Anh Đi... Hạ Buồn
Mưa rơi ướt cánh phượng tàn
Tả tơi trong gió ngút ngàn người đi
Ve không cất tiếng biệt ly
Nỉ non như thuở xuân thì biết yêu .
Dưới trời mưa lạnh tiêu điều
Còn đâu rực rở ráng chiều lung linh
Người đi để lại dấu tình
Một đời thổn thức...Anh Đi... Hạ Buồn
Mưa rơi ướt cánh phượng tàn
Tả tơi trong gió ngút ngàn người đi
Ve không cất tiếng biệt ly
Nỉ non như thuở xuân thì biết yêu .
Dưới trời mưa lạnh tiêu điều
Còn đâu rực rở ráng chiều lung linh
Người đi để lại dấu tình
Một đời thổn thức bóng hình đã xa .
Chỉ còn mưa lạnh nhạt nhòa
Lời thương chưa nói mắt đà rưng rưng
Thôi thì thôi nhé thôi đừng
Nói lời chia cách nghìn trùng nhớ nhau .
Biệt ly gió thoảng qua mau
Lỡ yêu thì biết làm sao hỡi người ?
Hãy như ông Tạo đổi dời
Thu vàng lại đến quên rồi hạ xưa .
Chút tiếc nuối , chút mong mưa
Một chiều em đến gió đưa em về
Đường mưa ướt lạnh tái tê
Một mình cHân bước cơn mê lụi tàn .
Ngọc Quyên
8-2023
Show more







CÁI TÔI...
- Bỏ dấu ^ thì là Toi
- Thêm dấu sắc là Tối
- Thêm dấu huyền là Tồi
- Thêm dấu nặng là Tội
Bởi thế nên:
- Nếu ta không biết mình là ai thì Toi.
- Nếu ta không chịu hạ mình học hỏi thì Tối.
- Nếu ta không giúp người lúc khó khăn thì Tồi.
- Nếu ta không làm điều đúng đắn thì Tội lỗi
Kiểu gì cũng phải quản lý thật tốt CÁI TÔI của mình rồi mọi sự sẽ tự khắc trở nên đơn giản hơn rất nhiều.
-Sưu tầm
by ⭐️TRẦN PHƯƠNG TUYỀN (Moderator)














Trái đậu ngọt, thơm mùi tỏi phi lẫn rau quế, ăn với chao trắng hoặc chấm nước mắm ớt không pha rất ngon.

Tiếng Cười, Tiếng Chửi Và Tiếng Nói
Tết, có đứa em bà con ở Nhật đã nhiều năm về và lên nhà chơi, tôi hỏi hắn về những khác biệt văn hóa giữa hai nước. Hắn kể nhiều, nhưng tôi muốn ghi lại chi tiết này, là người Nhật không chửi nhau.
Hắn nói, điều...Tiếng Cười, Tiếng Chửi Và Tiếng Nói
Tết, có đứa em bà con ở Nhật đã nhiều năm về và lên nhà chơi, tôi hỏi hắn về những khác biệt văn hóa giữa hai nước. Hắn kể nhiều, nhưng tôi muốn ghi lại chi tiết này, là người Nhật không chửi nhau.
Hắn nói, điều đầu tiên được dạy khi đến Nhật là “không làm phiền người khác”, tuyệt đối không. Nhưng người Việt mình thì vốn quen với phong tục làng xã, thích tụ tập quây quần và dường như không thể sống một mình như người Nhật, nên luôn tụ lại, ăn nhậu, hát hò, chuyện trò rầm trời. Mỗi khi như thế, một ông chủ hay hàng xóm người Nhật, họ sẽ chỉ nhắc nhở một lần “các bạn nhỏ lại một chút, đừng làm ồn”, lần sau thì báo cảnh sát luôn. Họ không chửi, việc mâu thuẫn, vi phạm, bất hòa sẽ luôn được nhờ đến cảnh sát và tòa án, trong trường hợp chưa có sự can thiệp của các cơ quan ấy thì chuyện chửi nhau như Việt Nam cũng không bao giờ xảy ra.
Hình ảnh hai người đứng bên bờ rào chửi sang hay la hét trên phố mỗi lần có va chạm của người Việt mình là chuyện hoàn toàn xa lạ và quái đản đối với người Nhật.
Tôi nghĩ về cái chửi của người Việt mình. Phải chăng, chính vì trong suốt chiều dài lịch sử, cho đến hôm nay, chúng ta chưa từng có một bộ máy nhà nước đủ trách nhiệm và công tâm để người dân trông cậy, nên việc “tự giải quyết” đã trở thành phương cách chủ đạo trong đời sống xã hội, mà ở đó “chửi” là một lựa chọn dễ nhất, và lắm khi hiệu quả?
Trong khi không đòi được công bằng nhờ một trọng tài có trách nhiệm và công tâm, thì tiếng chửi sẽ giúp sát thương và hủy hoại đối phương bằng ngôn từ. Điều ấy mang lại cho họ chút thỏa mãn vì “công lý đã được thực thi”.
Show more

Người Việt không có phòng riêng. Những ngôi nhà “cổ truyền” của người Việt là 3 gian thông với gian giữa để thờ và 2 đầu...Tiếng Cười, Tiếng Chửi Và Tiếng Nói
Người Việt không có phòng riêng. Những ngôi nhà “cổ truyền” của người Việt là 3 gian thông với gian giữa để thờ và 2 đầu kê giường ngủ. Căn buồng thì thường để cất lúa ngô khoai sắn và cất giữ vài thứ tài sản nghèo nàn nào đó, chứ không phải một không gian cá nhân. Nếu nhà đông người mà có con gái lớn thì có thể sẽ được dành cho một cái chái nhà (đầu hồi), vừa đủ kê một chiếc giường nhỏ. Nói chung, ngôi nhà của người Việt là một không gian công cộng.
Công cộng không chỉ là đối với người trong nhà, mà còn là đối với hàng xóm. Người Việt hay đi tắt, cứ sát nhà nhau là mở lối (lỗ thủng) để đi qua, cho tiện! Vào nhà nhau, dù bằng đường tắt hay cổng chính thì cũng vẫn “tự nhiên như ruồi”. Người ta tới nhà nhau chơi mà không có thói quen hẹn trước, cứ thể hồn nhiên mà tới.
Ngày nay, dù đã “hiện đại hóa” nhưng thói quen đi thẳng vào phòng ngủ, ngồi lên giường, mở tủ lạnh “kiểm tra” vẫn được coi như một biểu hiện của sự thân tình, gần gũi. Khi không có ý niệm về sự riêng tư và đời sống cá nhân thì việc vào ra như thế phải trở thành lẽ thường. Nếu trong làng mà có một gia đình nào đó “kín cổng cao tường”, ít giao du thì rất dễ mang tiếng là “sống không biết ai”, “không có tình làng nghĩa xóm”…
Người Việt ở nông thôn cách đây vài chục năm thậm chí còn không có nhà tắm. Người ta tắm lộ thiên ngay bên cạnh giếng khơi bằng cách đứng mà dội nước ào ào. Phụ nữ muốn tắm thì phải đợi trời tối. Nghĩ đến những ngày mùa đông rét cóng, cảnh đàn bà con gái dội nước lạnh vào người giữa trời gió bấc hun hút mà vừa thương vừa giận. Đôi khi chúng ta không thể hiểu nổi, tại sao việc chôn 4 cây cọc tre và quây miếng cót nứa cho thành một cái “nhà tắm” lại khó khăn tới mức trải suốt hàng nhiều trăm năm lịch sử mà người Việt không thể làm nổi!
Có lẽ không phải vì không thể làm nổi cái việc chia phòng hay quây cái nhà tắm, mà là người ta không muốn làm, hay không cần làm. Vì tự trong sâu thẳm, họ không có nhu cầu riêng tư. Ngôi nhà là một không gian công cộng, đình làng cũng là một không gian công cộng, họ luôn phải thuộc về tập thể, biến mất trong tập thể, nhạt nhòa và tan loãng. Chính những khó khăn trong đời sống vật chất một phần đã giữ chặt họ trong nếp sống quảng trường ấy, vĩnh viễn biến họ trở thành một phần của đám đông muôn đời.
Sự bất tiện kéo dài đến nghìn năm thì thành “văn hóa”, thành tính cách và lối sống. Dần dần người ta mất luôn nhu cầu độc lập. Người Việt không thể sống một mình. Những kẻ một mình là loại lập dị và thường gây nên nỗi thương cảm, nếu không phải là sự dè bỉu. Người ta phải quây lại với nhau, trở thành bầy đàn.
Không có sự độc lập, hay nói theo ngôn ngữ văn chương là “sự cô đơn”, thì không có sáng tạo. Nếu nhân cách là một phân số, thì người Việt sống bằng một tử số rất bé trên một mẫu số cộng đồng lớn lao. Giá trị của phân số ấy vì thế mà trở nên nhỏ tí, tan biến và gần như chạm đến mức cực tiểu. Đời sống tập thể ồn ào với ăn, nói, hát, chung đụng đã trở nên một nhu cầu, một thứ bản năng, trở thành niềm vui và thước đo của hạnh phúc.
Oái oăm thay, như những con nhím mùa đông, người ta vì nỗi thống khổ của rét mướt mà sáp lại, nhưng luôn bị những chiếc lông nhọn hoắt châm chích vào nhau. Đó là một bi kịch của sự sung sướng được san sẻ cộng gộp luôn nỗi khó chịu phiền hà đau nhức. Người Việt ở trong tình thế lưỡng nan ấy, họ vừa không thể xa nhau nhưng lại cũng vừa không thể rúc hẳn vào nhau.
Bi kịch chồng lên bi kịch. Cái tôi là một bản năng tiền sử, nó luôn có nhu cầu cần được bảo vệ và cần được chứng tỏ. Vì thế, dù khát vọng tụ tập lớn tới đâu, nó vẫn luôn âm thầm một mãnh lực chống đối và tị hiềm. Người Việt, vì thế, “ở không yên ổn, ngồi không vững vàng”. Trong một tập thể khổng lồ không có cơ may xé lẻ, nhìn từ bên ngoài là “đoàn kết”, là “lớn mạnh” nhưng bước chân vào trong thì đầy rẫy mâu thuẫn với những tiếng nổ lách tách làm nứt ra các vết rạn lớn nhỏ. Những tiếng nổ lục đục ấy diễn ra mọi lúc, mọi nơi, trong suốt trường kỳ lịch sử. Trong khi vừa sung sướng vì sà vào nhau, nỗi bất mãn cũng đồng thời nhen nhúm lên. Cứ như thế, người Việt bị lưu đày trong lối sống của mình.
Tôi hỏi đứa em về đời sống tình cảm của người Nhật, hắn nói: “Em đã rời công ty cũ hơn 2 năm, nhưng đến nay họ vẫn thường gọi điện thoại hỏi thăm và hay căn dặn mình nhiều thứ, vì sợ mình gặp phải những điều bất lợi, không may”. Hắn nói thêm, nhưng công việc thì ra công việc. Nếu không hiểu thì thấy họ như “người máy”, đúng là đúng, sai là sai, không bao giờ có chuyện vừa đúng vừa sai, du di, chín bỏ làm mười như người Việt mình. Đi làm cho họ hay với họ, nếu mình vi phạm, dù thân thiết và chỉ là đối với những nguyên tắc nhỏ nhặt nhất, thì họ vẫn rạch ròi tới mức khiến mình bị “chấn động văn hóa”, vì người Việt mình trong những tình huống như thế sẽ lựa chọn xuề xoa “một trăm cái lý không bằng một tý cái tình”.
Cái tình của người Việt, vì thế, có lẽ là thứ tình nhiều lúc vì cả nể, vì ngại mất lòng, nó tù mù và luôn tiềm ẩn nguy cơ “cạch mặt”. Trên một căn bản đạo lý lớn, là “luân lý xã hội” hay “ý thức công lợi” như Cụ Phan Châu Trinh nói, thì các giá trị từ tình cảm đến tự do mới có đất để nảy mầm và lớn dậy. Chừng nào mà sự gắn kết mới chỉ dừng lại ở nhu cầu vị kỷ, cả vị kỷ vì tinh thần – không chịu nổi nỗi cô đơn, thì khi đó cái “tình làng nghĩa xóm” của người Việt còn là một thứ “văn minh” tiềm ẩn những nguy cơ chia rẽ, luôn luôn.
Trưởng thành, trước hết là một nghĩa vụ cá nhân đối với chính mình. Khi chưa có được một nền tảng quản trị tiến bộ với tinh thần thượng tôn pháp luật thì mỗi người phải dám sống cô đơn, dám đi một mình trên con đường không có tha nhân. Lúc ấy, những năng lực ẩn tàng sẽ phát lộ, tình yêu con người vô tư và vô vị lợi sẽ được khởi động, một lý tưởng lớn về nhân quần sẽ mọc ra.
Tiếng chửi là đại diện cho sự bất lực, tiếng cười là hình ảnh của nỗi tự an ngụy tín, chúng đôi khi cũng cần được dùng đến trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định, nhưng nếu kéo dài và trở thành “chủ âm” của cả một cộng đồng trong suốt hàng trăm năm thì khi đó, nó đã trở nên một thứ bệnh lý tinh thần.
Trong ba “tiếng”, tiếng cười, tiếng chửi và tiếng nói, thì vế sau cùng phải là một lựa chọn chủ đạo. Khi nào mà người ta lấy tiếng nói là trung tâm của đời sống, để giao tiếp, đối thoại, tranh biện và tự vấn thì khi đó các giá trị mới sẽ có cơ may được kiến tạo một cách có hệ thống.
6-2023
Thái Hạo Show more 6 months ago










www.youtube.com/watch Giai Thoại Về Nhạc Phẩm LÀNG TÔi
Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn quanh êm xuôi về Nam …
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau
Bóng tre ru bên mấy hàng cau đồng quê mơ màng!
Năm ấy, đoàn hát Kim...www.youtube.com/watch Giai Thoại Về Nhạc Phẩm LÀNG TÔi
Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn quanh êm xuôi về Nam …
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau
Bóng tre ru bên mấy hàng cau đồng quê mơ màng!
Năm ấy, đoàn hát Kim Chung lần đầu tiên có kế hoạch thực hiện bộ phim nhựa có tiếng nói (âm thanh). Để cho bộ phim thêm phần hấp dẫn, trang trọng và gây ấn tượng với công chúng trong buổi chiếu ra mắt, toàn bộ êkíp điều hành, bầu sô, đạo diễn … đồng ý việc tổ chức một cuộc thi sáng tác bài hát làm nền cho phim với giải thưởng lớn cho tác phẩm được chọn. Đây cũng là bộ phim nhựa có âm thanh đầu tiên của ngành điện ảnh Việt Nam vào thời ấy. (1952)
Cuộc thi được tổ chức rộng rãi trong công chúng, không phân biệt tuổi tác, chuyên nghiệp hay nghiệp dư…đã có nhiều nhạc sĩ tên tuổi cùng một số những người mới thành danh trong làng ca nhạc giải trí thời đó tham gia. Đề tài sáng tác là quê hương và con người Việt Nam.
Sau nhiều lần chọn lựa rất công bằng và vô tư, ban giám khảo đã mất khá nhiều thời gian bàn bạc, nhận xét rồi cân nhắc để đưa ra một sự chọn lựa chính xác, dù biết đó là một quyết định rất khó khăn. Cuối cùng, Ban tổ chức đã công bố, tác phẩm được chọn để trao giải là bài hát “Làng Tôi” của một tác giả vô danh tiểu tốt, cái tên nghe chừng như rất xa lạ trong làng ca nhạc Việt thời ấy đó chính là nhạc sĩ Chung Quân.
Bản nhạc Làng Tôi được chọn vì nó mang hơi thở của một vùng quê yên bình, lời lẽ cũng mộc mạc, dung dị thấm đẫm tình cảm của người dân Việt Nam, cho dù năm đó tác giả bài Làng Quê mới chỉ vừa 16 tuổi. Nhạc phẩm Làng Quê và cái tên Chung Quân ra đời từ dạo ấy. Nhờ giai điệu du dương, thắm thiết tình người tình quê của Làng Tôi cứ mãi bay xa mà cái tên nhạc sĩ Chung Quân trở nên nổi tiếng và đi vào lòng người.
Show more
Nhiều nhạc sĩ tên tuổi và giới văn nghệ thời đó có hơi ngỡ ngàng, nhưng mọi người đều công nhận bản nhạc “Làng Tôi” xứng đáng...Giai Thoại Về Nhạc Phẩm LÀNG TÔi
Nhiều nhạc sĩ tên tuổi và giới văn nghệ thời đó có hơi ngỡ ngàng, nhưng mọi người đều công nhận bản nhạc “Làng Tôi” xứng đáng được nhận giải thưởng vinh dự đó.
Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn … người bốn phương.
Bản Làng tôi đã giành được giải của công ty điện ảnh, đoàn cải lương Kim Chung ở Hà Nội để làm bản nhạc nền cho phim Kiếp Hoa.
Hành trình về phương Nam
Thế rồi, thế sự đổi thay theo mệnh nước nổi trôi. Năm 1954, Chung Quân cùng gia đình di cư vào Nam, định cư ở vùng Khánh Hội. Nhờ đã từng học sư phạm chuyên ngành về nhạc và danh tiếng của Làng Tôi, Chung Quân được Bộ Quốc gia Giáo dục của Đệ Nhất Cộng Hòa ưu đãi, cho dạy môn nhạc tại hai trường trung học Chu Văn An, và Nguyễn Trãi. Thời gian giảng dạy ở trường Nguyễn Trãi, Chung Quân là thầy dạy nhạc của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng sau này như Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Đức Huy, Nam Lộc… Cũng khoảng thời gian 1955 – 1956, ông có soạn bản hợp xướng Sông Bến Hải, theo một vài ý kiến thì đó là một trường ca có giá trị nghệ thuật, viết về cuộc di cư năm 1954, nhưng về sau không thấy phổ biến rộng rãi.
Trường Nguyễn Trãi năm ấy có cậu học trò nghèo nên buổi trưa thường không về nhà mà nghỉ lại ở trường cùng bữa ăn trưa là gói xôi mà mẹ cậu đã mua cho cậu đem theo từ sáng sớm. Thay vì nghỉ trưa, cậu học trò lại tha thẩn trong trường để rồi lắng nghe được câu chuyện tranh cãi giữa hai người thầy.
Trong một căn phòng, tiếng của vị giáo sư Hà Đạo Hạnh (cử nhân toán) đang ầm ĩ nói với nhạc sĩ Chung Quân
– Trình độ học vấn của anh chỉ đáng là học trò của tôi thôi. Việc anh được dạy chung với những giáo sư như chúng tôi là một vinh dự cho anh, anh có biết điều đó không?
– Nhưng thưa giáo sư, nếu hỏi công chúng có biết nhạc sĩ Chung Quân là ai không? Thì chắc chắn nhiều người biết đó là tác giả của bản nhạc Làng Tôi. Còn như hỏi họ, có biết giáo sư Hà Đạo Hạnh là ai không? Tôi tin người ta không mấy người biết.
Câu chuyện đang đến hồi hấp dẫn, và cậu học trò cố áp sát tai để chờ nghe tiếp xem Giáo sư Hà Đạo hạnh trả lời ra sao, bỗng từ phía sau, một bàn tay lạnh lùng của thầy giám thị véo vào tai cậu học trò kéo đi chỗ khác! Và vì thế mà câu chuyện đành dở dang ở đây.
Rồi thời gian trôi qua, tưởng mọi chuyện đã rơi vào quên lãng. Nhưng không, nhạc sĩ Chung Quân đã không chịu bỏ qua dễ dàng như vậy, ông nhất định phải đòi lại món nợ danh dự này. Không công danh thà nát vói cỏ cây.
Nhạc sĩ Chung Quân sau đó đã quyết chí tiếp tục con đường kinh sử, ông ghi danh theo học và hoàn thành tú tài toàn phần, sau đó, ông lại tiếp tục việc học để đạt cho kỳ được mảnh bằng Đại học. Cuối cùng, ông đã tốt nghiệp cử nhân văn chương tại Anh quốc.
Đã mang tiếng đứng trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Nhớ lại câu chuyện ngày xưa, nhạc sĩ Chung Quân sao chép tất cả văn bằng mà mình có được gửi về cho giáo sư Hà Đạo Hạnh kèm theo lời nhắc nhở rất nhẹ nhàng lịch sự.
Thưa giáo sư Hà Đạo Hạnh, tất cả những gì mà giáo sư làm được thì Chung Quân tôi cũng đã làm được. Còn những gì Chung Quân tôi làm được thì giáo sư đã không làm được.
Viết tới đây tôi bỗng nhớ tới bài thơ của cụ Nguyễn Công Trứ có đoạn như sau:
Đã hẳn rằng ai nhục ai vinh
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm lên tiếng phi thường đâu đấy tỏ …
Nhạc sĩ Chung Quân đã đòi lại món nợ danh dự năm xưa một cách sòng phẳng bằng ý chí và lòng kiến nhẫn của chính ông. Rất lịch sự, tế nhị mà cũng rất quân tử. Không ồn ào, không gióng trống khua chiêng làm người khác phải ngượng ngùng, mất thể diện. Quả thật, chẳng ai biết trước được chuyện gì xảy ra trong cuộc đời.
Cậu học trò nghe lén câu chuyện ngày xưa sau này cũng theo cái nghề “gõ đầu trẻ”. Ông dạy Trung học đệ nhị cấp (cấp 3) ở miệt dưới tận tỉnh Bạc Liêu. Ngoài công việc dạy học, ông còn làm thêm nghề tay trái là viết báo, viết văn với bút hiệu Thái Phương. Sau biến cố 1975, ông nghỉ dạy và chuyển hẳn sang viết báo. Hiện nay, độc giả biết nhiều đến ông với bút danh nhà văn Đoàn Dự.
Đã có lần, nhà văn Đoàn Dự gặp lại thầy cũ là giáo sư Hà Đạo Hạnh và ông có hỏi vị giáo sư:
– Thưa Thầy, sao ngày đó thầy lại nặng lời với Nhạc sĩ Chung Quân thế ạ!
– Hồi ấy tôi có hơi nóng nảy nên đã quá lời.
Mọi chuyện rồi cũng qua đi, người xưa giờ cũng đã trở về cùng cát bụi, nhưng câu chuyện thì sẽ còn mãi như một bài học, một tấm gương về cách đối nhân xử thế của người xưa vậy.
Phan Văn Thanh - March 26, 2023 Show more 8 months ago








