Du lịch

Du lịch (182)

SẢN VẬT LẠNG SƠN

SẢN VẬT LẠNG SƠN (PHẦN 1)

Lạng Sơn là thành phố nằm phía Đông Bắc Việt Nam nổi tiếng với nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Du khách đến với Xứ Lạng không chỉ mãn nhãn với cảnh sắc hùng vĩ, thả hồn cùng sông núi, mà còn được thưởng thức nhiều sản vật mang đậm hương vị vùng núi rừng nơi đây.



Hồng không hạt Bảo Lâm

Hồng không hạt Bảo Lâm là loại cây ăn quả đặc sản của huyện Cao Lộc, nằm trong danh sách 50 loại trái cây đặc sản của Việt Nam.

Theo lời kể của những vị "già làng" trong vùng, lịch sử của những cây hồng không hạt đã có trên 100 năm, khi lớn lên họ đã thấy cây hồng hiện diện trong vườn, trên đồi nhà từ khi nào. Từ đó cây hồng không hạt đã gắn bó với biết bao thế hệ con người, gắn bó với đồng bào dân tộc Tày, Nùng trên vùng đất đồi núi biên giới nơi đây.

Hồng không hạt Bảo Lâm.

Giống hồng không hạt Bảo Lâm quả tròn, nhỏ có hình trái tim, không có hạt. Trên cuống có bốn tai nhỏ, khi hồng chín các tai hóa gỗ có màu nâu và hơi cong lên phía trên. Thân quả có 4 - 6 rãnh kéo dài từ cuống đến giữa quả làm nổi nhẹ 6 - 8 múi.

Quả chín vỏ có màu vàng đỏ hoặc màu vàng đất có ánh xanh lục, vỏ dày, nhẵn không bóng, thịt quả màu đỏ vàng da cam hoặc vàng đậm, mịn. Thịt quả ăn giòn, thơm, ngọt đậm, mặt cắt ngang của quả có hình hoa thị 8 - 12 cánh đều nhau, màu vàng đỏ đậm, hầu như không có đốm đen.

Giữa tháng 8 âm lịch là mùa hồng Bảo Lâm chín rộ được người dân thu hái bán tại vườn.

Người dân thường chọn cây hồng quả to đẹp, thân cây cao lớn chắc chắn rồi chặt lấy một đoạn rễ dài khoảng 30 - 40 cm, sau đó ươm cho đến khi nảy mầm. Với cách trồng này, khoảng 8 - 10 năm sau cây sẽ bói quả; nếu trồng bằng phương pháp ghép cành chỉ khoảng 3 - 5 năm. Giống cây hồng Lạng Sơn này chỉ hợp với thổ nhưỡng và khí hậu tại một số xã của huyện Cao Lộc.

Vùng núi giáp biên phía Trung Quốc cũng trồng hồng, nhưng chất lượng và vị ngon không thể bằng hồng Bảo Lâm. Theo kinh nghiệm của người dân, hồng Bảo Lâm tai quả nhỏ, hơi vểnh lên, rãnh sâu, còn hồng Trung Quốc tai quả cụp xuống, khi ăn không ngọt đậm đà.

Đào Mẫu Sơn

Sức hấp dẫn kỳ diệu của Mẫu Sơn thoạt tiên có lẽ bởi từ những cánh hoa dào độc đáo, đỏ thẩm huyền diệu và quyến rũ. Đào Mẫu Sơn nổi tiếng bởi vẻ đẹp rực rỡ của hoa, vị thơm ngon đậm đà của trái. Đào Mẫu Sơn cho hoa rực đỏ vào mùa xuân, cho quả ứng hồng, thơm ngon vào mùa hạ.

Đào Mẫu Sơn thường được trồng ở các khe núi sâu ở vùng núi Mẫu Sơn có vị ngọt thanh đậm chất núi rừng.
 
Mỗi năm, tại Mẫu Sơn chỉ có duy nhất một mùa đào và chỉ diễn ra trong vòng một tháng. Cũng vì lẽ đó mà những trái đào dường như đã trở thành một sản vật vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng riêng cho vùng đất này.

Có người lý giải rằng, do giống đào này trồng ở độ cao hàng nghìn mét so với mực nước biển, giữa khí lạnh và mây trời nên khi chín, quả có màu xanh nhạt, sáng trắng lên, ăn có vị ngọt lịm mà lại giòn tan, thịt đào đỏ au, có mùi thơm dịu dàng rất đặc trưng mà trái đào nơi khác không thể nào có được.

Quýt vàng Bắc Sơn

Quýt vàng Bắc Sơn được coi là cây xóa đói giảm nghèo cho các hộ đồng bào dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Dao, H’Mông nơi đây. Mùa quýt chín vào khoảng cuối tháng 11 dương lịch đến tháng 1 năm sau, cũng là thời điểm giáp Tết Âm lịch.

Quýt vàng Bắc Sơn
 
Cây quýt vàng Bắc Sơn là giống cây ăn quả bản đặc điểm tự nhiên là ưa ánh sáng, độ ẩm vừa phải, sinh trưởng tốt trong khe núi, thung lũng. Quýt nơi đây có hai lọai là quýt quả tròn và quýt quả dẹt.

Quýt quả tròn khi chín có màu vàng ươm, vỏ mỏng trung bình, dóc vỏ, ít sơ, vị ngọt đậm, thơm, trọng lượng quả từ 80 - 150g, khi bóc có lỗ rỗng ở giữa quả. Quýt quả dẹt có hai đầu lõm, hình hơi dẹt, khi chín có màu vàng ươm, vỏ mỏng trung bình, dễ bóc vỏ, có ít sơ, vị ngọt hơi chua, trọng lượng quả trung bình từ 100 - 150g. Quýt vàng Bắc Sơn của tỉnh Lạng Sơn là một trong những giống quýt có hương vị ngon nhất hiện nay.

Quýt Bắc Sơn có màu sắc hấp dẫn, vỏ căng mọng, bóng, ít hạt, vị ngọt đậm và hơi chua rất đặc trưng mà nơi khác không có được.

Theo người dân nơi đây, sở dĩ quýt vàng Bắc Sơn thơm ngon đặc biệt là bởi quýt vàng Bắc Sơn được trồng trên một vùng đất đai màu mở chủ yếu là đất feranit nâu đỏ hoặc màu vàng, ở độ cao 500 - 700m so với mực nước biển.

Sinh trưởng trong các thung lũng, các khe núi với khí hậu trong lành, mát mẻ nên cây sinh trưởng phát triển tốt đơm hoa kết quả tạo ra thứ quýt ngon với hương vị thanh mát hiếm có.

 
 

SẢN VẬT LẠNG SƠN (PHẦN 2)

 
Lạng Sơn là thành phố nằm phía Đông Bắc Việt Nam nổi tiếng với nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Du khách đến với Xứ Lạng không chỉ mãn nhãn với cảnh sắc hùng vĩ, thả hồn cùng sông núi, mà còn được thưởng thức nhiều sản vật mang đậm hương vị vùng núi rừng nơi đây.


Na Chi Lăng

Na Chi Lăng đúng như tên gọi là loại quả được trồng ở huyện Chi Lăng tỉnh Lạng Sơn. Giống na huộc loại ngon có tiếng mà chỉ người sành ăn mới biết đến vì món đặc sản này số lượng không có nhiều, chỉ có những vườn na ở huyện Chi Lăng mới cho quả na đạt hương vị thơm ngon nhất.


Na nơi đây có vị đặc trưng khác biệt hơn so với các vùng khác trồng bởi na Chi Lăng được trồng trên những núi đá vôi cao hơn 200m so với mặt nước biển. Điều đặc biệt, càng lên cao, cây na càng phát triển tươi tốt và cho quả rất to. Vào khoảng tháng 7 âm lịch là mùa thu hoạch na rộ nhất, na cho nhiều quả to, trung bình quả nặng từ 0,6 đến 0,8 kg.

Na Chi Lăng thịt trắng, ít hạt.

Quả na Chi Lăng được chia làm hai loại bao gồm na bở và na dai. Quả na dai thường sẽ để được lâu hơn, thịt trắng, ít hạt không dễ nát, ăn ngọt và quả dễ bóc. Khi ăn, dễ nhằn hạt khỏi múi và múi quả cũng dai ngon hơn. Trong khi đó loại na bở có vị ngọt tự nhiên nhưng vỏ na lại khó bóc hơn.

Mắt na Chi Lăng to và đều, chỉ cần nhẹ nhàng bóc vỏ, tách đôi quả sẽ thấy lớp cơm trắng ngần hiện ra ngon lành. Thêm nữa, múi na dày thịt trắng ngần xen lẫn hạt ít nhỏ màu đen nhánh có vị ngọt đậm, hương thơm quyến rũ khiến bất cứ thực khách nào đã ăn 1 lần là nhớ mãi không quên.

Na theo dây cáp treo, từ từ xuống núi.

Vì cây na chủ yếu được trồng trên vách núi đá cao vút, nên để thu hoạch những quả na từ trên đỉnh núi xuống, người dân nơi đây đã chế tạo ra những chiếc ròng rọc chạy từ trên cao xuống tận chân núi. Cứ thế na được vận chuyển nhanh chóng, an toàn xuống tận chân núi cách đỉnh hàng trăm mét thẳng đứng. Chính vì na được hái cách đặc biệt như thế, nên nhiều du khách ví von rằng lên Chi Lăng được ăn "na đu dây".

Hoa hồi Lạng Sơn

Người dân địa phương coi hoa hồi Lạng Sơn là báu vật, không chỉ gắn với kỷ niệm của mỗi người mà còn gắn liền với sự phát triển kinh tế, xây dựng quê hương. Nó đã trở thành chỉ dẫn địa lý, niềm tự hào đối với bạn bè quốc tế của mỗi người dân xứ Lạng.


Cây hồi Lạng Sơn vốn là một loại cây thân gỗ lâu năm cao từ 6 - 10m, xuất hiện nhiều ở vùng núi phía Bắc nước ta. Cây có đặc điểm là lá xanh quanh năm, mọc so le với nhau, có hình lưỡi mác, nhọn dần về đuôi lá.

Mặc dù gọi là “hoa hồi” nhưng đây thực chất là quả hồi. Do có hình dạng bông hoa nên người dân quen gọi như vậy. Ngoài ra hoa hồi còn được gọi bằng những cái tên khác như: đại hồi, tai vị, quả hồi, hoặc bát giác hồi hương. Khi non hoa hồi có màu xanh lục, khi về già đài hoa sẽ khô lại và có màu nâu sẫm quen thuộc.

Cây hồi thường cho hoa từ tháng 3 - 5, khoảng tháng 7 - 9 hoa hồi bắt đầu chín và người dân có thể thu hoạch. Thông thường một cây đại hồi có tuổi đời từ 5 năm trở lên mới được lấy quả, mỗi năm cũng chỉ được thu hoạch 2 vụ nên đây được xem là mặt hàng thuộc dạng “quý hiếm”.

Hình ảnh ngôi sao đặc trưng của hoa hồi khi đã chín
 
Hoa Hồi Lạng Sơn vẫn được đánh giá là sản phẩm có chất lượng tốt nhất, hàm lượng tinh dầu cao và đặc biệt trong tinh dầu không có độc tố.

Tinh dầu hồi là nguyên liệu quý sản xuất thuốc xoa bóp, tiêu hóa, chế biến những đồ mỹ phẩm, hương liệu. Thân cây hồi có những hương vị đặc trưng như hạt giống, được ăn như rau. Hạt thì được chế biến và sử dụng trọng một số sản phẩm thực phẩm. Bột hoa hồi rất thích hợp cho việc làm bánh và là gia vị chủ yếu cho nhiều công thức nấu ăn như thịt vịt, thịt lợn…

Mắc mật Lạng Sơn

Cây mắc mật thường được trồng chủ yếu ở Lạng Sơn, Cao Bằng và Quảng Ninh. Cả lá, quả và hạt mắc mật đều được sử dụng làm nguyên liệu và gia vị tẩm ướp trong các món ăn của người dân tộc Xứ Lạng.

Đặc biệt mắc mật có mùi tinh dầu thơm nên được dùng tạo hương vị trong các món ăn. Quả mắc mật có vị hơi chua ngọt, rất thanh, giàu hàm lượng vitamin C, có thể ăn tươi, sấy khô và dùng để nấu. Còn hạt mắc mật thì đem phơi khô, xay thành bột, dùng để làm gia vị.

Mắc mật Lạng Sơn - bí quyết tạo nên văn hóa ẩm thực Xứ Lạng.

Mắc mật là tên gọi theo tiếng Tày, Nùng của người dân nơi đây, có nghĩa là quả ngọt. Mắc mật thuộc loại cây gỗ nhỏ, thích hợp sinh trưởng ở nơi có điều kiện khí hậu ôn hoà. Cây ra hoa từ tháng 4 - 5, quả chín từ tháng 7 - 8. Khi chín quả mắc mật gần giống như quả hồng bì, có màu trắng vàng nhạt hoặc trắng trong, vỏ mịn, sẽ nhìn thấy các đường vân và chứa từ 1 đến 2 hạt. 

Quả mắc mật có vị hơi chua ngọt được dùng để nấu, kho trong một số món ăn của người Tày hoặc dùng để ngâm măng ớt. Trong đó, mắc mật ướp măng ớt là món nổi tiếng hơn cả. Theo đó, quả mắc mật được đem rửa sạch, để ráo nước; măng tươi thái lát mỏng và chuẩn bị một ít ớt tươi. Tất cả cho vào hũ thủy tinh, đổ ngập nước muối pha loãng. Sau khoảng nửa tháng, mắc mật lên men là sử dụng được.

Quả mắc mật có thể ăn tươi khi chín vàng hoặc làm gia vị để chế biến

Với món ăn độc đáo này, mắc mật ướp vẫn giữ được vị chua ngọt và hương thơm đặc trưng lại có thêm vị chua giòn của măng, vị cay thơm của ớt. Điểm đặc biệt của món ăn này là để bao lâu cũng không sợ hỏng, dùng để khai vị, pha nước chấm, nêm nếm vào các món kho hoặc xào...


 
 

SẢN VẬT LẠNG SƠN (PHẦN CUỐI)

 
Lạng Sơn là thành phố nằm phía Đông Bắc Việt Nam nổi tiếng với nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Du khách đến với Xứ Lạng không chỉ mãn nhãn với cảnh sắc hùng vĩ, thả hồn cùng sông núi, mà còn được thưởng thức nhiều sản vật mang đậm hương vị vùng núi rừng nơi đây.


Bánh ngải cứu nhân vừng

Bánh ngải cứu nhân vừng hay còn có tên gọi khác như: bánh ngải, bánh giầy ngải. Nguồn gốc của loại bánh này xuất phát từ các tỉnh miền núi phía Bắc như Lạng Sơn, Bắc Kạn, Cao Bằng. Ở Lạng Sơn, đây được xem là loại bánh đặc sản, có vị ngọt thơm, mềm dẻo. 

Bánh ngải là món ăn truyền thống của dân tộc miền núi trung du Bắc Bộ. Món ăn thơm ngon, thanh mát và đặc biệt tốt cho sức khỏe.

Bánh ngải thường được làm nhiều vào dịp Tết Thanh minh, những dịp mừng lúa mới. Giống như tên gọi của nó, nguyên liệu chính của bánh là lá cây ngải - loại cây thuốc và cũng là một loại thực phẩm quý, có vị đắng, có tác dụng tuyệt vời trong việc an thai, cầm máu, điều hòa khí huyết, giúp lưu thông máu,...

Nguyên liệu chính làm bánh từ lá ngải tốt cho sức khỏe.
 
Bánh ngải khá kén gạo và không phải bất cứ loại gạo nào cũng được chọn làm bánh. Theo chia sẻ của người dân địa phương ở đây bí quyết để có món bánh ngải thơm ngon gạo phải là nếp hương và không được lẫn gạo tẻ. Ngải cứu được chọn làm bánh phải là loại còn non và tươi.

Nhân bánh là thành phần chính tạo ra hương vị thơm ngon cho bánh. Nhân được làm từ vừng đen rang chín giã nhỏ trộn với đường phên đã được nấu chảy trên bếp nóng và để đặc lại.

Bánh hấp dẫn với màu xanh đẹp mắt.

Bánh ngải thực ra là món bánh chay, làm từ gạo nếp nhưng rất dễ ăn, ăn rất thanh mát và không bị ngấy. Qua nhiều công đoạn chế biến tỉ mỉ người ăn sẽ không cảm nhận được vị đắng và hắc của lá ngải, thay vào đó thấy mùi thơm dịu, dẻo của gạo nếp, vị ngọt của đường và mùi hương từ vừng mang hương vị khó quên của người dân xứ Lạng.

Bánh chưng đen

Bánh chưng đen (còn gọi là bánh chưng cẩm) được biết đến là một món bánh độc đáo của người dân tộc Tày ở huyện Bắc Sơn. Sở dĩ món bánh này được nhiều người yêu thích bởi nó có màu đen của tro rơm nếp, có vị thơm, mềm và ăn mát hơn so với bánh chưng truyền thống. Bởi vậy mà thực khách gần xa khi biết đến và thưởng thức bánh chưng đen đều rất thích thú, gọi là món bánh "hạ hỏa".

Bánh chưng đen là món ăn không thể thiếu trong dịp lễ, tết của người Tày.

Để có bánh chưng đen, khâu chuẩn bị rất công phu và không hề đơn giản, cần đến sự khéo léo, tinh tế. Tất cả các nguyên liệu làm bánh từ lúa nếp, thảo quả cho đến thịt lợn, đỗ xanh… đều đặc biệt vì mang đậm phong vị vùng cao.

Ngay từ tháng 10 âm lịch, người Tày đã rục rịch chuẩn bị những công đoạn đầu tiên để gói bánh chưng đen. Sau vụ gặt lúa mùa, người ta chọn những cọng rơm nếp to, vàng ươm đem về phơi khô rồi đốt thành tro. Sau đó, họ vò kỹ, rây lấy phần mịn nhất rồi trộn với gạo nếp thơm để tạo ra màu đen bóng.

Gạp nếp đạt “chuẩn” phải chọn giống ngon nhất, hạt to tròn đem vo thật kỹ, xóc với một chút muối tinh. Thịt lợn là thịt ba rọi thái mỏng ướp với gia vị, thảo quả khô giã nhỏ trộn cùng tiêu, ớt bột. Cuối cùng, nhân bánh là đỗ xanh trộn hành mỡ, hạt tiêu và được bọc trong lá dong rừng tươi.

Nét độc đáo của bánh chưng đen Lạng Sơn là nhờ vào những nguyên liệu đặc trưng.

Bánh chưng đen được gọi là "đạt chuẩn" phải tròn trịa, đậm đà, khi bóc ra đường lạt gói phải hằn đều lên thân bánh.

Khi thưởng thức, người dân lấy chính sợi lạt quấn quanh thân bánh để cắt thành từng khoanh. Nhìn từ phía ngoài, bánh dẻo quánh, nhân đỗ vàng ươm, dậy mùi thơm của hành mỡ, hạt tiêu, lá dong....

Nem nướng Hữu Lũng

Nghe đến món nem nhiều người sẽ nghĩ ngay đến món nem chua nức tiếng gần xa của Xứ Thanh. Nếu như nem chua Thanh Hóa với vị chua dịu nổi tiếng gần xa thì nem Hữu Lũng lại được yêu thích bởi hương vị chua nồng thơm đặc trưng khi nướng lên.

Nem Hữu Lũng thường có kích thước lớn hơn so với các loại nem khác.

Nem nướng được làm từ các nguyên liệu gồm: thịt lợn, bì lợn, muối tinh, thính, bột ngọt… Thịt làm nem phải là thịt mông dai và mua lúc lợn mới mổ, còn hồng tươi, mang về thái bằng dao sắc, mỏng. Bì lợn cũng được luộc sơ, thái thật mỏng. Sau đó, thịt, bì đều được ướp với gia vị mắm, muối, hạt tiêu khoảng 30 phút rồi trộn đều với bột thính.

Thưởng thức hương vị thơm ngon khó cưỡng từ nem nướng Hữu Lũng

Nem nướng Hữu Lũng có vị thơm, ngậy riêng chính là nhờ bột thính. Thính được làm từ gạo bao thai pha với gạo nếp thơm, rửa sạch, phơi cho khô nước. Sau đó, đem rang đều tay, đến khi vừa đủ độ vàng, giòn, có mùi thơm nức thì đem xay nhỏ thành bột. Một chiếc nem thường được làm từ khoảng 2 - 3 lạng thịt, gói bởi 3 lớp lá chuối, bên ngoài buộc lạt tre hoặc dây tơ dứa.

Nem để nguyên lá đem nướng trên than hoa hồng rực cho đến khi cháy xém hết lớp lá chuối, trong quá trình nướng phải lật nem liên tục để tránh nem bị cháy một bên. Không nên để nem quá lâu mới đem nướng, nem sẽ rất chua.


Món nem này nếu nhìn bề ngoài chẳng khác mấy so với nem chạo, nem thính khá nổi tiếng ở nhiều tỉnh thành trong cả nước. Tuy nhiên, nem nướng Hữu Lũng Lạng Sơn rất đặc biệt với hương thơm nồng khi nướng, mùi chua ngai ngái của thịt đã lên men quyện vào nhau, khi ăn kẹp cùng với lá đinh lăng, lá sung chấm tương ớt. Vị chua, ngot, cay dịu tạo nên hương vị độc đáo khiến du khách đã thưởng thức một lần là nhớ mãi.


Thành Trung / Theo: doanhnhan
 
 
 
 
Nam Mai sưu tầm.
 
 
 
 
Xem thêm...

MƯA HUẾ, MỘT SẢN PHẨM DU LỊCH

MƯA HUẾ, MỘT SẢN PHẨM DU LỊCH

 

Ai đó đã nói rất đúng rằng, đến Huế mà chưa được thăm lăng tẩm Hoàng cung thì coi như chưa đến Huế. Tôi vẫn muốn nói thêm, đến Huế mà chưa được rong ruổi trên các con đường để tắm mình trong những cơn mưa rả rích, dìu dịu, lâm thâm… thì cũng coi như chưa một lần đến Huế.


Thiếu nữ và mưa Huế

Kéo dài suốt từ tháng Chín ta đến Tết, mưa Huế dai dẳng trùm lên cả mùa thu và mùa đông của xứ sở này.

Từ xa xưa, người dân chốn kinh thành đã cảm về mưa Huế trong âm thanh sầm sịch của biển Đông gọi gió, trong tiếng rơi nặng hạt đe dọa con nước tràn bờ:

Sóng sầm sịch lưng chừng ngoài bể bắc
Hạt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên
Muốn làm lơ đi mà ngủ cho yên.
Sợ mưa già nước ngập, biết tựa con thuyền nơi mô.
(Dân ca Bình Trị Thiên)

Duyên dáng, nũng nịu, người Huế tự xưa âu yếm gọi hạt mưa xứ mình là "hạt mưa tình". Cũng như cô gái Huế gọi về những giọt nhớ, giọt thương, nhẹ nhàng mà sâu lắng, trầm tư tựa như nét duyên thầm, nghe như tiếng dạ thưa ngọt lịm... Người Huế yêu vô cùng đất trời, thành quách; người Huế nhớ vô cùng hạt lệ trời ban...


Một người Huế, sống xa quê, một lần so sánh: Hạt mưa Huế vừa nặng, vừa sâu, từ từ, chầm chậm, trong khi đó cơn mưa Sài Gòn rộ lên rồi tắt làm người ta chưa kịp nhận ra độ nặng nhẹ của giọt mưa. Mưa xứ Bắc thì phơi phới bay, thiếu đi độ nặng, độ dày. Huế vào mùa mưa, đất trời tắm mình trong muôn ngàn hạt đọng. Có lẽ, gọi mưa Huế bằng giọt mới đúng hơn. "Giọt Huế" - tặng phẩm của tạo hóa ban cho để muôn đời cố đô nâng niu, thương nhớ...

Con người, thiên nhiên hài hòa, quyến rũ. Ai đó nói rằng, thiên nhiên là một phần của tâm hồn con người, là nơi trú ngụ của trái tim đa cảm và thanh cao. Vậy thì, mưa Huế là một phần của tâm hồn Huế vậy! Còn nhớ, một lần trên con đường nước non ngàn dặm thuở đất nước còn chia cắt, nhà thơ Tố Hữu từ Trường Sơn nhìn về đất mẹ trong khoảng trời trắng xóa mưa rơi.


Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên.
Nghe trong mưa tiếng nói của nỗi niềm da diết.

Bởi "nỗi niềm chi rứa" nên thành Huế mới phủ trắng một màu mưa để cho đất trời đượm buồn man mác. Thấp thoáng bên hiên nhà, con người xứ Huế vốn đã ít lời nay lại càng lặng lẽ hơn. Chợt nhớ ngày trước, chàng trai đa sầu, đa cảm Huy Cận viết "Buồn đêm mưa" trong nỗi cô đơn của đất trời và lòng người... Nhà thơ họ Cù như đang đếm mưa rơi bằng cảm giác và tâm trạng lẻ loi, nghe như mênh mang, xa vắng:

Rơi rơi... dịu dịu rơi rơi...
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...

Mưa Huế sao nghe da diết quá! Những hạt mưa như cởi mọi u buồn, gắn kết những người con xứ Huế, níu kéo tâm hồn của những người đi xa. Giọt thương, giọt nhớ, giọt lệ... mỗi giọt mưa Huế gắn với cuộc sống, tình yêu của mỗi con người, "trận mưa nào cũng đọng giọt tâm tư" (Hải Bằng). Có sống với Huế, với mùa mưa mới thấm thía để khi đi xa lại "thèm" chút mưa trên đất mẹ. Hãy chia sẻ nỗi nhớ rất đỗi dễ thương mà có sức nặng đến se lòng của Hồ Đắc Thiều Anh để yêu hơn mảnh đất này:


Khi mô anh về thăm Huế xưa
Nhớ gói giùm em một chút mưa
Gói thêm mớ lạnh từ chân tóc
Buốt thấu buồng tim vẫn chưa bưa.

Thôi thì:

Hẹn Huế mùa sau sẽ về thăm
Thăm từng cái lạnh giấu trong chăn
Nghe như rả rích trong đêm vắng
Để nhớ vô cùng những tháng năm.

Mỗi mùa mưa về, mệ tôi hái khế xuống dầm nước mưa nấu canh trong mùa lụt. Khế dầm nước mưa nấu canh cá lóc sẽ ngọt hơn nhiều so với khế hái từ cây. Ông thì vội vã đem áo quần ra giặt, ông cười hiền "Áo trắng lắm con ơi...". Tần tảo trên vai đòn gánh dẻo, cô gái Huế xõa tóc thề gánh hàng đến chợ, nghe trong tiếng mưa rơi bước chân duyên gánh cả cơn mưa đất trời đến chợ, tạo nét Huế thầm gom nỗi nhớ mùa đông. Giọt Huế - giọt mưa, giọt bền bỉ, dẻo dai, giọt trong mắt mẹ, mắt bà, giọt vai gầy, giọt duyên thầm của em... Thương lắm ơi mưa Huế, giọt nhớ, giọt yêu...


Còn nhớ, với chủ đề Di sản văn hóa với hội nhập và phát triển- Nơi gặp gỡ các thành phố lịch sử, nét độc đáo và mới lạ của Festival Huế 2012 là mưa Huế trở thành sản phẩm du lịch. Du khách được chiêm ngưỡng một không gian thưởng lãm nghệ thuật trong mưa như triển lãm tranh, ảnh nghệ thuật, các tác phẩm điện ảnh, nhạc phim về mưa Huế, nhạc mưa, trình diễn thời trang dưới mưa… Tôi thầm nghĩ thêm, sao Huế không biến lụt Huế thành sản phẩm du lịch mùa đông? Một đoàn xe xích lô chở du khách dạo quanh phố phường ngắm mưa Huế, lụt Huế thật dễ thương và rất khả thi, tại sao không?

Toản Văn / Theo: visithue
 



 

Lãng mạn không gian du lịch Huế tháng 8

 

 

Du lịch Huế tháng 8 có đẹp hay không là điều mà nhiều độc giả quan tâm. Đến với mảnh đất cố đô xưa với vẻ dịu dàng, không gian yên tĩnh này, dường như ta thấy lòng mình được lắng đọng lại giữa không gian và thời gian yên bình.

Thời tiết Huế tháng 8 như thế nào?

Tháng 8 là vào mùa mưa của Huế, du khách đến đây vào những ngày này cần có sự am hiểu nhất định về tính chất “đỏng đảnh” của thời tiết Huế. Mảnh đất cố đô sẽ có những cơn mưa dài và nặng hạt, có đôi khi sẽ gây khó khăn cho khách đi tour du lịch Huế. Nhưng với những ai đã có lòng yêu thích nơi đây, muốn tìm hiểu kỹ về nó sẽ cảm thấy rất thích khi đi thăm thú, khám phá Huế trong thời gian này.

Lượng mưa tăng vọt, số giờ nắng giảm nhưng giao thoa giữa những ngày mưa và nắng ấy là một Huế rất riêng, có một kiểu thời tiết ôn dịu đến tuyệt vời. Do đó sẽ không còn gì tuyệt hơn việc thăm viếng các chùa chiền, các lăng tẩm trong những ngày như vậy.

Hoặc du khách cũng có thể lựa chọn cho mình một góc cà phê, một góc ẩm thực để xóa tan cái nhìn “lạnh nhạt” với mưa Huế. Và đương nhiên, trong những ngày nắng, các bạn nên dừng chân ghé lại khu du lịch sinh thái suối nước nóng Thanh Tân hoặc thăm thú phá Tam Giang để có được những phút giây thư giãn tuyệt vời nhất.

Du lịch Huế tháng 8Du lịch Huế tháng 8 ngắm cố đô trong màn mưa (Ảnh: Sưu tầm)

Vừa ngắm mưa vừa nhâm nhi tách trà

Tại Huế có khá nhiều điểm ngắm mưa lý tưởng như đồi Vọng Cảnh, lầu Ngũ Phụng, đỉnh núi Ngự Bình, trên tầng cao các khách sạn Huế dọc sông Hương… Hoặc đơn giản bạn chỉ cần ngồi trong một quán café, quán trà nhìn khung cảnh ngoài đường.

Hãy chọn một tách trà nóng hổi, ấp vào tay thêm chút hơi ấm, xoa xoa lên đôi má và thỉnh thoảng nhấp một ngụm trà, truyện trò đôi câu bạn bè hoặc có khi ngồi một mình nhâm nhi trà nóng ngắm mưa rơi. Đó là khoảnh khắc yên bình mà bạn ít khi có được ở chốn phố thị đông đúc. Nếu tinh tế một chút, chúng ta sẽ thấy được phong cách riêng do người Huế tạo nên khi nhìn vào khối lượng của những ấm, chén, khay trà, dụng cụ hỏa thực… để phù hợp với điều kiện mưa dầm triền miên của vùng đất này.

Du lịch Huế tháng 8Nhâm nhi tách trà Huế nóng hổi vào những ngày mưa phùn (Ảnh: Sưu tầm)

Ngoài ra, những phương tiện vận chuyển đặc thù của Huế mùa mưa như xích lô, thuyền rồng… cũng rất thích hợp cho những chuyến đi vãn cảnh. Có lẽ nhờ vậy chúng ta sẽ thêm yêu mùa mưa của mảnh đất này chăng, và biết đâu chỉ muốn tới du lịch Huế vào mùa mưa thôi.

Những địa điểm không thể bỏ lỡ khi đi du lịch Huế tháng 8

Đi tour giá rẻ khám phá mảnh đất cố đô vào tháng 8, chúng ta sẽ được nhìn ngắm một Huế rất khác biệt. Đừng để những cơn mưa làm cản trở đoạn đường thăm thú của bạn, chúng chỉ điểm tô thêm cảnh sắc và giúp chúng ta cảm nhận một Huế khác, một Huế riêng biệt không trộn lẫn. Hơn nữa, theo kinh nghiệm du lịch Huế đây còn là mùa khá vắng khách du lịch nên bạn sẽ không lo hết phòng khách sạn hay vé máy bay đi Huế, chẳng còn lo phải chen chúc tấp nập ở các điểm tham quan.

1. Phá Tam Giang

Phá Tam Giang tựa như một nét chấm phá độc đáo giữa một Huế mộng mơ, trữ tình đằm thắm. Đây là nơi ba con sông lớn là sông Ô Lâu, Sông Hương và Sông Bồn hội tụ, trước khi hòa mình vào biển Đông ở cửa biển Thuận An. Phá Tam Giang được ví như một bảo tàng dưới nước với hơn 1000 loài thủy sinh, nó không chỉ là nguồn sống, nguồn thu nhập chính của người dân hai bên đầm phá bao đời nay, mà còn chiếm vị trí quan trọng trong việc cân bằng sinh thái của khu vực Thừa Thiên Huế.

Du lịch Huế tháng 8Khung cảnh Phá Tam Giang lãng mạn giữa chiều hoàng hôn (Ảnh: Sưu tầm)

Một trong những cảnh tượng rực rỡ, huy hoàng nhất mà du khách có thể trải nghiệm được chính là hình ảnh cả vùng sông nước mênh mông, một vài con thuyền giăng câu, hoàng hôn buông xuống trên phá Tam Giang. Đặt tour du lịch Huế tháng 8, vào những ngày nắng hây hây chúng ta có thể ghé phá Tam Giang thăm thú. Ngoài thưởng ngoạn cách sắc thì Vietnam Booking  còn mách các bạn đi tour du lịch Huế giá rẻ là gần đó có khu rừng ngập mặn Rú Chá cũng rất đẹp

2. Lăng Minh Mạng

Lăng Minh Mạng là công trình có sự hài hòa giữa thiên nhiên và kiến trúc, kết hợp giữa yếu tố phong thủy, ngũ hành, kinh dịch, thể hiện sự tinh tế của ông vua tài năng bậc nhất của triều nhà Nguyễn. Trong hơn 20 năm trị vì, Minh Mạng đã đưa nhà Nguyễn lên đỉnh cao của sự thịnh vượng.

Du lịch Huế tháng 8Lăng Minh Mạng có sự hài hòa giữa thiên nhiên và kiến trúc (Ảnh: Sưu tầm)

Lăng Minh Mạng thể hiện rất rõ nét phong cách kiến trúc truyền thống Việt Nam ở tính đăng đối, phía trước là ao nhỏ làm minh đường, cảnh quan thiên nhiên nhiên hòa quyện với công trình kiến trúc, giúp khu lăng mộ nhìn như vườn thượng uyển xanh tươi hơn là một chốn âm nghiêm. Trong tổng thể cung Minh Mạng,, các công trình kiến trúc được bố trí đối xứng nhau từng cặp qua trục Thần Đạo xuyên tâm lăng.

3. Lăng Tự Đức

Lăng Tự Đức là bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp với không gian yên tĩnh, thu hút không chỉ khách du lịch trong nước mà còn cả nước ngoài ghé tham quan. Khi ghé đến đây chúng ta sẽ có cảm giác như đang ở trong một công viên rộng lớn, với kiến trúc cầu kỳ và phong cảnh hữu tình. Toàn cảnh hài hòa với thiên nhiên, không có đường nét thẳng tắp, góc cạnh, mà hài hòa, uốn lượn như chìm hẳn vào thiên nhiên.