Ca khúc "Ly Rượu Mừng"
Ca khúc "Ly Rượu Mừng"
Ca khúc "Ly Rượu Mừng" là một bài hát thịnh hành trong dịp Tết. Bài hát mời mọi người cùng uống rượu mừng Xuân và nói những lời chúc Tết đến toàn dân và đất nước. Tuy bài hát không mô tả những cảnh tượng và sinh hoạt Tết như pháo nổ, hoa tươi sặc sỡ, bánh kẹo, bài hát tiêu biểu cho Tết Việt Nam vì chúc Tết là một tục lệ quan trọng trong Tết Việt Nam. Cộng với điệu nhạc vui tươi, giai điệu tiết tấu sống động, và lối diễn tả bình dị với vài điểm đặc sắc, "Ly Rượu Mừng" là một bài hát bất hủ trong dịp Xuân về.
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương viết ca khúc "Ly Rượu Mừng" là một bài hát Xuân gồm có những lời chúc Tết đến mọi người và đất nước. Bài hát rất thịnh hành trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Hầu như năm nào các đài phát thanh, truyền hình đều trình bày "Ly Rượu Mừng" trong suốt mấy ngày Tết. Trong các bữa tiệc, người ta thường hát bài này khi cụng ly chúc mừng Tết. Bài hát vẫn còn thịnh hành hiện nay ở hải ngoại trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Tuy nhiên, ca khúc "Ly Rượu Mừng" không còn được ưa chuộng bởi giới trẻ tại Việt Nam hiện nay (Xem, thí dụ như, Anh 2015; Chị 2015).
Có vài chữ trong bản gốc in năm 1966 có lẽ viết sai. Thí dụ "tuông rơ" thay vì "tuôn rơi"; "Muông người" thay vì "Muôn người"; "đang phơi phới" thay vì"dâng phơi phới."
Trong bài này, tôi sẽ trình bày nhận xét về nội dung và hình thức của "Ly Rượu Mừng." Ngoài ra, như trong các bài viết về âm nhạc trước, tôi sẽ chú trọng thảo luận chi tiết về các khía cạnh văn chương của lời nhạc, nhưng sẽ có phần nói về các khía cạnh âm nhạc của bài hát. Tôi dùng "khán giả" để chỉ người nghe, người đọc, và người xem.
Tiểu sử vắn tắt của tác giả (Wikipedia 2015).
Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc. Cha ông là Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được hai người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long. Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Người con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Và cô con gái út là Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh.
Phạm Đình Chương học nhạc từ năm 13 tuổi, bắt đầu sáng tác vào năm 1947, khi 17 tuổi. Năm 1951, ông và gia đình chuyển vào miền Nam. Với tên Hoài Bắc, ông cùng các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng lập ra ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Năm 1967, ông thành lập phòng trà "Đêm Mầu Hồng" tại Sài Gòn rất nổi tiếng (Robertino147 2006). Ông viết khoảng sáu mươi ca khúc, gồm nhiều thể loại như dân ca, tình ca, nhạc phổ thơ. Những ca khúc nổi tiếng của ông gổm có: Tiếng Dân Chài, Anh Đi Chiến Dịch, Ly Rượu Mừng, Người Đi Qua Đời Tôi, Nửa Hồn Thương Đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đôi Mắt Người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng Dưới Hoa (thơ Đinh Hùng).
Năm 1979, ông vượt biên và đến định cư tại California, Hoa Kỳ (Robertino147 2006). Ông mất vào ngày 22 tháng 8 năm 1991 tại California.
A. "Ly Rượu Mừng" tiêu biểu cho nhạc Xuân vì bài hát chú trọng vào lời chúc Tết và có điệu nhạc vui tươi sống động
"Ly Rượu Mừng" có nội dung đơn giản, là ca khúc mừng xuân với những lời chúc Tết tới mọi người được hạnh phúc ấm no trong cảnh đất nước thanh bình tự do. Bài hát không có những mô tả hình ảnh hoặc sinh hoạt trong những ngày quanh dịp Tết (thí dụ, pháo nổ, màu hoa sặc sỡ, kẹo bánh) nhưng rất tiêu biểu cho ngày Tết Việt Nam. Đó là vì bài hát chú trọng vào điểm quan trọng nhất trong dịp Tết: chúc Tết. Ngoài ra, bài hát được viết với điệu nhạc Valse, đem lại nét vui tươi sống động trong mùa Xuân. Giai điệu vả tiết tấu có nhiều khía cạnh linh hoạt theo nội dung, rất thích hợp cho hợp ca hoặc phối hợp giữa hợp ca và đơn ca.
1. "Ly Rượu Mừng" gồm những lời chúc Tết cho mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc và đất nước hưởng thanh bình tự do:
Bài hát mở đầu với lời mời nâng chén rượu để chúc mọi người ở khắp nơi ("Ngày Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi"), từ anh nông phu được mùa lúa thơm, người buôn bán có lợi tức, cho tới công nhân lao động thoát được cảnh nghèo khó ("Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi/ Người thương gia lợi tức/ Người công nhân ấm no/ Thoát ly đời gian lao nghèo khó.") Với các chữ "nông (phu)," "thương (gia)," và "công (nhân)," ta không thể không liên tưởng đến "sĩ nông công thương," được coi là bốn giai cấp xã hội Việt Nam thời xưa. Không rõ tại sao Phạm Đình Chương bỏ "sĩ" (người học hành). Trong đoạn sau, ông có nhắc đến "sĩ," nhưng đó là "nghệ sĩ" là những người sinh sống qua nghệ thuật, chứ không phải là những người sinh sống qua học hành hoặc hành nghề chuyên môn như bác sĩ, kỹ sư, luật sư. Có thể lúc bấy giờ, số người "sĩ" không nhiều trong xã hội bằng ba giới "nông, công, thương."
Với "nâng chén," tác giả mở đầu bằng hành động giơ cao ly rượu khi chúc mừng. Tác gỉả dùng "chén" và "ly" như nhau trong toàn bài hát. Ta nên nói thêm về "chén" và "ly" trong tiếng Việt.
Chữ "chén" có nhiều nghĩa trong tiếng Việt. Nghĩa thông thường của "chén" là vật dùng để uống nước, rượu, trà, thường bằng sành hay sứ. Một chữ có nghĩa tương tự là "tách" (do tiếng Pháp "tasse") nhưng "tách" thường có tay cầm trong khi "chén" thường không có tay cầm. Nghĩa thứ hai là vật dùng để ăn, như chén cơm, chén cháo. Trong nghĩa này, người miền Nam dùng "chén" thay cho "bát" hoặc "tô" mà người miển Bắc thường dùng. "Chén" còn có thể dùng với nghĩa bóng, hàm ý chứa đựng ý tưởng, tâm tình (như "chén tình" trong bài hát).
"Ly" khác "chén" ở hai điểm: "ly" thường làm bằng thủy tinh và sâu hơn "chén." Để uống rượu, người Tây phương thường dùng "ly" và rất ít khi dùng "chén." Ngược lại, người Việt dùng "ly" và "chén" tùy vào loại rượu. Nguyễn Dư (2014) viết một bài lý thú về nguồn gốc các dụng cụ uống rượu (chén, bát, ly, cốc).
Ta cũng nên để ý là khi uống rượu chúc mừng, người ta thường nói "nâng chén" hoặc "cụng ly" chứ ít ai nói "cụng chén." Có thể vì thói quen "cụng ly" là tạo âm thanh cho thêm phần vui nhộn, và thường thì thủy tinh pha lê của ly mới tạo ra được âm thanh trong vắt, chứ không có mờ đục buồn tẻ như sành sứ của chén. Thực ra có nhiều nguồn gốc giải thích cho thói quen "cụng ly." Một giải thích theo thói quen Hy Lạp là khi cụng ly, ta có thể làm văng thuốc độc bỏ vào ly rượu của mình vào ly rượu của kẻ đang muốn hại mình (Xem, thí dụ như, Etiquette International; Upton 2010). Một lý thuyết khác là khi cụng ly, ta đuổi ma quỷ ra khỏi rượu và do đó uống rượu an toàn hơn (Etiquette International; Upton 2010). Một giải thích nữa là một ly rượu ngon khơi mạnh các giác quan về nhìn, đụng chạm, vị, và mùi. Do đó, khi cụng ly, ta tạo thêm cảm nhận âm thanh, cho đầy đủ ngũ quan (Etiquette International). Với hai lý thuyết đầu, "cụng ly" hay "cụng chén" đều có ý nghĩa. Nhưng với lý thuyết thứ ba, "cụng ly" có lẽ đúng hơn "cụng chén" vì như trình bày trên, âm thanh tạo bởi hai ly thủy tinh va chạm nhau nghe thánh thót và vang vang hơn chén sành.
Ngoài ra, tiếng Việt ta dùng "nâng chén" và "nhấc ly" chứ không dùng "nâng ly" hoặc "nhấc chén." Đó là vì "nâng" là hành động trịnh trọng, hàm ý dùng sức (thực sự hay bề ngoài). Trong lúc uống rượu bằng chén thời xưa, người ta thường dùng hai tay để "nâng" chén rượu mời với ngụ ý trịnh trọng hoặc bày tỏ sự kính trọng. "Nâng" trong "nâng khăn sửa túi" hoặc tiếng lóng "nâng bi" có ý nghĩa kính cẩn trịnh trọng tương tự. Ngoài ra, vì chén thường không có tay cầm, dùng hai tay để "nâng" chén giữ cho chén thăng bằng, không đổ hoặc rớt. Ngược lại, "ly" thường có hình thể thon dài, có bầu sâu chứa rượu và chân ly dài, và nhẹ, nên cầm ly dễ dàng và không dùng sức nhiều. Do đó, khi đưa ly rượu lên cao, người ta thường dùng một tay để "nhấc" thay vì "nâng." Một điểm nữa, có lẽ hơi lạc đề, là cách "nhấc" ly hoặc cầm ly rượu. Cách đúng nhất là cầm chân hoặc thân (stem) ly, và không bao giờ cầm bầu (bowl) ly (Xem, thí dụ như, Real Simple). Lý do là khi cầm chân hoặc thân ly rượu, tay người cầm ly sẽ không che rượu trong ly (để màu và mức trong của rượu được nhìn thấy), và thân nhiệt ở tay sẽ không làm thay đổi nhiệt độ rượu. Vì cầm ly rượu ở chân hoặc thân ly và bằng một tay, hành động đưa ly lên thường không cần phải có sự trịnh trọng hoặc nặng nề. Do đó, "nhấc ly" nghe hợp lý hơn "nâng ly." Tuy nhiên, "nâng ly" hoặc "nâng cốc" vẫn được dùng để ngụ ý trịnh trọng, lễ phép, trong lúc chúc tụng.
Trở về với "Ly Rượu Mừng," mọi người cùng nhấp chén rượu đầy vơi, chúc vui mọi người ("Á A A A Nhấp chén đầy vơi, chúc người người vui.") Trong dịp Xuân về, ai cũng nao nao với những mối duyên nợ cuộc đời ("Á A A A Muôn lòng xao xuyến duyên đời.") Với quãng "Á A A A," bài hát khuyến khích mọi người cùng ca. Có lẽ đó là lý do "Ly Rượu Mừng" thích hợp cho hợp ca và trong cuộc họp mặt đông người khi mọi người cùng nâng ly rượu chúc lẫn nhau.
Ly rượu được rót tràn đầy để chúc người binh sĩ lên đường ra nơi trận mạc xa xôi được thành công, làm tươi sáng cuộc đời dân lành ("Rót thêm tràn đầy chén quan san/ Chúc người binh sĩ lên đàng/ Chiến đấu công thành, sáng cuộc đời lành/ Mừng người vì nước quên thân mình.") Ta hiểu "quan san" là quan ải và núi non, thường để chỉ những nơi xa xôi, hoặc ở biên giới, đồn trú cho binh lính. Lời chúc cũng được gửi tới những bà mẹ già nơi xa xôi, nhớ thương con cháu mong mỏi được gặp lại người con đi xa, sẽ có dịp gặp lại con trở về hội ngộ chan hòa niềm yêu thương ("Kìa nơi xa xa có bà mẹ già / Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa/ Chúc bà một sớm quê hương/ Bước con về hòa nỗi yêu thương.") Mọi người cùng hát bài hát vui vẻ làm tươi thắm đời người chiến sĩ, và để cho người mẹ già không còn lo âu buồn bã vì con nữa ("Á A A A Hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính/ Á A A A Chúc mẹ hiền dứt u tình.")
Ly rượu mừng cũng gởi đến những cặp tình nhân hoặc vợ chồng đang xây tổ ấm cùng nhau ("Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương/ Xây tổ ấm trên cành yêu đương.") Điều đó không có nghĩa là chúc mừng những cặp vợ chồng mới cưới. Ta biế̉t ít ai làm đám cưới trong mùa Xuân vào dịp Tết. "Đôi uyên ương" chỉ có nghĩa cặp tình nhân, hoặc cặp vợ chồng trẻ đang tạo dựng gia đình nhỏ. Với người nghệ sĩ, chúc mừng họ đem lời ca, tiếng nhạc, câu thơ văn, và nét họa tô điểm cuộc đời thêm mới mẻ tốt đẹp ("Nào cạn ly, mừng người nghệ sĩ/ Tiếng thi ca nét chấm phá tô nên đời mới.") Như trình bày ở trên, "nghệ sĩ" đây không phải là giai cấp "sĩ" trong "sĩ nông công thương" mà là những người theo ngành nghệ thuật như nhạc sĩ, ca sĩ, thi sĩ, văn sĩ, họa sĩ, ̣điêu khắc gia, v.v.
Nhưng lời chúc thiêng liêng nhất là lời chúc cho đất nước hòa bình, không còn chiến tranh, thịt rơi máu đổ. Đó là ngày quê hương được yên vui và những người lính trở về với chén rượu ấm chứa chan đầy tình thương yêu ("Bạn hỡi, vang lên/ Lời ước thiêng liêng/ Chúc non sông hòa bình, hòa bình/ Ngày máu xương thôi tuôn rơi/ Ngày ấy quê hương yên vui/ đợi anh về trong chén tình đầy vơi.") Có thể đây là lý do ca khúc "Ly Rượu Mừng" không còn được thịnh hành tại Việt Nam hiện nay nữa, vì lời chúc hòa bình có vẻ mất ý nghĩa. Tuy nhiên, với tình trạng thế giới hiện nay và thái độ ngang ngược của Tàu cộng, chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Ngoài ra, chiến tranh không nhất thiết là về quân sự, mà còn có ý nghĩa chính trị, văn hóa, xã hội, v.v. Với những ý nghĩa đó, Việt Nam hiện nay vẫn còn chiến tranh trên toàn đất nước dưới sự thống trị tàn bạo của cộng sản.
Mọi người hãy cùng nhấc cao ly rượu, chúc cho tương lai sáng sủa tràn đầy tự do, đất nước thanh bình, và mọi người được hạnh phúc tràn trề ("Nhấc cao ly này/ Hãy chúc ngày mai sáng trời Tự Do/ Nước non thanh bình/ Muôn người hạnh phúc chan hòa.") Trước hết, ta để ý tác giả dùng "nâng chén" và "nhấc cao ly rượu" (thay vì "nâng ly" hoặc "nhấc chén") như đã đề cập ở trên. Thứ nhì, trong phiên khúc này, tác giả chúc đất nước tự do và thanh bình. Ta phải hiểu Phạm Đình Chương ngụ ý cầu mong nước non thanh bình và sáng trời tự do cho toàn thể đất nước Việt Nam từ Nam ra Bắc. Lúc bấy giờ, miển Nam đã được hưởng nền dân chủ tự do, nhưng miền Bắc bị dưới ách thống trị tàn bạo của cộng sản. Phạm Đình Chương lúc nào cũng tưởng nhớ đến miền Bắc. Tên hát của ông là Hoài Bắc, nói lên tâm tư này. Thứ ba, đây là lời chúc khác với lời chúc trong phiên khúc trước. Trong phiên khúc trước, lời chúc "non sông hòa bình" khác với "nước non thanh bình." "Hòa bình" ngụ ý không còn chiến tranh, chém giết lẫn nhau. "Thanh bình" ngụ ý yên tĩnh, không bị khuấy động. Một đất nước hòa bình không có nghĩa là thanh bình nếu nước đó vẫn còn những bất công, đàn áp bởi kẻ cầm quyền. Thí dụ điển hình là Việt Nam. Tuy không còn chiến tranh, Việt Nam hiện nay còn bị khuấy động nhiều hơn cả lúc đang chiến tranh, vì những bất công, tham nhũng, đàn áp, và tàn bạo do nhà nước cộng sản xảy ra toàn diện trên khắp vùng đất nước. Đó là không kể hiểm họa mất nước có thể xảy ra nay mai.
Tổng kết, mọi người mơ ước hạnh phúc ở khắp mọi nơi và hương thơm thanh bình đang dâng cao ("Ước mơ hạnh phúc nơi nơi/ Hương thanh bình dâng phơi phới.") "Phơi phới" hàm ý một khí thế đang lên. Lời chúc "thanh bình" gồm cả "hòa bình" lẫn yên tĩnh, và do đó có ý nghĩa mạnh mẽ hơn "hòa bình."
"Ly Rượu Mừng" là một ca khúc đơn giản, gồm những lời chúc Tết cho mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc và đất nước hưởng thanh bình tự do. Bài hát có nhiều khía cạnh khác biệt với những bài hát khác về Xuân.
2. Tuy không mô tả cảnh tượng hoặc không khí Xuân, "Ly Rượu Mừng" tiêu biểu cho ngày Tết vì chúc Tết là tục lệ quan trọng nhất trong Tết Việt Nam:
Ca khúc "Ly Rượu Mừng" thuần túy là những lời chúc Xuân cho mọi người và đất nước. Bài hát hoàn toàn không có mô tả cảnh tượng đón Xuân, hoặc các trang lễ, chuẩn bị, và không khí của những ngày Tết theo truyền thống Việt Nam. Phạm Đình Chương cố tình gạt bỏ những hình ảnh về Xuân, mà chỉ tập trung vào một khía cạnh duy nhất là chúc Tết. Cả toàn bài hát không hề có các cảnh tượng thiên nhiên mùa Xuân như màu sắc hoa (mai, đào), mùi hương thơm hoa, nắng vàng, gíó ngàn, tiếng chim hót; hình ảnh đón Tết và trang hoàng trong nhà như bếp hồng, bánh dầy, bánh chưng, kẹo mức, hạt dưa, trái cây, cây nêu; cảnh tượng đường phố như trẻ em khoe quần áo mới, người đi nườm nượp, phố phường đông đúc; các hình ảnh và âm thanh Tết như pháo nổ đì đùng, trống đập múa Lân, phong bì đỏ lì xì, tiếng nhạc ca hát mừng Xuân, v.v.
Những bài hát khác về Xuân luôn luôn có, không nhiều thì it, những hình ảnh hoặc gợi ý cho cảnh Xuân và không khí đón Tết. Thí dụ như: "Rừng hoa mai đua nở" ("Tâm Sự Nàng Xuân" của Hoài Linh); "Ngắm vườn bên thấy mai đào nở," ("Nghĩ Chuyện Ngày Xuân" của Song Ngọc); "Hoa lá nở thắm," "hoa đào hồng thắm," ("Cánh Thiệp Đầu Xuân" của Minh Kỳ & Lê Dinh); "Hoa đào hoa mai," "trẻ thơ khoe áo xinh xinh," "mứt vàng hạt dưa," "bánh dầy bánh chưng," "phong bì thắm tươi" ("Ngày Tết Việt Nam" của Hoài An); "chim hót mừng," "Lập lòe tà áo xanh xanh," "đàn chim non xinh xinh tung bay," "tiếng pháo đì đùng," "Ngàn hoa hé môi cười vui" ("Xuân Đã Về" của Mink Kỳ); "cánh hồng tươi thắm," "Muôn sắc khoe tươi," "Nồng ngát hương thơm" ("Gió Mùa Xuân Tới" của Hoàng Trọng); "nụ hoa vàng mới nở," "lộc non vừa trẩy lá," "bầy chim lùa vạt nắng," "rung nắng vàng ban mai," ("Anh Cho Em Mùa Xuân" của Nguyễn Hiền, thơ Kim Tuấn); "mai đào nở vàng bên nương," "pháo giao thừa rộn ràng," "trông bánh chưng ngồi chờ sáng," "cho tà áo mới ba ngày xuân đi khoe phố phường" ("Xuân Này Con Không Về" của Trịnh Lâm Ngân); "nắng vàng," "nâng phím đàn cùng hát ca," ("Xuân Họp Mặt" của Văn Phụng).
Thực ra, cả toàn bài "Ly Rượu Mừng," chỉ có một chữ "Xuân" duy nhất trong câu đầu. Nếu bỏ chữ "Xuân" này và thay bằng một chữ khác như "vui," cả toàn bài chỉ hoàn toàn nói về chúc tụng mọi người và đất nước, và không có một chút xíu gì về Xuân hoặc Tết cả. Nhưng có thật là vậy không?
Tại sao "Ly Rượu Mừng" luôn luôn được coi là bài hát tượng trưng cho dịp Xuân về, Tết đến? Câu trả lời thật đơn giản nhưng cũng có thể gây ngạc nhiên: Chính lời chúc tụng là đặc tính độc đáo của Tết Việt Nam.
Tết Việt Nam có thể không có cảnh tượng thiên nhiên như chim hót, nắng vàng, gió mát, hoặc những hoạt động nhân tạo như pháo nổ, múa rồng, múa lân, hoa mai, hoa đào, bánh chưng, kẹo mứt, quần áo mới, tiếng hát Xuân, phong bì đỏ lì xì.
Nhưng Tết Việt Nam không thể nào không có lời chúc Tết.
Chúc tụng hoặc chúc mừng nhau gần như là căn bản sinh hoạt ở xã hội Việt Nam. Người Việt hình như bị ám ảnh với chúc tụng. Người ta chúc nhau trong bất kỳ dịp nào: sinh nhật, đầy tháng, thôi nôi, sinh đẻ, thi cử (trước và sau khi thi), thăng quan tiến chức, mua sắm đồ dùng, mua nhà, mua xe, cưới hỏi, du lịch, nghỉ hè, đau ốm, ra vào bệnh viện, ra mắt tác phẩm, mở cửa hàng, nhận chức vụ mới, thuyên chuyển, trình diễn, trúng thầu, ký khế ước. Trong một buổi họp mặt, cho dù bất cứ có dịp gì, luôn luôn có người đứng lên ngỏ lời chúc mọi người. Trong một bữa tiệc, sẽ có người nói, "Chúc quý vị một bữa tiệc vui vẻ." Trên đài phát thanh hoặc truyền hình hàng ngày, các xướng ngôn viên luôn luôn có lời chúc khán thính giả, lúc thì một ngày vui vẻ, một ngày nghỉ an toàn, hoặc một buổi tối ấm cúng với gia đình. Trong một lá thư hay một e-mail, người viết thường mở đầu hoặc kết luận bằng một lời chúc. Ngay cả trong lúc gặp nhau hàng ngày cũng có lời chúc vui vẻ hoặc mạnh khỏe. Những lời chúc nhiều khi biến thành những lời chào hỏi hàng ngày, thí dụ như "Chúc bạn một ngày vui," tương tự như những câu nói sáo rỗng "Have a nice day!" ở Hoa Kỳ.
Chúc tụng hoặc chúc mừng nhau không phải chỉ xảy ra thông thường ở Việt Nam. Dân chúng tại nhiều quốc gia khác cũng có thói quen tương tự. Nhưng tại các quốc gia này, chúc tụng thường xảy ra tại các buổi họp mặt, tiệc tùng, ăn mừng một dịp nào đó, và thường không xảy ra giữa cá nhân hoặc qua thư từ, và không có sắc thái hầu như là ám ảnh của người Việt. Tại các quốc gia khác, trong bữa tiệc họp mặt, ngoại trừ các xã hội cấm uống rượu (thí dụ, đạo Hồi), thường có những lời chúc tụng giữa khách và chủ qua cách giơ cao ly rượu và cùng uống (toasting). Đa số những lời chúc tụng là cho sức khoẻ (Etiquette Scholar).
Người Việt có lẽ tin tưởng vào các lời chúc tụng sẽ quả thật đem lại may mắn, sức khỏe, tiền bạc, thành công, tình yêu. Trong các dịp lễ long trọng như ngày Tết, lời chúc còn có ý nghĩa "thiêng liêng" hơn các dịp khác vì có sự tin tưởng vào thần thánh, tổ tiên ông bà hoặc những người đã khuất trong gia đình, hội họp trong dịp Tết và sẽ giúp những lời cầu chúc thành sự thật. Phong tục cổ truyền Việt Nam trong dịp Tết có nhiều tục lệ như cúng kiến, xông đất, xuất hành, chúc Tết, hái lộc, biếu quà, kiêng cữ, v.v. nhưng có lẽ chúc Tết là tục lệ quan trọng nhất. Trong những ngày đầu năm, câu đầu tiên người ta nói với nhau khi gặp nhau là lởi chúc Tết. Ngay cả ngày nào đi chúc Tết ai cũng được quy định rõ rệt: "Mồng một chúc Tết mẹ cha/ Mồng hai tết vợ, mồng ba tết thầy."
Do đó, tuy không có những mô tả thiên nhiên, cảnh tượng, nhà cửa, đường phố, thiên hạ, và các hoạt động Tết, ca khúc "Ly Rượu Mừng" biểu hiện một đặc tính quan trọng nhất trong Tết Việt Nam. Đó là những lời chúc Tết trong các ngày đầu năm. Tết Việt Nam sẽ mất ý nghĩa nếu không có những lời chúc Tết và do đó "Ly Rượu Mừng" luôn luôn là một ca khúc được hát trong dịp Tết hàng năm.
3. Giai điệu, tiết tấu, và điệu nhạc valse thích hợp cho lời chúc mừng Xuân với nét vui tươi và sống động:
Bài hát được viết với nhịp 3/4, dưới điệu nhạc Valse có tốc độ/ hành độ (tempo) nhanh và do đó đem lại nét sống động và vui tươi, thích hợp cho dịp vui ăn mừng ngày Tết. Nhạc sĩ thường chọn lựa điệu nhạc (tiết điệu) khi soạn nhạc. Tiết điệu là chu kỳ của các phách mạnh và yếu theo một nhịp điệu nào đó. Tiết điệu cho thấy sự liên kết nhịp nhàng trong chuyển động. Thí dụ: valse, rhumba, fox, slow, tango (Phạm Đức Huyến, 37). Ta nên biết có hai điệu nhạc Valse, hoặc Waltz theo tiếng Mỹ: Waltz chậm (slow Waltz) và Viennese Waltz. Cả hai đều có cùng nhịp điệu căn bản nhưng Viennese Waltz có tốc độ nhanh hơn Waltz chậm, có thể nhanh gấp ba bốn lần. Waltz chậm còn được gọi là Boston, do tên thành phố Boston tại Hoa Kỳ khi điệu Waltz được phát triển và du nhập qua Hoa Kỳ vào thế kỷ 19 (Xem, thí dụ như, OSLH). Nhạc Việt thường dùng Boston cho Waltz chậm và Valse cho Viennese Waltz. Trong bài "Ly Rượu Mừng," nhạc sĩ Phạm Đình Chương ghi rõ điệu Valse trên tờ nhạc, và bài hát nên được trình bày với tiết điệu nhanh và sống động của điệu Viennese Waltz.
Giai điệu và tiết tấu của bài hát thích hợp cho hợp ca, như trong buổi họp mặt. Bài hát có những khúc trầm bổng, ngắn gọn và kéo dài tùy vào nội dung của câu hát, tạo nên nét linh hoạt và sống động. Thí dụ câu "Bạn hỡi/vang lên/ Lời chúc/ thiêng liêng" có bốn ngắt quãng với dấu nghỉ, và ở nốt cao, diễn tả lời kêu gọi mọi người cùng vang lên lời chúc. Lời kêu gọi đó được nhấn mạnh qua bốn ngắt quãng và nốt cao tạo nên khí thế thúc giục mạnh mẽ. Tương phản với câu kêu gọi thúc giục đó, câu "Kìa nơi xa xa có bà mẹ già" có cùng trường độ, nhưng không có dấu nghỉ và lời ca được kéo dài liên tục; do đó tạo ra âm hưởng êm ái nhẹ nhàng, thích hợp cho hình ảnh bà mẹ già mong chờ con.
Bài hát gồm có những lời chúc mọi người và toàn dân đất nước. Do đó, âm hưởng bài hát sẽ có khí thế mạnh mẽ và ý nghĩa khi bài hát trình bày qua hợp ca. Tuy bài hát có thể do một ca sĩ hát, âm điệu sẽ được hay hơn nếu có nhiều ca sĩ cùng hát một lúc. Những quãng Á A A A trong bài hát là dành cho khúc hợp ca, có nhiều người đồng xướng. Bài hát cũng sẽ được trình bày linh động nếu có những khúc hát hợp ca xen kẽ những khúc hát đơn ca, hoặc hợp ca giọng nam xen kẽ hợp ca giọng nữ. Ban Hợp ca Thăng Long phối hợp kỹ thuật hợp ca và đơn ca, và hợp ca giọng nam cùng giọng nữ rất tinh vi, đem nét linh động, vui tươi, và nhiều sắc thái cho bài hát (Xem, thí dụ như, Doppelpass01 2010).
B. Bài hát có lối diễn tả đơn giản thích hợp cho các lời chúc Tết chính xác và có vài nét đặc sắc đem lại nét linh hoạt sống động:
Trong "Ly Rượu Mừng," Phạm Đình Chương không có lối dùng chữ hoặc kỹ thuật trình bày gì đặc biệt. Bài hát có ít mỹ từ. Các từ ngữ đơn giản, dễ hiểu, không cầu kỳ bóng bẩy. Đó chính là điểm hay của bài hát. Bài hát gồm những lời chúc Tết cho mọi người; do đó, ngôn từ cần phải đơn giản thích hợp với bản chất bình dị và chất phác của đa số dân Việt thời bấy giờ. Không ai muốn nói những lời chúc khó hiểu hoặc bóng bẩy làm mất đi ý nghĩa chân thành của lời chúc đầu năm. Ngoài ra, vì bài hát là những lời chúc Tết và không phải là một câu chuyện hoặc tâm trạng của một người nên không có nhiều những khía cạnh kỹ thuật viết như lối trình bày, "cho thấy, đừng kể," chú trọng vào chi tiết rõ rệt, v.v...
Tác giả dùng những lời chúc chính xác, ̣đánh đúng vào nguyện vọng của mọi người. Với người nông phu, còn gì sung sướng hơn là ruộng lúa được mùa; thương gia buôn bán có lời nhiều; người lao động không còn nghèo khó; người chiến sĩ thành công nhiệm vụ, giúp dân lành; bà mẹ già gặp lại con trở về, hết cơn u buồn; cặp tình nhân xây tổ ấm; người nghệ sĩ tô điểm đời thêm tươi đẹp; non sông hòa bình và đất nước hưởng thanh bình tự do. Ta không thấy những lời chúc mơ hồ, sáo rỗng, máy móc, như "sức khỏe sung túc," "sống lâu trăm tuổi," "tài lộc dồi dào," "con hiền dâu thảo," "thăng quan tiến chức," v.v...
Tuy bài hát có lối diễn tả bình dị và đơn giản, cũng có vài điểm đặc sắc đáng ghi. Trước hết, Phạm Đình Chương trình bày cuộc uống rượu mừng là một chuỗi tác động rót rượu, nâng chén hoặc nhấc cao ly, nhấp nháp rượu, uống cạn ly, và rót thêm rượu ("nâng chén ta chúc nơi nơi / Nhấp chén đầy vơi/ Rót thêm tràn đầy chén/ Nào cạn ly/ chén tình đầy vơi/ Nhấc cao ly này"). Mỗi tác động kèm theo lời chúc mọi người. Cách mô tả đó tạo ra cảnh tượng linh hoạt sống động của một bữa tiệc khi mọi người cùng giơ cao ly rượu và chúc lẫn nhau. Thứ nhì, bài hát có vài chỗ dùng "cho thấy, đừng kể," chi tiết rõ rệt, và ẩn dụ nhẹ nhàng. Thí dụ như "mắt vương lệ nhòa," "máu xương thôi tuôn rơi," "chén tình," "thoát ly đời gian lao." Cộng với điệu nhạc vui tươi và giai điệu tiết tấu sống động, các diễn tả này đem lại những nét chấm phá rải rác trên khắp bài hát, giúp khán giả có tâm trạng lâng lâng sảng khoái.
Ca khúc "Ly Rượu Mừng" là một bài hát bất hủ cho Tết. Bài hát không có những mô tả thông thường về Tết như pháo nổ, hoa mai hoa đào nở, bánh kẹo trái cây, nhưng đánh đúng vào sắc thái quan trọng trong dịp Tết là chúc Tết. Ngoài ra, với điệu nhạc Valse vui tươi, giai điệu trầm bổng, tiết tấu sống động, và lời ca đơn giản, bài hát thích hợp cho hợp ca hoặc phối hợp giữa hợp ca và đơn ca.
Với người Việt, Tết là mùa vui vẻ. Những ngày đầu năm là những ngày ai cũng vui cười, trao quà, chúc nhau những lời chúc tốt đẹp. Ngày Tết thực ra có thể tạo căng thẳng cho một số gia đình phải lo tốn kém chuẩn bị, mua sắm và sửa soạn nhà cửa. Với nhiều gia đình nghèo, ngày Tết cũng như mọi ngày trong cuộc đời. Ngoài ra, có nhiều gia đình thiếu thốn người thương yêu vì họ bị giam cầm cho những tội bịa đặt của nhà nước cộng sản. Do đó, trong khi ta hưởng thụ những ngày Tết hạnh phúc với gia đình, ta cũng nên có chút suy nghĩ đến những người đang chịu khổ cực đọa đầy, nhất là những người đang trong ngục tù cộng sản vì đấu tranh cho dân chủ tự do.
Cao Đắc Tuấn
KP sưu tầm