- Thư kiếm ân cừu lục 1955
- Bích huyết kiếm 1956
- Xạ điêu anh hùng truyện 1957
- Thần điêu hiệp lữ 1959
- Tuyết sơn phi hồ 1959
- Phi hồ ngoại truyện 1960
- Bạch mã khiếu tây phong 1961
- Uyên Ương đao 1961
- Ỷ thiên Đồ long ký 1961
- Liên thành quyết 1963
- Thiên long bát bộ 1963
- Hiệp khách hành 1965
- Tiếu ngạo giang hồ 1967
- Lộc Đỉnh ký 1969-1972
- Việt nữ kiếm 1970
Kim Dung và những pho truyện kiếm hiệp kỳ thú
射雕英雄传 | |
(Xạ điêu anh hùng truyện)
|
Thăm địa danh có thật trong tiểu thuyết Kim Dung
Ngũ nhạc kiếm phái trong “ Tiếu ngạo giang hồ ”
được phóng tác từ Ngũ nhạc danh sơn
( 5 ngọn núi linh thiêng ) có thật ở Trung Hoa, gồm:
Hoa Sơn, Thái Sơn, Hành Sơn, Hằng Sơn và Tung Sơn.
1. Hoa Sơn
Hoa Sơn xuất hiện nhiều lần trong tiểu thuyết Kim Dung, và thường được đề cập đến với cụm từ Hoa Sơn luận kiếm. Kim Dung đã biến Hoa Sơn thành một địa điểm đầy uy lực trong giới võ lâm Trung Nguyên, khi miêu tả đây là ngọn núi để các cao thủ võ lâm tìm đến so tài cao thấp, giành lấy ngôi vị “Võ lâm chí tôn”.
Nếu là tín đồ của tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, bạn sẽ chẳng ngạc nhiên với những lần “Hoa Sơn luận kiếm” của Đông tà Hoàng Dược Sư, Tây độc Âu Dương Phong, Nam đế Đoàn Trí Hưng, Bắc cái Hồng Thất Công và Trung Thần thông Vương Trùng Dương trong bộ “Anh hùng xạ điêu”.
Hay khi tỉ thí võ công rồi kết tình bằng hữu giữa Âu Dương Phong, lúc này đã nhận Dương Quá làm con nuôi, với Hồng Thất Công giữa tuyết lạnh trong bộ Thần điêu hiệp lữ.
Hoa Sơn nằm ở ngoại ô thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, với năm đỉnh núi chính, trong đó đỉnh cao nhất (2154,9 m) là ngọn Nam Phong (ở phía Nam) hay còn được gọi là Lạc Nhạn.
Toàn bộ ngọn núi được cấu tạo bằng đá hoa cương, với hình dáng dựng đứng và xòe rộng như một bông hoa nên được đặt tên là Hoa Sơn. Đỉnh chính của dãy Hoa Sơn cao đến 2083m.
Có thể do địa hình quá hiểm trở mà Kim Dung đã chọn Hoa Sơn là nơi tỷ võ chọn Đệ nhất võ lâm Trung Nguyên, vì chỉ có những bậc võ nghệ cao thâm mới có thể vượt qua những dãy núi cheo leo này để lên được đến đỉnh.
Trong Tiếu ngạo giang hồ, phái Hoa sơn có bản doanh nằm trên dãy Hoa Sơn, nổi danh trên võ lâm với 2 chiêu thức là Hoa Sơn kiếm phái và Tử Hà thần công.
Đây cũng là nơi đầy ắp kỷ niệm của Lệnh Hồ Xung cùng với Nhạc Linh San, con gái chưởng môn phái Hoa Sơn.
Khi tới thăm ngọn núi này, bạn có thể tận mắt ngắm dòng chữ “Hoa Sơn luận kiếm” do chính tay Kim Dung tiên sinh chấp bút.
Hoa Sơn cũng là một trong những địa điểm đặt khóa tình yêu nổi tiếng của giới trẻ.
Đến thăm Hoa Sơn, giữa mây núi bềnh bồng như tiên cảnh, du khách sẽ được lạc vào thế giới kiếm hiệp huyền ảo, tưởng chừng nghe cả tiếng binh đao luận kiếm giành ngôi Minh chủ võ lâm vang vọng đâu đây… Chính vì vậy, Hoa Sơn từ lâu đã trở thành địa danh thu hút du khách gần xa, đặc biệt là những “fan cuồng” của Kim Dung.
2. Thái Sơn
Phái Thái Sơn trong bộ tiểu thuyết Tiếu Ngạo giang hồ có bản doanh nằm ở núi Thái Sơn.
Dù đây là môn phái không “vang danh thiên hạ”, chẳng mấy tiếng tăm trong võ lâm và cũng không được nhà văn Kim Dung đề cập nhiều trong bộ tiểu thuyết này, nhưng ngọn Thái Sơn ngoài đời thật lại là một địa điểm du lịch nổi tiếng khắp thế giới.
Với tổng diện tích hơn 420 km2, nằm ở tỉnh Sơn Đông phía Bắc thành Thái An, núi Thái Sơn bao gồm nhiều dãy núi hùng vĩ, trong đó có đỉnh Ngọc Hoàng cao 1545m so với mặt nước biển. Vì vậy, người xưa gọi ngọn núi này là “cột chống trời”.
Núi còn có tên gọi là Đại Sơn, hay Đại Tông, và được xem là một trong năm ngọn núi linh thiêng của Trung Hoa, bên cạnh Hoa Sơn, Hành Sơn, Hằng Sơn, Tung Sơn. Thái sơn thường ví với ánh bình minh, sự sinh và tái sinh, do đó được xem là nơi linh thiêng nhất trong 5 ngọn núi.
Ngoài đình đài, chùa và điện, Thái Sơn còn có rất nhiều di sản quý của tự nhiên, trong đó gồm có hàng vạn cây cổ thụ trên 100 năm tuổi, đặc biệt là cây ngân hạnh trong đền có niên đại 2000 năm tuổi được mệnh danh là “hóa thạch sống”. Ngoài ra, cây cầu bằng đá được hình thành sau vụ sạt lở núi, có tên gọi là “cây cầu bất tử” cũng là một địa danh rất hút khách tại ngọn núi này.
Một trong những ấn tượng thú vị nhất khi đến Thái Sơn là đứng trên đỉnh Ngọc Hoàng, ở Vọng Hà Đình để đón bình minh.
Khi mặt trời mọc, những đám mây tầng tầng bay trên đỉnh núi, phủ khắp và biến ngọn núi này thành chốn “bồng lai tiên cảnh”.
Thái Sơn cũng được xuất hiện trong nhiều cảnh quay của bộ phim Ỷ Thiên Đồ Long ký 2009.
3. Hành Sơn
Trong Tiếu ngạo giang hồ, phái Hành Sơn có bản doanh dưới chân núi Hành Sơn, nổi tiếng với các cao thủ kiếm thuật say mê âm nhạc. Mạc Đại Tiên Sinh chưởng môn phái Hành Sơn sử dụng cây hồ cầm, chuyên chơi bản Tiêu tương dạ vũ.
Cũng ở nơi này, Lưu Chính Phong cùng với Khúc Dương trưởng lão của Nhật Nguyệt thần giáo trước khi chết còn kịp cùng nhau tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ và sau đó nhờ Lệnh Hồ Xung truyền lại khúc nhạc này.
Hành Sơn cách trung tâm thành phố Hành Dương, Hồ Nam 50 km, gồm những vách đá có địa thế dựng đứng, hình thù kỳ quái. Toàn bộ Hành Sơn có 72 đỉnh núi lớn nhỏ, nhiều suối hồ, thác nước và hang động đẹp mắt. Cách đây 2000 năm, Hành Sơn đã là địa danh nổi tiếng khắp Trung Hoa, thu hút nhiều tao nhân mặc khách đến viếng cảnh, lưu lại nhiều bài thơ được khắc trên vách đá, trong đó có bút tích của nhà thơ Lý Bạch và Đỗ Phủ.
Trong số hơn 200 ngôi chùa, đình miếu trên núi Hành Sơn, đền thờ Fuyan được gọi là đền thờ chứa đựng “giáo lý Phật giáo” và là nơi sáng lập, thực hiện các nghi lễ Phật giáo. Đền thờ này được xây dựng vào thời nhà Nguyên (1279-1368) và được coi là nguồn gốc một chi nhánh của Phật giáo tại Nhật Bản.
4. Hằng Sơn
Phái Hằng Sơn được nhà văn Kim Dung miêu tả trong bộ Tiếu ngạo giang hồ có bản doanh đặt trên đỉnh dãy núi Hằng Sơn cao chót vót.
Đây là kiếm phái được sáng lập bởi các ni cô, với Định Nhàn sư thái làm Chưởng môn. Hằng Sơn cũng là nơi trú ngụ của ni cô Nghi Lâm thánh thiện ôm mối tình câm với chàng lãng tử Lệnh Hồ Xung.
Hằng Sơn nằm ở tỉnh Sơn Tây, giáp với Nội Mông Cổ, thuộc vùng cao nguyên khô hạn, quanh năm nắng gió, cát bụi. Là nơi tiếp giáp giữa Trung Nguyên và biên ải năm xưa nên phong cảnh tại Hằng Sơn rất hùng vĩ, với những ngôi chùa được xây dựng ở vị trí hiểm trở, nhưng cũng có không ít dòng suối đẹp, với nước xanh trong vắt. Đỉnh cao nhất của Hằng Sơn là Thiên Phong Lĩnh khoảng trên 2016m.
Thời cổ, Hằng Sơn có tới 18 thắng cảnh, tuy nhiên ngày nay chỉ còn tồn tại Triều điện, Hội Tiên phủ, Cửu Thiên cung cùng Kim Long khẩu và Huyền Không Tự. Chùa Huyền Không cách cửa núi Hằng Sơn khoảng 3 km, được xây dựng khoảng cuối thời Bắc ngụy với kiến trúc đặc sắc. Chùa treo lơ lửng trên không và đã tồn tại hơn 1500 năm. Trong chùa dung hòa cả ba triết lý Phật, Nho, Đạo, kết tinh trong kiến trúc chùa.
5. Tung Sơn
Tọa lạc tại Đăng Phong, Trịnh Châu, Hà Nam, bên bờ sông Hoàng Hà, Tung Sơn từng được xem là “Đệ nhất danh sơn” của Trung Nguyên (Trung Hoa xưa). Nơi cao nhất của núi là đỉnh Tuấn Cực, cao 1.491,7m trên mực nước biển. Ngọn núi này từ lâu đã đón tiếp hơn 30 vị hoàng đế Trung Hoa và trên 150 văn nhân trứ danh đến thăm thú, thưởng ngoạn danh lam. Trong Kinh Thi cũng có một câu ca ngợi về vẻ đẹp hùng vĩ của Tung Sơn: “Tung cao duy nhạc, Tuấn Cực vu thiên” (Núi cao chỉ có Tung Sơn, Tuấn Cực so với trời)”.
Tung sơn là ngọn núi thứ 5 trong Ngũ nhạc danh sơn, và cũng là bản doanh của giáo phái Trung nhạc Tung sơn trong bộ tiểu thuyết “Tiếu ngạo giang hồ”. Chưởng môn của phái Tung sơn là Tả Lãnh Thiền, đồng thời cũng được tôn là minh chủ của Ngũ nhạc kiếm phái. Ở gần cuối tiểu thuyết, Tả Lãnh Thiền thực hiện âm mưu thống nhất Ngũ Nhạc kiếm phái thành một phái duy nhất gọi là Ngũ Nhạc phái, nhưng lại bị Nhạc Bất Quần âm thầm đoạt chức vị chưởng môn.
Đến Tung Sơn, ngoài việc đến thăm di tích cổ, như miếu Trung Nhạc được xây dựng từ thời nhà Tần – một trong những công trình kiến trúc cổ đại nhất Trung Quốc, du khách còn được trải nghiệm cảm giác mạo hiểm khó quên khi dạo bước trên cây cầu treo lơ lửng bắt qua đỉnh núi, hay những con đường cheo leo trên vách đá.
Đa số trong chúng ta không ai mà không biết đến những pho truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Từ thủa còn đi học trong những năm 60 – 70 , những bộ truyện kiếm hiệp như “Cô Gái Đồ Long”, “Anh Hùng Xạ Điêu”, “Thiên Long Bát Bộ”, “Tiếu Ngạo Giang Hồ” hay “Lộc Đỉnh ký” đã từng làm chúng ta say mê và hồi hộp qua từng trang truyện. Để biết rõ Kim Dung là ai, sau đây là một phần tiểu sử của Kim Dung:
Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh ngày 6 tháng 2 năm 1924 tại trấn Viên Hoa, huyện Hải Ninh, địa cấp thị Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, trong một gia tộc khoa bảng danh giá. Ông cố là Tra Thận Hành, nhà thơ nổi tiếng đời nhà Thanh, ông nội là Tra Văn Thanh làm tri huyện Đan Dương ở tỉnh Giang Tô. Tra Văn Thanh về sau từ chức, đến đời con là Tra Xu Khanh bắt đầu sa sút; Tra Xu Khanh theo nghề buôn, sau sinh sáu đứa con, Kim Dung là con thứ hai.
Thuở nhỏ Kim Dung thông minh, lanh lợi, nghịch nhưng không đến nỗi quậy phá. Ông yêu thiên nhiên, thích nghe kể truyện thần thoại, truyền thuyết, nhất là về những ngọn triều trên sông Tiền Đường. Đặc biệt ông rất mê đọc sách. Dòng họ Kim Dung có một nhà để sách gọi là “Tra thị tàng thư” nổi tiếng khắp vùng Chiết Tây, chứa rất nhiều sách cổ, những cuốn sách này làm bạn với ông từ rất bé.
Sáu tuổi, ông vào học tiểu học ở quê Hải Ninh. Ông rất chăm học, lại thêm mê đọc sách nên trở thành một học sinh giỏi của lớp. Thầy dạy văn cho ông lúc bé có Trần Vị Đông, là người rất thương yêu và tin tưởng Kim Dung, đă cùng ông biên tập tờ báo lớp. Một số bài làm văn của Kim Dung, nhờ sự giới thiệu của thầy Đông đă được đăng lên Đông Nam nhật báo, tờ báo nổi tiếng nhất Trung Quốc bấy giờ.
Năm lên tám tuổi, ông lần đầu đọc tiểu thuyết võ hiệp, khi đọc đến bộ truyện Hoàng Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo, cảm thấy rất say mê, từ đó thường sưu tầm tiểu thuyết thể loại này.
Năm 13 tuổi, xảy ra sự biến Lư Câu Kiều, Kim Dung được gửi đến học trường trung học Gia Hưng ở phía Đông tỉnh Chiết Giang. Tuy xa nhà nhưng cuộc sống của ông cũng không khác mấy, ngoài đi học vẫn chúi đầu đọc sách, và vẫn đứng đầu lớp. Một hôm nhân dịp về thăm nhà, ông khoe gia đình cuốn sách Dành cho người thi vào sơ trung, một cuốn cẩm nang luyện thi, có thể coi là cuốn sách đầu tiên của ông, viết năm 15 tuổi và được nhà sách chính quy xuất bản. Đến khi lên bậc Cao trung, Kim Dung lại soạn Hướng dẫn thi vào cao trung. Hai cuốn sách in ra bán rất chạy, đem lại cho ông khoảng nhuận bút hậu hĩnh.
Thiên Long Bát Bộ
Năm 16 tuổi, ông viết truyện trào phúng Cuộc du hành của Alice có ý châm biếm ngài chủ nhiệm ban huấn đạo, người này tức giận, liền ép hiệu trưởng phải đuổi học ông. Cuộc du hành của Alice tuy đem lại tai hại, nhưng đă cho thấy tài tưởng tượng, cũng như tinh thần phản kháng của Kim Dung, mà sau này thể hiện rất rõ trên các tác phẩm. Ông lại chuyển đến học trường Cù Châu. Tại trường này có những quy định rất bất công với học trò, học sinh không được quyền phê bình thầy giáo, nhưng thầy giáo có quyền lăng nhục học sinh. Năm thứ hai tại trường, ông viết bài Một sự ngông cuồng trẻ con đăng lên Đông Nam nhật báo. Bài báo làm chấn động dư luận trong trường, được giới học sinh tranh nhau đọc. Ban giám hiệu trường Cù Châu đành phải bãi bỏ những quy định nọ. Không những vậy, một ký giả của Đông Nam nhật báo là Trần Hướng Bình do hâm mộ tác giả bài báo, đã lặn lội tìm đến trường học để thỉnh giáo, mà không biết tác giả chỉ là một học sinh.
Năm 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, trường Cù Châu phải di dời, ban giám hiệu quyết định cho học sinh lớp cuối tốt nghiệp sớm để bớt đi gánh nặng. Kim Dung cũng nằm trong số đó. Sau ông thi vào học Luật quốc tế tại học viện chính trị Trung ương ở Trùng Khánh. Thi đậu, nhưng để đến được trường phải trải qua nhiều ngày đi bộ. Tại học viện chính trị Trung Ương, Kim Dung vẫn học rất giỏi, cuối năm nhất ông được tặng phần thưởng cho sinh viên xuất sắc nhất. Thời kỳ này, ông ngoài tham gia viết bình luận chính trị trên các báo, còn bắt tay vào làm cuốn Anh – Hán tự điển và dịch một phần Kinh Thi sang tiếng Anh, hai công trình này về sau dở dang. Ông học lên năm thứ ba thì tại trường bắt đầu nổi lên các cuộc bạo loạn chính trị. Có lần viết thư tố cáo một vụ bê bối trong trường, Kim Dung lần thứ hai trong đời bị đuổi học, năm 19 tuổi. Sau ông xin làm việc tại Thư viện trung ương. Ở chung với sách, tri thức nâng cao lên rất nhiều. Ngoài đọc sách sử học, khoa học và những tiểu thuyết võ hiệp đương thời, ông còn đọc những cuốn như Ivanhoe của Walter Scott, Ba người lính ngự lâm, Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas (cha), những truyện này đã ảnh hưởng đến văn phong của ông. Tại đây ông bắt đầu nảy sinh ý định sáng tác truyện võ hiệp. Ông cũng sáng lập ra một tờ báo lấy tên Thái Bình dương tạp chí, nhưng chỉ ra được một số đầu, số thứ 2 nhà xuất bản không chịu in, tờ báo đầu tiên của ông xem như thất bại.
Năm 1944, ông đến làm việc cho một nông trường ở Tương Tây. Nơi này rất tịch mịch hẻo lánh, đến năm 1946, không chịu nổi ông xin thôi việc, người chủ nông trường không cản được, tiễn ông bằng một bữa thịnh soạn. Mùa hạ năm đó, ông về lại quê cũ ở Hải Ninh, cha mẹ nghe tin ông bị đuổi học, rất buồn. Điều ấy khiến ông quyết tâm ra đi lập nghiệp.
Năm 1946 từ biệt gia đình, ông về Hàng Châu làm phóng viên cho tờ Đông Nam nhật báo theo lời giới thiệu của Trần Hướng Bình, người ngày xưa đã tìm đến trường ông. Ông làm việc rất tốt, tỏ ra có tài thiên phú về viết báo. Năm sau, theo lời mời của tạp chí Thời dữ triều, ông thôi việc ở Đông Nam nhật báo, sang Thượng Hải tiếp tục nghề viết hay dịch thuật từ máy Radio. Chẳng bao lâu ông lại rời toà soạn Thời dữ triều, xin vào làm phiên dịch của tờ Đại công báo. Lúc này anh trai của Kim Dung là Tra Lương Giám đang làm giáo sư ở học viện Pháp lý thuộc đại học Đông Ngô gần đó, ông liền xin vào học tiếp về luật quốc tế.
Năm 1948, tờ Đại công báo ra phụ bản tại Hồng Kông, ông được cử sang làm việc ở đó, dịch tin quốc tế. Trước khi ra đi vài ngày, ông chạy đến nhà họ Đỗ để ngỏ lời cầu hôn cô con gái 18 tuổi, được chấp nhận.
Hôn lễ tổ chức trang trọng tại Thượng Hải, người vợ đầu tiên của ông rất xinh đẹp.
*Tuyết sơn phi hồ
Năm 1950, trong cuộc Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, gia đình ông bị quy thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố, từ đó ông mất liên lạc với gia đ́nh. Trong lúc này, vợ ông không chịu nổi cuộc sống ở Hồng Kông, trở về gia đình bên mẹ, không chịu về nhà chồng nữa.
Năm 1951 họ quyết định ly hôn.
Năm 1952, ông sang làm việc cho tờ Tân văn báo, phụ trách mục Chuyện trà buổi chiều, chuyên mục này giúp ông phát huy khả năng viết văn của mình hơn, ông rất thích, một phần vì khán giả cũng rất thích. Ông còn viết phê bình điện ảnh. Từ đó dần đi sâu vào lĩnh vực này.
Từ 1953, rời Tân Văn báo, bắt tay vào viết một số kịch bản phim như Lan hoa hoa, Tuyệt đại giai nhân, Tam luyến… dưới bút danh Lâm Hoan. Những kịch bản này dựng lên được các diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ như Hạ Mộng, Thạch Tuệ, Trần Tứ Tứ… diễn xuất. Được nhiều thành công đáng kể.
Từ khi mới vào làm cho Tân Văn Báo, ông quen thân với La Phù và Lương Vũ Sinh. Đến năm 1955, được hai người ủng hộ và giúp đỡ, ông viết truyện võ hiệp đầu tay là Thư kiếm ân cừu lục, đăng hàng ngày trên Hương Cảng tân báo, bút danh Kim Dung cũng xuất hiện từ đây. Hai chữ “Kim Dung” là chiết tự từ chữ “Dung”, tên thật của ông, nghĩa là “cái chuông lớn”. Thư kiếm ân cừu lục ra đời, tên Kim Dung được chú ý đến, dần dần, ông cùng Lương Vũ Sinh được xem như hai người khai tông ra Tân phái của tiểu thuyết võ hiệp. Ông viết tiếp bộ Bích huyết kiếm được hoan nghênh nhiệt liệt, từ đó chuyên tâm vào viết tiểu thuyết võ hiệp và làm báo, không hoạt động điện ảnh nữa.
Năm 1959, cùng với bạn học phổ thông Trầm Bảo Tân, ông lập ra Minh Báo. Ông vừa viết tiểu thuyết, vừa viết các bài xă luận. Qua những bài xă luận của ông, Minh Báo càng ngày được biết đến và là một trong những tờ báo được đánh giá cao nhất. Không như một số tờ báo do ông sáng lập khác, Minh Báo theo ông đến khi kết thúc sự nghiệp.
Năm 1972 sau khi viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng, ông đă chính thức nghỉ hưu và dành những năm sau đó biên tập, chỉnh sửa các tác phẩm văn học của mình. Lần hoàn chỉnh đầu tiên là vào năm 1979. Lúc đó, các tiểu thuyết võ hiệp của ông đă được nhiều độc giả biết điến. Các tác phẩm đã được chuyển thể thành phim truyền hình. Năm sau, ông tham gia giới chính trị Hồng Kông. Ông là thành viên của ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản Hồng Kông. Ông cũng là thành viên của Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao của Hồng Kông về chính phủ Trung Quốc. Vào tháng 10 năm 1976, sau cái chết đột ngột của con trai trưởng của mình, Kim Dung đã quyết định tìm hiểu nhiều vào các triết lý của tôn giáo. Kết quả là ông tự mình quy y Phật giáo hai năm sau đó.
Năm 1993, ông thôi làm chức chủ bút, bán tất cả các cổ phần trong Minh Báo.
Năm 2006, ông xuất bản cuốn tản văn đầu tiên.
Tác phẩm
Tác phẩm dựa Kim Dung Có thể một phần vì muốn hoàn thiện các khe hở tình tiết trong truyện Kim Dung, phần vì muốn phát triển rộng thêm các chi tiết truyện, phần là ăn theo, rất nhiều người đã viết truyện dựa theo cốt, theo nhân vật trong truyện Kim Dung mà tạo dựng nhiều tác phẩm khác, thậm chí dựng thành phim, gọi chung là các tác phẩm dựa Kim Dung.
- Bẻ kiếm bên trời
- Cự Linh Thần Chưởng
- Độc Cô Quái Khách
- Đơn kiếm diệt quần ma
- Hắc Thánh Thần Tiêu
- Hậu Anh Hùng Xạ Điêu
- Hậu Cô Gái Đồ Long (Ỷ thiên Đồ long Ký hậu truyện)
- Huyết Mỹ Nhân
- Loạn Võ Công Ký
- Ma Nữ Đa Tình
- Song Nữ Hiệp Hồng Y
- Thái A Kiếm
- Thạch Phá Thiên (Hậu Hiệp khách hành)
- Tiếng Đàn Ma
- Tiếu Ngạo Giang Hồ Hậu Ký
- Tiểu Tà Thần
- Tục Thái A Kiếm
- Tục Tiểu Tà Thần
- Võ Lâm Ngũ Bá (Anh Hùng Xạ Điêu tiền truyện)
Mới nhất từ Nguyễn Ngọc Quang
- Vén Màn Cửa Sổ Tâm Hồn (Tôi Đi Mổ Cataract) - Gió Đồng Nội
- “tình yêu không biên giới chủng tộc” một chuyện tình thật đẹp “hữu nghị Nhật – Trung”
- Chút Tâm Tình Với Pulau Bidong - Nguyễn Văn Tới
- Who is Mark Pieloch? What is the profession of Mark Pieloch?
- Những Chữ KHÓ Trong Cuộc Đời Chúng Ta