Màu Tím trong thi ca
Màu Tím trong thi ca
Huỳnh Văn Hoa
Hình Internet
Màu sắc là một phương diện của cái nhìn nghệ thuật trong văn chương, làm nên thế giới nghệ thuật của một nghệ sĩ. Những nghệ sĩ có phong cách thường có kiểu sử dụng màu sắc theo một cách riêng, làm nên nét dộc đáo của tác phẩm, của tác giả.
Bài viết này, sẽ tìm đến nghệ thuật sử dụng màu tím trong thơ ca của số nhà thơ quen thuộc của Việt Nam.
Về phương diện hội họa, màu tím là sự pha trộn và hợp thành của màu xanh và màu đỏ. Tím là màu sắc thiên về các khía cạnh của nội tâm, không thích phô trương, tìm đến những ngõ ngách riêng tư của con người, diễn đạt những khung trời nhớ nhung, xa vắng, lẫn khuất đâu đó là những hoài niệm, hoài cảm.
Màu tím của hoa sim, hoa mua, hoa bằng lăng, hoa lục bình, hoa xoan, hoa súng,…đã đi vào thơ ca với những sắc điệu riêng của tâm hồn, với nhiều cách nhìn phong phú, đa dạng, độc đáo. Không ít bài thơ, câu thơ đã nhờ màu tím mà tồn tại với thời gian.
Màu tím là một gam màu ít được các nhà thơ cổ điển Việt Nam dùng.
Trong Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều sử dụng có một lần màu tía (Muôn hồng nghìn tía đua tươi), ông không dùng màu tím.
Chinh phụ ngâm, “tác phẩm do hương cống Đặng Trần Côn soạn, nhân đầu đời Cảnh Hưng việc binh đao nổi dậy, người đi chinh thú phải lìa nhà, ông cảm thời thế mà làm ra“ (Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí ), với 408 câu, có màu xanh, màu trắng, màu vàng, màu hồng và chỉ một lần nói đến màu tía (Trước gió xuân vàng tía sánh nhau), lấy tích từ “cành Diêu đóa Ngụy, hai giống hoa mẫu đơn quý một của họ Diêu màu vàng và một của họ Ngụy màu đỏ tía (Những khúc ngâm chọn lọc, NXB ĐH và THCN, HN, 1987, trang 55). Màu tía là màu đỏ thắm. Tía, theo Đào Duy Anh, là “sắc đỏ thắm“ (Từ điển Truyện Kiều, trang 363 ). Đặng Trần Côn vẫn không đưa màu tím vào thơ.
Trong Truyện Kiều, với 3254 câu , Nguyễn Du chưa một lần dùng đến màu tím.
Những điểm nêu trên là điều khá lạ lùng về tư duy nghệ thuật của văn học trung đại, về phát triển của ngôn ngữ tiếng Việt. Trái lại, trong thơ hiện đại, nhiều nhà thơ sử dụng khá quen thuộc màu tím, thậm chí gắn liền tên tuổi của mình với sắc màu này.
Nguyễn Bính có nhiều bài thơ hay viết về Huế. Đó là những bài: Giời mưa ở Huế, Vài nét Huế, Xóm Ngự viên, Thu rơi từng cánh. Tập Mười hai bến nước, còn có số bài thơ viết vào lúc thi sĩ ở Huế, như Hoa với Rượu, Xuân tha hương, Lửa đò,…
Trong số đó, Màu tím Huế là bài thơ phản ánh nhiều cung bậc của Huế. Màu tím là màu có tính đặc trưng của Huế. Đây không phải là điều ngẫu nhiên. Huế vốn nằm gần với dãy Trường Sơn. Về mặt tự nhiên, nói như Xuân Diệu, khi “ngày chưa dứt hẳn” thì bóng chiều đã bắt đầu buông xuống. Giao thoa giữa hai thứ ánh sáng ấy, màu đỏ của hoàng hôn và màu sẩm của buổi chiều, đã tạo nên sắc tím đặc biệt của xứ Huế. Không gian chiều của xứ Huế là không gian của màu tím, nó không giống với bất cứ nơi nào trên nước ta, vì thế, người Huế yêu màu tím. Màu tím đi vào văn chương nghệ thuật của xứ thần kinh là vậy. Nguyễn Bính là người nhận ra nét tím của Huế:
Thôi thế là em cách biệt rồi
Đường đi mỗi bước một xa xôi
Tim tím rừng chiều tim tím núi
Tim tím chiều hôm, tim tím mai…
Màu tím nhuộm núi rừng, nhuộm chiều hôm, nhuộm ban mai, nhuộm nhớ mong, nhuộm lên trang giấy tình thư, nhuộm lên nét thương đau của nhớ nhung, của cát bụi kiếp người.
Hai câu kết, vẫn màu tím ấy, cả rừng, cả núi, cả chiều hôm , tím một màu tím Huế rất Nguyễn Bính..
Gần đây, trong Tặng người hát dân ca, với thể thơ tự do, Lê Nhật Ký, viết:
Núi Ngự Bình mặc áo tím lúc hoàng hôn. Chuông chùa Thiên Mụ
ngân nga láy vào nỗi nhớ. Sông Hương chảy một đời không tới
biển. Huế trong tôi là một chiếc áo dài...
Hình Internet
Hữu Loan nổi tiếng với bài thơ Màu tím hoa sim. Bài thơ đứng vững hơn nửa thế kỷ, trở thành một trong những bài thơ tình hay nhất trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Màu tím hoa sim là tiếng lòng của anh Vệ quốc quân đối với cái chết của người vợ trẻ. Nguyên mẫu cuộc đời đã trở thành nhân vật nghệ thuật, thành thơ ca, thành âm nhạc. Có thể nói không ngoa rằng, nếu bài thơ ấy, tác giả không chọn gam màu chủ đạo là màu tím thì chắc gì đem lại sự rung cảm trong tâm hồn tác giả và người đọc.
Quả vậy, từ chỗ:
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim…
Cho đến những chiều mưa trên chiến trường Đông Bắc, nơi ba người anh “biết tin em gái mất, trước tin em lấy chồng” và “ đứa em nhỏ lớn lên, ngỡ ngàng nhìn ảnh chị“ , với “gió sớm thu về gờn gợn nước sông“, với “ cỏ vàng chân mộ chí ”,… là bao nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi của người chiến sĩ-thi sĩ :
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa…
Kiên Giang với bài thơ dài Hoa trắng thôi cài trên áo tím, 15 khổ, được nhiều người đọc yêu thích. Bài thơ kể về mối tình học trò. Ngày trước, ngôi trường người con trai theo học đối diện với ngôi giáo đường của người con gái thường đi lễ nhà thờ. Chuông nhạc đạo và chuông nhà trường hòa lẫn, khiến người con trai “làm thơ sầu mộng“, thầm muốn “để nghe khe khẽ lời em nguyện - thơ thẩn chờ em trước thánh đường“:
Mười năm trước , em con đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh…
Mỗi lần tan lễ hồi chuông đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thùng, anh đứng lại không đi…
Thế rồi, một ngày kia, em theo chồng: “Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo, Tiễn nàng áo tím bước vu quy". Dầu vậy, người con trai của mười năm trước: “Anh vẫn yêu em người áo tím, Nên tình thơ ủ kín trong lòng". Chiến tranh, loạn lạc, tình thơ cũng nhạt màu, nhưng than ôi, cũng chiếc xe hoa ngày ấy:
Ba năm sau chiếc xe hoa cũ
Chở áo tím về trong áo quan
Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt
Khi anh ngồi kết vòng hoa tang…
Vòng hoa trắng lạnh đó gửi cho người con gái áo tím, với ân tình ngày cũ , dù đã phôi pha nhưng trắng trong, tinh khiết, đẹp như một bài thơ buồn.
Kiên Giang là bạn thơ của Nguyễn Bính trong những năm kháng chiến chống Pháp tại Nam Bộ. Trong nhiều bài thơ của ông, người đời nhớ và yêu nhất bài thơ dung dị này.
Cũng màu tím ấy, vậy mà, với cái nhìn cá thể, một nhà thơ đã để lại trong gia tài văn chương dân tộc những bài thơ độc đáo, lưu giữ mãi với thời gian. Đó là Chế Lan Viên, ngọn Thi sơn của Việt Nam.
Cả tập Điêu tàn, màu sắc chủ đạo vẫn là màu trắng và màu đen. Điều này có lý do của nó về quan niệm thẩm mỹ. Sau Cách mạng tháng Tám, như nhà thơ đã nhiều lần phát biểu, ông đã đi từ “chân trời một người đến với chân trời tất cả“, đi từ “câu hỏi hư vô, thổi nghìn nến tắt ” để đến “bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh “. Bên cạnh một Chế Lan Viên triết luận, bàn về những vấn đề nóng hổi của thời đại và dân tộc, còn là một Chế Lan Viên của đời thường, của tâm hồn dân dã, gắn chặt với máu thịt cuộc sống. Màu sắc trong thơ ông là một con đường riêng, riêng mà lại chẳng riêng chút nào, gây xúc động lòng người một cách sâu lắng. Chế Lan Viên hay nói đến màu tím, đó là màu hoa của Hồ Tây mà nhiều lần thi sĩ tìm đến. Trong bài Hoa súng tím, Chế Lan Viên viết:
Từ lúc mê súng tím
Mới hiểu hết sen hồng
Càng biết yêu mùa hạ
Dâng màu sắc song song…
Vẫn là cách so sánh của lòng yêu hoa, mê hoa. “Mê súng tím“ tức là yêu một loài hoa bình dị, không kiêu sa, lặng lẽ nơi ao đầm quê ta. Tháng năm qua, loài hoa gắn với làng quê Việt ấy, trong một lần bừng thức, lòng hiểu thêm sen hồng, cũng một loài hoa thôn dã, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn“, hai thứ hoa có chung một tấm lòng, một trắng trong, dâng hiến cho đời. Chẳng thế mà nhà thơ mới viết: Dâng sắc màu song song một cách trang trọng, thâm tình. Yêu hoa để yêu đời, hiểu hoa để hiểu đời là vậy!
Cũng tên là Hoa súng tím, viết vào thời điểm của cơn đau thì lại thê thiết hơn. Bài thơ này in trong tập Hoa trên đá (NXB Văn học - 1984), trước lúc mất vài năm:
Mỗi lần đau , anh lại đến Tây Hồ
Chữa lành anh là hoa súng tím...
Hồ đầy hoa, nhụy vàng hương kín, vậy mà, “cả một mùa qua hoa nở chả ai hay,… ngoài chú vịt trời xao xuyến“ . Không sao, còn có nhà thơ yêu hoa, "suốt cả một ngày lưu luyến“ bên hoa. Bài thơ như một tâm sự, như một giãi bày, muốn tìm tri âm, chia sẻ. Vào những năm cuối đời, qua bao nỗi thăng trầm của thế sự, qua bao biến chuyển của cuộc đời, Chế Lan Viên nhận ra rằng, nhiều cái bình dị quanh ta, ta bỏ quên, như hoa súng tím khiêm nhường kia:
Hoa súng tím An Giang, hoa súng trắng Tây Hồ
Những cành hoa chưa ai làm thơ cả
Tuổi 64, tôi mới biết màu hoa dân dã
Biết hoa rồi, tôi đã sáu mươi tư
(Hoa súng An Giang )
Một chỗ khác, trước khi mất hai năm, như để cho người đời sau hiểu thêm mình, hiểu thêm những nỗi niềm sâu kín, riêng tư của mình, cũng là sự mong đợi, gửi gắm, nhà thơ viết:
Màu hoa súng ấy như cơn đau không dám khóc
Chỉ lặng im sắc tím để mà đau
Người ta chỉ biết màu sen anh đỏ rực
Còn nỗi buồn hoa súng tím biết cho đâu
(Hoa súng, 1987)
Hình Internet
Xét đến cùng, cái màu tím kia trong những bài thơ ngắn của Chế Lan Viên là một góc khuất hết sức nhân văn, tìm về sự yên tĩnh của tâm hồn sau bao sóng gió của cuộc đời, cập đến bến bờ của thức ngộ. Dường như là, đằng sau của "nỗi buồn hoa súng tím“ ấy, Chế Lan Viên muốn gửi gắm cho đời một thông điệp, rằng là, bên cạnh một Chế Lan Viên chính luận, còn một mặt nữa của tháp Bayon, mặt ấy, nhà thơ đau đáu bao nỗi niềm, bao tâm sự, cả những điều chưa biết giãi bày cùng ai ! Có lúc cũng ngậm ngùi khôn xiết !
Cao Vũ Huy Miên có bài thơ Hoa tím ngày xưa, được Hữu Xuân phổ nhạc, nhiều ca sĩ hát và công chúng yêu thích. Đây là bài thơ tình nói về con đường của người bạn gái trong tuổi học trò thường đi về, làm nên cảm xúc thơ ca cho chàng trai:
Con đường em về ban trưa
Hoa tím nghiêng nghiêng đợi chờ
Tuổi em vừa tròn mười bảy
Tóc em vừa chấm ngang vai.
Cũng con đường đó, em về mưa bay, em về thơm hương, tiếng dương cầm rơi nơi đâu, lặng lẽ. Và rồi, tuổi 17 của em qua đi, qua đi chẳng biết bao giờ, để rồi:
Trường xưa chẳng còn học nữa…
Con đường em về năm xưa
Có biết hay chăng bây giờ
Hoa tím thôi không còn nữa
Chỉ còn ta đứng dưới mưa.
Bài thơ ngắn, dung dị, dễ thương của một thời vụng dại. Chắc là, hoa tím vẫn còn nơi con đường ngày cũ, chỉ có điều, con đường xưa ấy, người của một thời không qua nữa, nên “hoa tím thôi không còn nữa, chỉ còn ta đứng dưới mưa“.
Nguyễn Sĩ Đại có bài thơ Mực tím viết theo thể thơ lục bát, cũng là một bài thơ đáng yêu, viết cho tuổi học trò ở thời điểm sắp rời ghế nhà trường phổ thông:
Bây giờ mực tím thôi vương
Mùa thi đã vãn, sân trường vắng hiu
Tiếng ve kêu sốt nắng chiều
Cuốn lưu niệm cũ, chữ xiêu xiêu buồn…
Bây giờ mực tím thôi vương
“Bậu về xứ bậu “, lời thương không đành
Bây giờ …
Thôi xếp áo khăn
Gửi hồn mực tím trên cành bằng lăng
Bài thơ ngắn chỉ 8 câu, có hai lần nói đến “mực tím thôi vương“ và ba lần nhấn mạnh đến “bây giờ “. Mỗi lần mỗi khác. Lần sau, mượn câu ca dao: “Rồi mùa tóoc rã, rơm khô / Bậu về xứ bậu biết nơi mô mà tìm“ để bày tỏ nỗi niềm nuối tiếc, bâng khuâng. Tuổi học trò thời nào mà không có những phút giây xao xuyến ấy !
Hoa súng- hình Internet
Màu tím vương vương nơi nhiều bài thơ. Đoàn Phú Tứ có: Màu thời gian không xanh / Màu thời gian tím ngát(Màu thời gian), Anh Thơ, trong Chiều xuân, đã viết: Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng/ Bên chòm xoan, hoa tím rụng tơi bời. Tố Hữu, với bài thơ Hoa tím, tặng Nguyễn Tuân, có câu: Thủy chung tình bạn chùm hoa tím. Hoàng Phủ Ngọc Tường với Dù năm dù tháng, được Nguyễn Công Dinh phổ nhạc với tên Cành phù dung cho em, có những câu:
Anh ngắt cành phù dung trắng
Tặng em niềm vui cầm tay
Màu hoa như màu tia nắng
Buổi chiều chợt tím không hay…
Phan Vũ trong Em ơi ! Hà Nội phố, Phú Quang phổ nhạc, là một Hà Nội của mùi hoàng lan, mùi hoa sữa, của “chiếc khăn quàng tím đỏ thoáng qua“, của những "con đường vắng, rì rào cơn mưa nhỏ“, của “tan lễ chiều, kinh cầu còn mãi ngân nga“ và nữa:
Ta còn em cô hàng hoa
Gánh mùa thu qua cổng chợ
Những chùm hoa tím
Ngát mùa thu…
Hoàng Nhuận Cầm cũng có những câu thơ hay về mùa thu và hoa tím:
Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến
Chỉ tiếc mùa thu vừa mới đi rồi
Còn sót lại trên bàn bông cúc tím
Bốn cánh tàn, ba cánh sắp sửa rơi !
(Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến)
Hữu Thỉnh với Biển, nỗi nhớ và em, có câu thơ thật hay:
Em đâu phải là chiều
Mà nhuộm anh đến tím…
Ngô Văn Phú với Trời đã vào thu…, khi sông không đầy nước, khi mây làm khăn quàng qua vai núi, thì cũng là lúc:
Đôi bờ lau lách đìu hiu tím
Gom buồn lên ngọn gió heo may…
Có thể kể ra nhiều bài thơ, câu thơ có chứa màu tím. Cái màu tím ấy đã đem lại cho thơ ca tiếng Việt một sắc thái riêng, một nẻo về riêng của tâm hồn với bao xao xuyến, bao tâm trạng nơi người đọc, góp phần làm nên những tác phẩm hay trong văn chương Việt Nam.
Huỳnh Văn Hoa
Nữ sinh áo tím
Hình Internet
Đọc bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” của thi sĩ Kiên Giang – Hà Huy Hà làm tôi nhớ đến chuyện các nữ sinh Gia Long (sau này là trường trung học Nguyễn Thị Minh Khai), vẫn thường tự hào một thời từng học trường này. Thi sĩ Kiên Giang cũng vậy nhưng ông lại nhớ người con gái năm xưa khi ông lên Sài Gòn viết báo. “Mười năm trước em còn đi học / Áo tím điểm tô đời nữ sinh / Hoa trắng cài duyên trên áo tím / Em là cô gái tuổi băng trinh”.
Trường Gia Long thuở thập niên 1960 Ảnh: Manhhaiflicks
Bài thơ viết khoảng năm 1955, khi ấy trường Collège de Jeunes Filles Indigènes đã đổi tên trường thành Trường nữ trung học Gia Long và đồng phục áo dài tím trước đó được thay thế bằng áo dài trắng với huy hiệu đoá mai vàng. Hẳn nhà thơ tiếc nuối thuở nữ sinh áo tím của cô gái đất Tây đô (Cần Thơ) cảm hứng viết ra bài thơ dành tặng mối tình đầu và sau này được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc, lại càng khiến công chúng yêu thích, nhất là các nữ sinh từng học trường Gia Long. Từ sau khi giành độc lập từ Pháp, Miền Nam đã đưa tiếng Việt vào giảng dạy trong các trường do Pháp xây dựng.
Ở giai đoạn này, việc giáo dục văn hoá dành cho nữ giới đã được mở rộng ra nhiều trường ở khắp Sài Gòn Gia Ðịnh. Tuy nhiên với ba bốn thập niên trước, vấn đề “nữ quyền” trong giáo dục thời Pháp chỉ giới hạn ở trường Nữ sinh áo tím tọa lạc trên đường Legrand de la Liraye tức Phan Thanh Giản sau này (Ðiện Biên Phủ hiện nay).
Tài liệu báo Phụ Nữ Tân Văn ngày xưa cho biết về việc xin mở trường Collège de Jeunes Filles Indigènes: “Trước thế kỷ thứ 20, nền giáo dục khoa bảng tại Việt Nam ít quan tâm đến việc giáo dục nữ sinh. Vào năm 1908, một số nhà giáo dục và trí thức Việt Nam khởi ý đề nghị và gửi thư yêu cầu chính quyền địa phương thành lập một ngôi trường đa cấp (mẫu giáo, tiểu học và trung học) dành riêng cho nữ sinh. Ðơn thỉnh nguyện được chấp thuận vào năm 1909 nhưng vì không đủ ngân khoản nên việc xây cất chỉ được khởi xướng vào năm 1913”.
Ảnh thầy cô dạy tại trường Nữ sinh áo tím, người xách bóp đứng thứ ba bên phải là cô Nguyễn Thị Châu
sau này làm hiệu trưởng trường Ảnh: Tài liệu của Tiến sĩ Dương Thanh Bình
Thực ra, vào thời gian đó, tại Ðakao và một ít trường học các tỉnh ở Nam kỳ đã có các lớp tiểu học dành cho nữ sinh. Nhưng xét ra việc học dành cho nữ sinh vẫn còn rất thấp ở bậc học trong khi nam sinh lại có đường dễ tiến thân trên con đường học vấn. Ở Sài Gòn, nhiều phụ huynh, đặc biệt các gia đình giàu có cùng nhau ký tên làm đơn thỉnh nguyện kêu gọi chính phủ cho lập trường sơ học cao đẳng cho con gái Annam được tiếp nhận nền giáo dục cao hơn theo từng cấp như nói ở trên.
Mường tượng lại việc mở rộng giáo dục cho nữ sinh vào thời gian đó chắc rầm rộ lắm. Nhiều cuộc kêu gọi quyên góp tiền của đầu tư xây trường của các quan chức, thương nhân, thậm chí dân chúng từ bên Pháp cũng sẵn lòng đóng góp. Cuộc quyên tiền do Tổng đốc Ðỗ Hữu Phương làm hội trưởng cùng với mấy bậc tri thức như các ông Nguyễn Văn Mai, Lê Văn Trung, Lê Quang Liêm, Diệp Văn Cương đã thu được kết quả ban đầu khá mỹ mãn. Báo Phụ nữ Tân Văn tổng kết sơ bộ: “Người Tây và người Nam ở Nam kỳ quyên được 25.000$. Mấy làng dưới tỉnh, có hơn 50.000$. Sổ công nho Nam kỳ xuất ra 10.000$. Người Pháp bên Pháp cũng gởi cho 3.000$”.=
Dãy nhà lớp đầu tiên được xây dựng lên bằng số tiền khiêm tốn quyên góp đã là một thành công lớn cho giới trí thức mong muốn dành cho nữ sinh Annam có sự học cao hơn. Thống đốc Roume đã cắt băng khánh thành và tuyên bố khai giảng niên học đầu tiên vào năm 1915. Trường mở lớp đồng ấu (tiểu học) cho tới trung học đệ nhất cấp, rồi thi lấy bằng Thành Chung (Diplôme). Nói chung, ai có được văn bằng Thành Chung lúc đó là oách lắm rồi, lại là phụ nữ nữa thì còn ai bằng. Trường còn mở lớp sư phạm dành cho học sinh có bằng Thành Chung, để đào tạo thành giáo viên dạy các lớp tiểu học.
Trường Collège de Jeunes Filles Indigènes (Nữ sinh áo tím năm 1918) Ảnh: Panoramio
Ngày khai giảng, trường vỏn vẹn chỉ có 42 nữ sinh tiểu học. Vị hiệu trưởng đầu tiên là cô Lagrange, người Pháp. Lúc đó, chánh quyền sở tại và ban giám học lấy làm lo ngại sợ nhà trường không có thu hút được nhiều học sinh. Nhờ báo chí vận động kêu gọi phụ huynh khắp nơi cho con gái đến trường được chăm lo giáo dục chu đáo. Học sinh ngoài Sài Gòn được ăn ở nội trú trong trường, được học nữ công gia chánh nên số học sinh mỗi năm tăng dần.
Phụ nữ Tân Văn năm 1926 viết: “Năm sau 1916, Trường Nữ học được 157 trò. Năm 1920 được 215 trò. Cứ tiến như thế mỗi năm cho đến số 400. Hiện nay trong trường học sinh ở trong và ở ngoài còn được lối ba trăm mấy. Lúc bấy giờ thấy rõ phụ nữ Annam “thèm” sự học như người đói khao khát, mới cất thêm lớp, thêm nhà cho số học sinh ở luôn tại trường. Mỗi năm, trường Nữ học phát ra vài chục nữ sinh tốt nghiệp. Ðến nay số nữ giáo viên tốt nghiệp từ Nữ học đường mà ra có đến hai trăm mấy. Ấy là chưa kể mấy cô giáo sơ học. Các chị em học trường này đang trông mong nơi Hội cựu học sinh Nữ học đường để làm một cơ quan chung cho mấy trăm người”.
Tuy nhiên, thời gian sau, trường không đủ kinh phí nên không đào tạo các lớp sư phạm nữa mà chỉ chuyên giảng dạy bậc học phổ thông từ tiểu học đến trung học. Cho đến năm 1954, trường chỉ nhận học sinh đệ nhất cấp, những học sinh muốn vào trường phải qua kỳ thi tuyển. Chuyện trường không đào tạo sơ học như ngày trước nữa là do khoảng thập niên 1950, các trường học công lập hoặc tư thục khắp nơi ở Sài Gòn bắt đầu mở các lớp tiểu học. Nhiều tầng lớp phụ huynh ý thức được cho con gái đi học mở mang kiến thức và tạo nền tảng theo học bậc cao hơn. Do đó số học sinh nữ tăng nhanh khiến ngành giáo dục phân cấp các lớp học lại cho phù hợp thời cuộc.
Lớp học thêu của trường Collège de Jeunes Filles Indigènes Ảnh: Manhhaiflicks
Cũng nên nhắc lại một chút về trường Nữ sinh áo tím cũng như một số trường học khác ở Sài Gòn vào thời gian quân Nhật chiếm đóng khi bắt đầu cuộc chiến tranh Ðông Dương vào thời Ðệ nhị Thế chiến. Các lớp học phải chuyển qua dạy tạm bên trường tiểu học Ðồ Chiểu ở Tân Ðịnh. Ðây là khoảng thời gian nữ sinh áo tím bỏ học rất nhiều do quân Nhật chiếm trường từ mùa hè 1940 cho đến khi quân Nhật đầu hàng đồng minh, sau đó quân Anh vào giải giáp quân Nhật, lại dùng nhà trường làm trại lính cho đến năm 1947. Trường không được bảo trì, hư hại trầm trọng.
Hai năm sau, trường được chỉnh trang và xây mới thêm dãy lớp hai tầng dọc theo đường Bà Huyện Thanh Quan. Học sinh ghi danh vào học rất đông. Cũng chính trong năm này, một nữ giáo sư Việt được cất nhắc chuẩn bị làm hiệu trưởng trường Nữ sinh áo tím. Sang năm học mới 1950, cô Nguyễn Thị Châu chính thức nhậm chức thay cho vị hiệu trưởng người Pháp là cô Malleret. Cô Nguyễn Thị Châu không chỉ là nữ hiệu trưởng đầu tiên của trường mà còn là nữ hiệu trưởng trường trung học đầu tiên của cả miền Nam bấy giờ.
Xuất thân trong một gia đình quan lại, cha cô là quan huyện Nguyễn Ðịnh Trị, sau làm nghị viên thành phố Sài Gòn. Ông cũng chính là “ông bầu” của đội bóng tròn Ngôi sao Gia Ðịnh đình đám một thời. Cô còn có một người em gái tên Nguyễn Thị Kiêm nổi tiếng đấu tranh cho nữ quyền và là nhà thơ và là ký giả nữ đầu tiên của làng báo chí Sài Gòn với bút hiệu Manh Manh.
Trường Gia Long dùng làm điểm bỏ phiếu bầu cử
tổng thống đầu thập niên 1970 Ảnh: Manhhaiflicks
Cuộc đời và sự nghiệp của cô hiệu trưởng Nguyễn Thị Châu còn rất dài và rất ly kỳ, tôi sẽ nói ở một bài viết khác. Người đương thời lúc đó còn biết cô còn giữ trọng trách Tổng thư ký của Uỷ hội Quốc gia UNESCO Việt Nam. Và là nữ Ðại biểu đầu tiên của Việt Nam dự Hội Nghị Pan-Pacific and South East Asia Women’s Association (PPSEAWA) lần thứ 7 thảo luận về vấn đề phát triển nữ quyền tổ chức ở Manila, Philippines năm 1955. Sau năm 1975 cô sang Pháp định cư tại Montpelier và mất năm 1996, thọ 84 tuổi.
Một người bạn nữ đồng nghiệp lớn tuổi của tôi khi nghe tôi hỏi chuyện về trường Nữ Trung học Gia Long rất thích thú, cứ nhẩn nha lời hát: “Tôi yêu màu áo tím Gia Long / Tôi yêu trường mái ngói rêu phong / Tôi yêu bạn bè xưa thân ái / Và ghi ơn thầy cô giúp tôi nên người…”. Chị bạn từng là học sinh Gia Long năm 1971 tự hào cũng phải thôi vì lúc đó, có tới khoảng tám ngàn thí sinh nhưng chỉ có tám trăm thi đậu.
Vào được Trung học Gia Long còn khó hơn thi vào đại học.
Trang Nguyên
Kim Quy sưu tầm
Hoa Trắng Thôi Cài Lên Áo Tím
Tác Giả Kiên Giang
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa xoá không gian
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường
Mười năm trước, em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh
Trường anh ngó mặt giáo đường
Gác chuông thương nhớ lầu chuông
U buồn thay ! Chuông nhạc đạo
Rộn rã thay ! Chuông nhà trường
II.
Lần kia anh ghiền nghe tiếng chuông
Làm thơ sầu mộng dệt tình thương
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường
Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đỗ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thùng, anh đứng lại không đi
III.
Sau mười năm lẽ anh thôi học
Nức nỡ chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy
Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm khối tuyệt tình
- Hoa trắng thôi cài lên áo tím
Thôi còn đâu nữa tuổi băng trinh
Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang, cách mấy sông
Anh vẫn yêu em người áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
IV.
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ tà áo tím, người yêu cũ
Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường
Mặc dù em chẳng còn xem lễ
Ở giáo đường u tịch chốn xưa
Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh
Nghe chuông truy niệm mối tình thơ
Màu gạch nhà thờ còn đỏ thẫm
Như tình nồng thắm thuở ban đầu
Nhưng rồi sau chuyến vu quy ấy
Áo tím tình thơ đã nhạt màu
V.
Ba năm sau chiếc xe hoa cũ
Chở áo tím về trong áo quan
Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt
Khi anh ngồi kết vòng hoa tang
Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh
Từng cài trên áo tím ngây thơ
Hôm nay vẫn đoá hoa màu trắng
Anh kết tình chung gởi xuống mồ
VI.
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Không còn đứng nép ở lầu chuông
Những khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa thánh đường
"Lạy Chúa con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ở trên cao
Trong lòng còn giữ màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi !"
Bến Tre, 14-11-1958
Kiên Giang