ở Triệu Thanh Phủ gần Quảng châu cùng với mấy nhà truyền giáo khác, ông mời Tổng Đốc Lưỡng Quảng và các quan chức tới Triệu Thanh Phủ để trình bày rất nhiều dụng cụ như đồng hồ, máy móc, địa bàn địa cầu , ống kính thiên văn v.v… đem từ Macao qua và sau đó dùng làm quà biếu xén để lấy lòng các vị đó. Ở Triệu Thanh phủ, ngoài thì giờ nghiên cứu và chế tạo máy móc Ricci còn lo học Tứ Thư Ngũ Kinh để bàn cãi với các nho sĩ về những điểm tương đồng giữa Ki Tô giáo và Nho giáo. Ông nghe lời khuyên của các vị này tự bỏ áo thày tu mặc áo nho sĩ. Năm 1593 ông dịch Tứ thư Ngũ Kinh ra tiếng La tinh rồi kiếm cách đi Bắc Kinh xin vào triều kiến Vua. Muốn tới Bắc Kinh phải qua nhiều người dẫn tiến và phải đi Nam kinh trước. Ông tới Nam Kinh ngày 31 tháng 5 1595 nán lại nhà một thân hữu là ông quan họ Hoàng (Wang Zongming) cho tới tháng 9 mới đi Bắc Kinh. Nhưng ở Bắc Kinh ông không tìm được một vị triều thần nào thân cận vua để tiến dẫn ông vào triều kiến. Ông đành trở lại Nam Kinh mua nhà tọa lạc tại nghiên cứu dạy học cho tới năm 1601 đời Vạn Lịch mới được trở lại Bắc Kinh và sống ở đó cho tới khi chết (1610). Ông được nhà vua cho đất táng và cho một cái chùa để các cha dòng Tên ở.

Ông Matteo Ricci lấy tên Hán là Lý Mã Đẩu trở thành một nhà nho không khác gì một nho sĩ Trung Quốc, viết rất nhiều sách khoa học bằng chữ Hán dâng Vua như cuốn Những nguyên lý Euclide, cuốn Bản đồ – địa chí cuốn Luận về Tình bằng hữu v.v..
Dưới triều đại nhà Thanh các giáo sĩ dòng Tên vẫn được lưu dụng và được sủng ái, nhất là dưới triều thịnh trị Khang Hi: Các giáo sĩ dòng Tên giúp Vua trong sự giao thiệp giữa Trung Quốc và nước Nga, giúp về kiến trúc, thiên văn, nghệ thuật (tìm ra men màu hồng famille rose cho đồ sứ), vẽ bản đồ Trung Quốc v.v.. Dòng Tên chỉ bị thất sủng dưới Triều Ung Chính và Càn Long. Sau đó, từ 1842 đến 1949 được dùng lại và được phép mở trường ở Thượng Hải (1842) mà trường Đại học nổi tiếng nhất là trường Aurore (Rạng Đông) nơi rất nhiều trí thức Trung Hoa được đào tạo. Tới năm 1850 Trung Quốc đã có 4 trường Đại học dòng Tên không kể những đài thiên văn, những trung tâm kỹ thuật… Có sự ngược đời là chính óc thiển cận của giáo hội La Mã thời đấy như ngăn cấm sự thờ cúng tổ tiên, đã làm khựng lại hoạt động truyền giáo của dòng Tên trong dân gian Trung Quốc chứ không phải là vì có sự ngăn cấm từ triều đình.

Đại Việt:

image

Alexandre de Rhodes. Gốc Do Thái tỉnh Aragon Y pha Nho. Ông thân sinh tên là Rueda chạy trốn Toà án dị giáo qua ẩn trú ở Avignon đất của Giáo Hoàng đổi tên là Rhodes sau khi cải đạo theo Công giáo. Alexandre de Rhodes sinh ở đất Giáo hoàng năm 1591 nên là thuộc dân của Giáo Hoàng chứ không phải là dân Pháp (chỉ sau Cách mạng 1789 Avignon mới thuộc về Pháp). Học dòng Tên ở Rome năm 18 tuổi cho tới năm 1618. Sau khi được thụ phong được cử đi Goa truyền đạo. Học tiếng Bồ Đào Nha ở Goa trước khi đi đến Macao cuối năm 1619. Được dự định cử qua Nhật nên học tiếng Nhật ở Macao. Cho tới tháng Tư năm 1622 tính qua Nhật, thì đúng vào lúc lệnh trục xuất các giáo sĩ của Mạc chúa Tokagama được thi hành triệt để nên bề trên bảo ông phải đổi hướng đi Tourane (Đà Nẵng) nước Đại Việt vì ở đó đã có sẵn cơ sở dòng Tên từ năm 1615 của 2 cha Francisco Buzomi và Diego Carvalho. Cuối năm 1624 cùng 5 giáo sĩ dòng Tên khác ông tới Faifo (Hải phố) nay gọi là Hội An thuộc Đàng Trong dưới triều chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Chỉ trong vài tháng, A. de Rhodes đã thông thạo tiếng Việt, lấy tên Việt là Đắc Lộ và bắt đầu giảng đạo bằng tiếng này. Ông cũng bắt đầu lấy lại những công trình của Francisco de Pina (1585-1625) để tìm cách phiên âm tiếng Việt bằng chữ La tinh.
Chúa Sãi không chú ý nhiều về đạo giáo mà chỉ quan tâm nhiều về quan hệ thương mại, đặc biệt là với những nước ngoài. Nhờ vậy dưới triều chúa Sãi Faifo trở thành một hải cảng quốc tế.

Mãi tới năm 1626 dòng Tên mới cử một giáo sĩ người Ý tên là Giuliano Belditoni đi giảng đạo ở Đàng ngoài (Đông kinh, Tonkin). Ông này than vãn tiếng Việt khó quá nên Dòng cử Đắc Lộ đi Đông Kinh, thay thế Belditoni. Năm 1627 dưới triều chúa Trịnh Tráng, Đắc Lộ tới Hà Nội đem theo 2 món quà để biếu Chúa là một đồng hồ và một cuốn sách của Euclide nói về hình cầu. Được lòng Chúa nên Đăc Lộ có cơ hội tới gần phủ Chúa và rửa tội cho một người em gái của Chúa với tên là Catherine. Nhà Thờ đầu tiên ở Đàng Ngoài được Đắc Lộ xây dựng nằm ở địa phận Thanh Hoá. Nhưng cũng lúc đó các quan lại hầu cận vua đưa ra tin đồn Đắc Lộ là gián điệp nên ông bị quản thúc ở Hà Nội cho đến năm 1630 thì bị trục xuất ra khỏi Đàng Ngoài. Trong thời gian 3 năm ở Đàng Ngoài Đắc Lộ rửa tội được chừng 7000 người.
Đắc Lộ trở về Macao dạy học từ 1630 tới 1640 và bắt đầu từ 1640 đến 1645, đi đi lại lại Đàng Trong 4 lần, phần nhiều được những gia đình có đạo bao che hay ẩn trú ở Faifo trong khu Nhật Bản. Lần thứ hai, nhờ sự môi giới của các thương gia Nhật Bản và của bà công chúa Minh Đức cô của Chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) có đạo tên là Marie, Đắc Lộ đem cả một tàu đồ biếu quan đầu tỉnh là Ông Nghè Bộ nên được ở từ tháng 1-1642 đến tháng 9-1643. Nhưng lần cuối cùng khi trở lại Đàng Trong tháng 1-1644 thì bị bắt ở biên giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài và bị nghi ngờ là gián điệp nên bị kết tội xử tử. Sau nhờ sự can thiệp của bà công chúa Marie Minh Đức,án tử hình được đổi thành chung thân biệt xứ và bị đuổi ra khỏi Đàng Trong tháng 7-1645.

Sau khi trở về Macao ông đi nhiều vùng quanh Ấn độ Dương và Trung Đông trước khi tới Rome tháng 6-1649 để hoàn thiện cuốn tự điển Việt- Bồ- La và cho xuất bản. Ông mất ở Ba Tư năm 1660.
So với François Xavier (sau được phong thánh) và Lý Mã Đẩu (Matteo Ricci), cuộc đời của Đắc Lộ gian khổ hơn nhiều vì phải sống chui lủi trong đám người chài lưới cùng khổ chứ không được các vua chúa, các giới quyền quí sủng ái như 2 vị trên. Nhưng cũng vì sống 20 năm hoà mình trong quần chúng ở cả 3 miền đất nước, Trung, Nam, Bắc, nên tiếng Việt của ông là tiếng Việt của người dân, tiếng nôm na chứ không phải tiếng Hán Việt thơ phú của giới nho sĩ. Cuốn Từ điển Việt-Bồ-La của ông phải được kể là một công trình vĩ đại trong lịch sử văn hoá thế giới vì nhờ nó mà các nhà ngữ học biết được những từ ngữ tiếng Việt cổ cách đây 400 năm. Ông cũng là người độc nhất dùng 5 dấu, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, để ghi thanh điệu tiếng Việt khiến một khi biết đọc chữ quốc ngữ là biết đọc đúng tiếng Việt và nhờ vậy thanh điệu tiếng Việt ở 3 miền Trung Nam Bắc mỗi ngày một thống nhất.

4° Dòng Tên ngày nay

image

Với hơn 20000 giáo sĩ, dòng Tên đứng thứ nhì trong số những dòng thuộc đạo Công giáo. Nhưng nếu kể số trường Đại học Cao đẳng và Trung học mà Dòng Tên thiết lập ở 112 nước trên thế giới, dòng này phải được kể là lớn nhất trong địa hạt giáo dục. Những trường do dòng Tên thiết lập đều có danh tiếng quốc tế: Thí dụ như Đại Học Georgetown Mỹ nơi mà Clinton và 2 bà bộ trưởng ngoại giao, Madeleine Allbright của Clinton và Condo. Rice của Bush theo học. Số những nhân vật nổi tiếng trên thế giới trên đủ mọi địa hạt chính trị cũng như văn hóa trong lịch sử cũng như hiện đại được đào tạo ở những trường dòng Tên không sao kể hết được: Chỉ cần kể trong lịch sử Pháp có nhà cách mạng Robespierre và thời đại này có Fidel Castro.

Ngoài địa hạt giáo dục, mấy ông cha dòng Tên cũng có tiếng trong nhiều lãnh vực kể cả chính trị như ở Trung Nam Mỹ với lý thuyết thần đạo giải phóng, đã có hồi bị coi là lý thuyết cộng sản trá hình. Nhân vật nổi tiếng hiện giờ ở Trung Quốc là một ông cha dòng Tên 93 tuổi đưọc Chính phủ Trung Quốc phong làm giám mục Thượng Hải trái với ý của Tòa thánh Vatican.

Kết luận

Nhờ chúa Sãi có óc tương đối rộng rãi cho phép các giáo sĩ dòng Tên được lập cơ sở ở Hội An mà chữ quốc ngữ được ra đời ở đàng Trong. Tiếc là sau đó các vua chúa Việt Nam, nhất là chúa Trịnh đàng Ngoài, vì quá phụ thuộc tư duy Tàu, văn hoá Tàu, nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tận dụng những kiến thức về khoa học và kỹ thuật của các giáo sĩ dòng Tên như các vua chúa Nhật và Trung Quốc. Nhưng cơ hội lớn nhất đã bị bỏ lỡ là đã không nghĩ dùng chữ quốc ngữ, chỉ có 24 chữ cái, để thay thế chữ Hán, một thứ chữ tượng ý gồm 80 ngàn chữ, khó mà có thể học và nhớ hết được. Chữ Hán chỉ hợp với Trung Quốc, một nước mà mỗi miền nói một thứ tiếng khác nhau chỉ có thể hiểu nhau bằng bút đàm. Nếu biết dùng chữ quốc ngữ ngay từ cách đây gần 400 năm để mọi người dễ dàng biết đọc biết viết, để phổ biến những tư tưởng và những kỹ thuật mới mẻ của Tây phương, thì 2 miền đàng Trong và đàng Ngoài đã trở thành một quốc gia rộng lớn, nói cùng một tiếng Việt thuần nhất, và đất nước được canh tân trước Nhật Bản của thời Minh Trị 250 năm. Việt Nam đã là một nước hùng mạnh nhất nhì Đông Nam Á chứ không như bây giờ vẫn nằm trong vòng cương toả của Tàu về tư duy, kinh tế cũng như chính trị.

Phong Uyen / Dân Luận  

Trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam
 
Trường Trung học Adran (Collège d'Adran) (3) Là trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam được các linh mục mở ở Sài gòn từ năm 1861 - 1887.
Trường ADRAN Sài Gòn, đến năm 1954 được chia thành 2 Trường Trung Học : Trung học Võ Trường Toản và Trung học Trưng Vương.
 
Hình một lớp học trong buổi thực nghiệm ngoài trời.
Chấm dứt  thời kỳ của nền giáo dục chữ Hán, chữ Nôm: Lối học từ chương.


Một lớp học trong giờ Địa lý.

Hình Thầy đồ và các học sinh ngày xưa.
 
 Quang cảnh trường thi Nam Định khoa thi năm Nhâm Tý (1912)
 
Giấy Khai Sinh năm 1938 còn sử dụng 4 ngôn ngữ (Hán, Nôm, Quốc ngữ và Pháp)
 
 
 
Gia Định Báo in chữ Quốc ngữ lần đầu tiên phát hành tại Sài Gòn, ngày 15/4/1865.
 
Trương Vĩnh Ký - Pétrus Ký (1837-1898) 
Khi nói đến chữ Quốc ngữ, và Báo Chí Việt Nam thì cũng không thể quên công lao của Ông Trương Vĩnh Ký, ông là người đầu tiên sáng lập,khai sinh nền Báo Chí Quốc ngữ của Việt Nam, ông là Tổng biên tập tờ Gia Định Báo in chữ Quốc ngữ đầu tiên:  
 
Ông Pétrus - Trương Vĩnh Ký đã viết một bài khuyến khích việc học chữ Quốc ngữ, trong đó có đoạn như sau:
“…Thầy Ký dạy học có làm sách mẹo (văn phạm) dạy tiếng Lang Sa (Pháp), có làm ra chữ Quốc ngữ (sic) để người ta dễ học. Những người ký lục (thư ký) giỏi cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ vì có hai mươi bốn chữ và viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ (khó dễ) cũng viết đặng, không phải như chữ Tàu học già đời mà còn có chữ lạ viết không ra, ở đây có Phủ Tường (Tôn Thọ Tường) đã học đặng chữ Quốc ngữ, viết đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì thuộc hết…”

Ông Trương Vĩnh Ký là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục, và chuyên khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam.Với tri thức uyên bác, am tường và nhiều cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây, nên ông được: 
- Tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp.
- Được nêu tên trong Bách khoa Tự điển Larousse
- Đứng vào vị trí " Toàn Cầu Bác Học Thập Bát Quân Tử"  tức là một trong 18 nhà bác học hàng đầu thế giới trong thế kỷ 19.
- Đứng vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới, ông viết và đọc thông thạo 27 ngoại ngữ, một nhà thông thái biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam... (4) 
Ông đã để lại cho kho tàng Văn học Việt Nam hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật...
Nhưng ngay sau tháng 4 năm 1975, khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, nhiều sách của ông đã bị cộng sản tiêu hủy trong chiến dịch "Bài Trừ Văn Hóa Đồi Trụy, Phản Động", trường trung học Trương Vĩnh Ký bị đổi tên là Lê Hồng Phong, và tượng đài vinh danh ông đặt cạnh Nhà Thờ Đức Bà - Sài Gòn bị cộng sản phá hủy.

Tượng đài lịch sử, vinh danh ông Trương Vĩnh Ký cạnh Nhà Thờ Đức Bà trước 1975.


 Mãi đến thời gian gần đây, phần tượng lịch sử còn lại của ông được đem ra triển lãm "mỹ thuật" trong Bảo Tàng Mỹ Thuật Tp Sài Gòn
Các nhà khoa bảng, trí thức, cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, kết hợp với nhiều nhà trí thức cấp tiến thời đó, khởi xướng ra các phong trào Duy Tân, Đông Du nhằm vận động cải cách văn hóa, chính trị trên toàn quốc, kêu gọi bãi bỏ Nho (Hán) học, kêu gọi việc học Quốc ngữ để nâng cao dân trí, với lý do đơn giản: Quốc ngữ dễ học, dễ viết, dễ phổ cập hơn chữ Nho (Hán). Các ông đã vận động mở trường dạy quốc ngữ khắp nước, rầm rộ nhất là ở Quảng Nam (1905), Bình Thuận (Trường Dục Thanh, 1907) và Hà Nội (Đông Kinh Nghĩa Thục,1907). Trong một bài thơ khuyến khích việc học quốc ngữ của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết:

“… Chữ quốc ngữ là hồn trong nước, Phải đem ra tỉnh trước dân ta, Sách các nước, sách Chi-na, Chữ nào nghĩa ấy, dịch ra cho tường…”

Các sĩ phu của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.

Khi phong trào Duy Tân, và Đông Kinh Nghĩa Thục ngày càng lớn mạnh, khiến cầm quyền thuộc địa Pháp lo ngại tinh thần yêu nước và chống thực dân Pháp của đồng bào Việt Nam. Việt Nam Vong Quốc Sử của nhà ái quốc Phan Bội Châu xuất hiện lúc bấy giờ là một trong những tiếng chuông thức tỉnh tinh thần dân tộc. Làn sóng yêu nước nổi lên khắp nơi, làm thực dân Pháp phải lo sợ, nên đã ngưng trợ cấp và đóng cửa một số trường.

Bài mở đầu sách Việt Nam vong quốc sử, Phan Bội Châu.

(Không có gì đau bằng người mất nước, cũng không có gì đau bằng người bị mất nước mà bàn việc nước! Tôi muốn viết đoạn sử mất nước này, nhưng đã bao phen lệ cạn huyết khô, mà cơ hồ không viết nổi chữ nào...)

Chữ Quốc ngữ trong giai đoạn này vẫn ngày càng phổ biến, đã giúp dân chúng dễ dàng học, hiểu biết những sơ đẳng cần thiết trong đời sống, theo dõi sát các tin tức thời sự, các chuyển biến thời cuộc chính trị trong nước và thế giới qua sách báo, truyền đơn.Từ năm 1925 nhiều đảng phái chống Pháp được thành lập, truyền đơn, lời kêu gọi, sáng tác thơ văn yêu nước… đều viết bằng chữ Quốc ngữ.

Nền văn học Việt Nam vào năm 1933 chuyển biến mạnh, xuất hiện một thể loại Văn mới, là Văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ do ông Nguyễn Tường Tam, bút hiệu Nhất Linh và nhóm văn sĩ thành lập lấy tên: Tự Lực Văn Đoàn, với 10 năm sáng tác và hoạt động báo chí, khai sinh nên dòng văn học lãng mạn Việt Nam. Nổi trôi trong những diễn biến lịch sử bất lợi, khó khăn của thời cuộc đất nước lúc bấy giờ, nhưng nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã cống hiến nhiều vào sự phát triển Văn Học của Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Toàn bộ những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn vẫn được lưu truyền tự do và được đưa vào trong giáo trình giảng dạy Văn học tại các trường Trung học miền Nam sau 1954 mãi cho tới 1975.

 
Lớp học Mẫu giáo trong giờ Tập Viết, giáo dục miền Nam trước 1975 
 

Kim Phượng sưu tập.

Chỉnh sửa lần cuối vào %PM, %17 %935 %2018 %17:%09
back to top