Hung Ca Su Viet 2 - Asia Golden 3 - Em Vẫn Mơ Một Ngày Về
Anh vẫn mơ một ngày nào
Quê dấu yêu không còn cộng thù
Trên con đường mòn, sau cơn mưa chiều,
Anh ôm đàn dìu em đi dưới trăng.
I still dream of one day,
Our beloved land is free of the...Hung Ca Su Viet 2 - Asia Golden 3 - Em Vẫn Mơ Một Ngày Về
Anh vẫn mơ một ngày nào
Quê dấu yêu không còn cộng thù
Trên con đường mòn, sau cơn mưa chiều,
Anh ôm đàn dìu em đi dưới trăng.
I still dream of one day,
Our beloved land is free of the communists.
On the small road, and after the afternoon rain,
I carry the guitar and walk hand-in-hand with you under moonlight.
The second verse continues the vision of return to the beloved country:
Ta đứng yên nghe rừng thì thầm.
Ta ngước trông sao trời thật gần.
Anh ôm cây đàn, anh buông tơ trầm.
Em ca bài mừng quê hương thanh bình.
We stand still and listen to the whispers of the woods,
We look upward and see how close is the sky.
I hold the guitar and play warm notes,
You sing a happy song celebrating the peace of our country.
The first bridge moves from the couple to the larger community, which is the village. Regardless of the fact that most Vietnamese refugees, including Nguyệt Ánh, came from cities and towns, the village remains too appealing of a trope in the nationalist mindset of Vietnamese that she could not not employ it.
Rồi bình minh tới anh đưa em về làng
Này bà con đón kìa anh em chào mừng
Thôn quê tưng bừng, muôn chim reo hò
Hát mừng người vừa về sau chiến chinh.
Rồi hoàng hôn xuống ta say men rượu nồng
Họ hàng trong xóm thay nhau nhen lửa hồng
Sương giăng mịt mùng, đêm sâu chập chùng
Xóa ngục tù xiềng gông bao năm.
When dawn arrives, I walk you to the village,
There, our friends and people welcome us.
The countryside is in bliss, the birds sing loudly
Welcoming those returning after war.
When sunset comes, we drink strong wine,
People in our village take turns lighting warm fires,
Amidst thick mist and deep into the night,
We break down chains that imprison us for too long!
The lyrics of the first bridge moves from dawn to sunset, from morning to night. Birds, wine, and fires are supplementary to the imagined village community, which functions as a small embodim
Show more


Tưởng Như Dòng Sông Không Trở Lại...
Tôi rời Hà Nội năm 1954, khi tôi 18 tuổi. Có nhiều bài hát về Hà Nội khá hay, nhưng sau này tôi thường nghêu ngao bài Nỗi Lòng Người Đi của Anh Bằng, vì bài hát có nhiều điểm phù hợp với tôi và trong đó có tên cả hai...Tưởng Như Dòng Sông Không Trở Lại...
Tôi rời Hà Nội năm 1954, khi tôi 18 tuổi. Có nhiều bài hát về Hà Nội khá hay, nhưng sau này tôi thường nghêu ngao bài Nỗi Lòng Người Đi của Anh Bằng, vì bài hát có nhiều điểm phù hợp với tôi và trong đó có tên cả hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn. Hát lên hai chữ Hà Nội để lãng mạn tưởng tượng là mình có một người yêu thật sự đã bỏ lại ở thành phố cũ. Nhớ đến Sài Gòn, là nhớ cả một thời tuổi trẻ hoa mộng trong một thành phố mới.
“Tôi xa Hà Nội năm tôi mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều…
… Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi trong bùi ngùi…”
Kỷ niệm với Hà Nội là kỷ niệm của thời niên thiếu. Với Sài Gòn là lúc đi vào tuổi trưởng thành và thành phố này đã cho tôi hai kỷ niệm khi đến và khi đi khó quên. Kỷ niệm Sài Gòn đầu tiên của tôi liên quan đến nhà văn Mai Thảo. Nhữ ngày mới di cư vào Nam, gia đình tôi cư ngụ tại con hẻm gần nhà thờ Huyện Sĩ. Hai đầu con hẻm nối với hai đường lớn, là đường Võ Tánh và Ngô Tùng Châu.
Một anh bạn thân đã chỉ cho tôi một người có bóng dáng rất văn nhân, đó là Mai Thảo. Ông thường xuất hiện trong những buổi sáng ở đầu hẻm trên con đường có nhà in mà tôi được biết là ông đang chăm lo cho ra đời tác phẩm đầu tay của ông. Đó là cuốn Đêm Giã Từ Hà-Nội. Tôi đã phải lấy món tiền để dành nhỏ nhoi ra mua và nghĩ rằng nó sẽ là một kỷ niệm để đời cho mình. Tôi đọc truyện ngắn Đêm Giã Từ Hà-Nội nhiều lần, và đến nay vẫn còn nhớ mang máng câu “Tôi nhìn xuống nước sông Hồng đục ngầu như máu mà Hà nội đang ở dưới đó…”.
Show more

Tôi cũng rời Hà Nội như ông, cũng ngồi trong một chiếc xe vận tải lớn chở những người di cư qua cầu Long Biên... Tưởng Như Dòng Sông Không Trở Lại...
Tôi cũng rời Hà Nội như ông, cũng ngồi trong một chiếc xe vận tải lớn chở những người di cư qua cầu Long Biên trong buổi tối nửa đêm về sáng sang phi trường Gia Lâm để đáp máy bay vào Sài Gòn. Trời tờ mờ sáng, đèn vàng trên cầu mờ nhạt, nhịp xe đều đều dọc theo chiều dài của chiếc cầu, gió sông thổi vào trongxe làm mọi người se lạnh, nhưng lúc đó tôi lại thấy háo hức được ra đi và nghĩ rằng sẽ không quay lại thành phố này nữa. Tôi ngoái nhìn xuống dòng sông, nước phù sa cuồn cuộn đục ngầu và có cùng một ý nghĩ như Mai Thảo. Kỷ niệm thứ hai là với dòng sông Sài Gòn. Như những câu chuyện tình, các nhà văn thường hay tả cảnh lần đầu hai người gặp nhau, và lần cuối họ chia tay nhau, nếu khung cảnh đó lại là một bến sông thì câu chuyện lãng mạn và lâm ly biết bao.
Chuyện của tôi với sông Sài Gòn cũng gần như thế. Tôi đến với Sài Gòn năm 54 và rời Việt Nam năm 75 cũng từ bến sông Sài Gòn.
______
Nhớ lại từ hồi học lớp Nhì trường Lý Thường Kiệt ở phố Sinh Từ, Hà Nội, tôi là một tay bơi có hạng. Trung thu năm 1946, thành phố tổ chức một buổi tập trận trên hồ Hoàn Kiếm, giữa Nhi Đồng Cứu Quốc và Hướng Đạo. Hướng Đạo chiếm lĩnh Tháp Rùa, có những thuyền nhỏ chèo đi phá các cứ điểm của Nhi Đồng quanh hồ. Mỗi nhi đồng được lệnh chuẩn bị từng xâu vỏ bưởi cắt thành từngmiếng vuông đeo bên người làm võ khí. Mỗi khi thuyền của Hướng Đạo xông vào là hàng loạt vỏ bưởi được ném ra túi bụi để đẩy lui thuyền ra xa.
Lần đó tôi được tuyển vào Đội Yết Kiêu để bơi ra “tái chiếm” Tháp Rùa. Khoảng cách bơi gần nhất là chỗ Khai Trí Tiến Đức. Sau tiếng hô của đội trưởng, tôi nhoài người ra hồ, tưởng là gần nhưng sao bơi mãi mới tới nơi. Khi đó thì toán đến trước đã đẩy lui được Hướng Đạo, và họ đã rút lui bằng thuyền. Tôi vạch bờ cỏ, lên đảo và đi xung quanh tháp, sau đó vào trong lòng tháp đứng nghỉ. Nhìn quanh không còn ai, đội của tôi xong nhiệm vụ đang bơi vào bờ. Còn một mình, tôi chợt nhớ đến cụ rùa Hoàn Kiếm đã lấy lại gươm thần của vua Lê Lợi mấy trăm năm trước. Phải chi cụ hiện lên trong lúc này, nói với mình một tiếng thì thú vị biết bao!
Hồi chiến tranh Việt-Pháp, gia đình tôi phiêu bạt hơn bốn năm trời trong vùng hậu phương trung du Bắc Việt. Tôi đã bơi qua nhiều con sông đào nhỏ, và có lầncùng bạn bơi qua ngang sông Đáy, gần ngả Vân Đình, để về trại tạm cư vì không muốn lội bộ quá xa để đến bến đò ngang. Sau này về Hà Nội, tôi lại thường bơi từ Petite Đồ Sơn ở Hồ Tây sang chùa Trấn Quốc, sang đình Nghi Tàm. Tại hồ Quảng Bá, tôi đã bơi ngang qua hồ sang đến gốc cây xoài phía bên kia.
Sau mùa Hè di cư năm 1954 ngắn ngủi và bận rộn, tôi đổi sang trường Hồ NgọcCẩn, học lớp đệ Tam. Năm học mà thường được gọi là năm ăn chơi không phải bận rộn thi cử. Tôi cũng hay về thăm lại trường cũ Chu Văn An được đặt tạm tại khu nội trú của trường Petrus Ký, gặp lại được một số bạn cũ, và nhớ những người bạn đã ở lại.
Các bạn tôi lúc đó ai cũng có xe đạp, nên sau giờ học là rủ nhau đạp xe đi khám phá thành phố mới. Cuối tuần chúng tôi đi xa hơn, mỗi người mang theo một ổ bánh mì thịt nguội hay cá hộp sardine, nước thì đựng trong bi-đông nhỏ của nhà binh. Cả bọn đạp xe qua cầu Bình Lợi đi thăm Thủ Đức, Lái Thiêu, suối Lồ Ồ.
Có lần đi đến tận Biên Hòa và còng lưng đạp xe leo dốc thăm ngôi chùa trên núi Châu Thới.
Một hôm, đạp xe qua Khánh Hội, rồi vòng vào Kho 5, cả bọn dựng xe và ra bến sông Sài Gòn. Lúc đó thủy triều xuống, lòng sông thu lại, những đám cỏ dại bờ bên kia trông cũng khá xa. Sông Sài Gòn hồi đó còn nhỏ hẹp, không như bây giờ đã được khơi rộng ra nhiều lần. Một anh trong bọn nảy ra ý cùng bơi qua sông.
Tôi nhìn xuống dòng sông, nước ngả màu xám, lóng lánh vết dầu loang, có ý hơi ngần ngại, nhưng cũng theo bạn ùa nhau nhảy xuống. Bơi được một quãng, ra đến giữa dòng, không ngờ nước chảy xiết, cả bọn bảo nhau cố bơi ngang và cứ để mặc cho trôi theo dòng.
Nước đẩy chúng tôi quá xa, hơn cả hai trăm thước chỗ định đến. Trước khi bơi trở về, chúng tôi phải đi ngược lại gấp hai lần khoảng cách trên. Lênlại được bến Kho 5, thật là hú vía, cả bọn thấy mình thật là liều lĩnh, chắc là từ nay không anh nào còn dám đùa rỡn với con sông này nữa.
Sau này, mỗi kỳ hè về thăm gia đình, tôi lại có dịp bơi qua sông Hương từ chỗ bến đò trước trường Đồng Khánh với những người bạn ở Huế, nơi cha tôi đang làm việc. Nước sông Hương ngày đó trong xanh, hiền hòa lững lờ trôi, khác hẳn những con sông mà tôi đã lội qua.
Dòng sông cuối cùng tôi đã bơi qua là con sông Dương Đông ở đảo Phú Quốc,
khi tôi được chuyển ra đó làm việc sau khi ra trường Hành Chánh và xong một khóa Chuẩn úy Hiện dịch tại Đồng Đế, Nha Trang, vào khoảng đầu thập niên1960. Tôi ở đó gần ba năm, không nghĩ đến chuyện xin đổi đi nơi khác. Nhiều lần, một mình tôi bơi từ Dinh Cậu, nơi dòng sông chảy ra biển, sang bên kia cồn cát, nơi cái xóm nhỏ mới thành lập, mà tôi đã đặt tên là “xóm Bình Định” cho những người dân ngoài đó trốn chiến tranh đến đảo xin lập cư. Có lần tôi bơi ra ngoài xa, đến tận cái cột mốc để hướng dẫn thuyền vào cửa biển, khiến một lão ông lo sợ tôi có thể bị cá mập tấn công.
Hơn hai mươi năm sống với mưa nắng Sài Gòn, học hành, gầy dựng tương lai, tôi đã có những năm tháng thanh bình cũng như xáo trộn vì tình hình đất nước.
Cuối cùng, một quyết định đau lòng là phải bỏ quê hương khi người anh em từ miền Bắc xông vào cưỡng chiếm miền Nam.
Buổi chiều ngày 29 Tháng Tư 1975, gia đình tôi và ông anh vợ là quân nhân chạy về ngôi nhà đường Trần Quý Cáp của bà chị lớn. Tôi biết lòng anh nóng như lửa vì vợ con đã rời khỏi Việt Nam từ mấy ngày hôm trước. Phi trường Tân Sơn Nhất đã bị pháo kích, bất khiển dụng. Chúng tôi gần như tuyệt vọng nghĩ không tìmđược đường nào thoát. Bỗng có điện thoại, anh nhấc lên nghe, rồi buông một câu ngắn gọn: Ra ngay bến Bạch Đằng, đi tàu hải quân! Chúng tôi ùa ra khỏi nhà và cùng nhảy lên xe jeep nhà binh của anh.
Tới nơi, một vòng kẽm gai đã chăng ngang đường tới tận bờ sông. Lính canh ngăn chặn đám đông bên ngoài đang cố tràn vào. Anh cho xe đậu sát bờ sông, bên kia là tượng Đức Trần Hưng Đạo, nơi có lính đứng kiểm soát. Nhìn thấy anh đeo lon trung tá, họ cho vào, nhưng ngăn gia đình chúng tôi lại vì là dân sự. Anh không nỡ bỏ đi, nói khó với mấy người lính rằng tôi là một quânnhân biệt phái,nhưng họ nói không dám vì sợ trái lệnh trên. Không muốn nh ùng nhằng làm mất cơ hội cuối cùng đi tìm vợ con của anh, tôi bắt tay anh, hối thúc anh đi may mắn, còn gia đình tôi có thể trở về.
Đám đông ngoài hàng rào cản ngày càng đông, bỗng hàng tràng súng nổ phía sau tượng Trần Hưng Đạo, sau đó hàng tràng đạn bên trong hàng rào đáp lại, mọi người chạy tán loạn. Một toán lính dù đang định tiến vào nhưng bị cản lại, nhưng may là cả hai bên chỉ bắn chỉ thiên. Hai đứa con nhỏ nhất sợ hãi, khócầm ĩ. Chúng tôi nghĩ nếu còn ở đây dám bị đạn lạc và quyết định lái xe về. Tôi đề máy. Xe không nổ. Đề lần thứ hai, thứ ba, xe cũng không nổ.
Lính canh sợ hỗn loạn như vụ di tản miền Trung vừa qua, họ vội giăng thêm mấy lần kẽm gai rộng ra ngay đằng sau xe. Không biết tính sao, đi không được mà về cũng không xong. Súng bắn, con khóc như ri, cùng quá, tôi đành bướcxuống xe, lại gần nói khó với anh trung sĩ đang giữ rào cản. Anh ta nói: “Ra xe,nổ máy, khi tôi mở rào thì phóng xe thật nhanh vào”. Tôi nghĩ xe đã không nổ máy, làm sao đây. Tuy vậy không còn cách nào hơn là trở lại xe. Vợ tôi đang cầu nguyện Trời Phật ông bà. Tôi yên lặng ngưng thở vài giây, vừa thì thầm khấn theo vừa thử đề máy xe, thì lạ thay, xe nổ máy, thế là gia đình tôi thoát vào được! Tuy vậy cũng còn phải trải qua nhiều gian nan vợ chồng tôi cùng năm đứa trẻ mới leo được lên chiếc chiến hạm cuối cùng đang nằm ụ chờ sửa chữa.
Hai giờ sáng, con tàu 502 có tên là Thị Nại rời bến Bason trên chở năm ngàn người. Khi tàu đi ngang qua tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi thấy ngài vẫn đứng uy nghiêm, tay cầm kiếm chỉ xuống dòng sông. Tôi chợt nhớ đến lời nguyền của ngài “Nếu không thắng giặc Nguyên, ta sẽ không trở về con sông này nữa”. Bất giác, tôi nghĩ thầm nếu không tìm được Tự Do, chắc mình cũng không thể trở lại được con sông này. Trông lên đường Nguyễn Huệ, con phố không một bóng người, đèn đêm vàng bệch như màu da của người sắp chết.
Sáng 30, tàu đến được Côn Sơn, nơi tập trung của hạm đội. Qua radio, nghe tiếng tướng lãnh đầu hàng như một lời báo tử. Nhìn lại phía sau, Sài Gòn và cả miền Nam khuất dần cuối chân trời, như đang chìm sâu xuống biển. Đi chẳng được bao lâu, tàu chết máy, nằm chơi vơi giữa biển khơi, phải chờ một chiến hạm khác quay lại kéo. Vì là con tàu cuối cùng ì ạch chạy, phải vớt thêm một sốghe còn lại, nên tàu lại càng chật len người. Một trực thăng cố đuổi theo tàu tìm chỗ đậu, sau khi hạ xuống xong, lại phải tìm cách đẩy trực thăng xuống biển.
Ngoài ra còn một máy bay thám thính T28, trên có hai phi công, bay đến lượn sát quanh tàu nhiều vòng, nhưng làm sao đáp xuống được. Cuối cùng phải bay là sát xuống để cố đáp trên mặt biển, nhưng không ngờ máy bay bị lật úp văng một phi công ra ngoài. May nhờ toán người nhái bơi ra cứu được. Còn phi công khác đã chìm theo máy bay đi vào lòng biển… Ngày thứ tư Hạm Đội Mỹ mới đếngiúp, tiếp tế thực phẩm và bơm thuốc phòng bệnh. Bảy ngày tàu mới tới được Subic Bay, Phi Luật Tân. Trước khi cặp bến, họ yêu cầu xóa bỏ hết các dấu hiệu của Việt Nam. Tên tàu Thị Nại 502 bị phủ một lớp sơn đen. Lá cờ vàng trên cao từ từ hạ xuống. Mọi người trên tàu đứng lên hát Quốc ca, nước mắt nhạt nhòa.
Tiếng hát theo gió tan trên biển như một bi hùng ca của những người thất trận.
Rồi chúng tôi được chuyển qua các trại tị nạn và vượt được Thái Bình Dương, đến được lục địa Mỹ Châu, trở thành công dân Mỹ, thành người Mỹ gốc Việt.
Chúng tôi lại đi xuyên qua lục địa Mỹ đến tận chân tượng Nữ Thần Tự Do phía bên kia bờ Đại Tây Dương, trèo vào trong lòng tượng và leo lên tới gần bó đuốc biểu tượng của Tự Do để chắc chắn là mình đã làm trọn lời nguyện khi đi qua tượng Đức Trần Hưng Đạo tại bến Bạch Đằng năm xưa.
Chúng tôi trở lại Hà Nội sau 40 năm, vì mấy người em họ gọi về lo việc phần mộ.
Rồi lại một lần nữa tái ngộ Sài Gòn khi con gái út muốn về lại quê hương Việt Nam để làm lễ thành hôn. Lớn lên trong xã hội Mỹ, con tôi đã làm chúng tôi ngạc nhiên là cô quyết định về Sài Gòn làm lễ cưới. Trong lòng chúng tôi rất ngần ngại nhưng cũng cảm động nghe con giải thích: Con sinh ra ở Việt Nam thì con cũng muốn bắt đầu cuộc hôn nhân của con ở Việt Nam. Và con cũng muốn giới thiệu với chồng con đất nước, phong tục Việt Nam.
Lễ cưới được cử hành trên một chiếc thuyền rồng, biểu tượng cho đất nước Việt Nam. Con thuyền đưa khách từ bến Nhà Rồng đến Bình Quới Resort.
Hôm đó, trong lời chào mừng quan khách, tôi có dịp nhắc lại chuyện xưa:
“Chúng ta đang đi trên sông Sài Gòn, dòng sông lịch sử này đã nhắc lại cho gia đình tôi những kỷ niệm không thể quên. Nhiều năm trước, trong đêm cuối cùng trước khi Sài Gòn thất thủ, chúng tôi cũng thoát được từ một bến không xa nơi này, trên một chiến hạm hư hỏng cũng trôi trên con sông này. Chúng tôi đã phải rời bỏ quê hương, không biết nơi đến và cũng không biết tương lai ra sao…”.
Nhiều bạn ngoại quốc đã lau nước mắt và lên chia sẻ với cô dâu về sự bất ngờ họ được biết về một khúc quanh lịch sử của chiến tranh Việt Nam và lý do tại sao gia đình cô lại sống nơi hải ngoại.
Những ngày ở Sài Gòn, tôi có dịp đưa các con đến chỗ mà phép lạ đã cứu chúng tôi khỏi cơn đại nạn. Nếu không thoát, tôi sẽ bị những người anh em thù nghịch đưa đi cải tạo tù đày điêu đứng. Và là con của “ngụy”, các con tôi sẽ không tránh được cảnh sống khốn cùng. Dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi đã kể lại cho các con nghe chuyện buổi chiều ngày 29 Tháng Tư 1975 và tôi cũng nhắc đến sự giúp đỡ của những người chúng tôi không bao giờ quên, như anh Trung sĩ bộ binh đã mở rào cản cho gia đình tôi, rồi Trung úy Hải quân Hùng giúp chở chúng tôi ra tận tàu; Trung úy người nhái Trịnh Công Hiển, người em nuôi đạo đức đã theo giúp săn sóc con cái chúng tôi suốt cuộc hành trình; Trung tá Hạm trưởng Nguyễn Văn Tánh; Trung tá Hải quân Phan Lạc Tiếp; Thủy thủ đoàn Tân Lập và toán người nhái của chiến hạm Thị Nại 502 đã cùng điều động con tàu hư hỏng đến bến tự do. Và trên hết, anh nhà tôi là Trung tá Đặng Bá Cảnh đã mở đường cho chúng tôi khi tình thế trở nên tuyệt vọng nhất.
Xin Thượng Đế phù hộ cho họ.
Sài Gòn đã đổi mới rất nhanh. Đi xa quá lâu, về lần nào cũng thấy xa lạ, ô nhiễm và bất an. Lần vừa rồi, chúng tôi ở lại Sài Gòn hơn một tháng. Trước ngày trở lại Mỹ, hai vợ chồng tôi đi dọc đường Tự Do, sang đường ra bến Bạch Đằng. Tôi nhớ lại hơn nửa thế kỷ trước, gần tám trăm ngàn đồng bào từ miền Bắc đã cặp bến này đi tìm tự do, nay không còn một dấu tích nào để lại. Cũng tại nơi này bao nhiêu năm trước đây, gia đình tôi đã bỏ lại chiếc xe bên đường và nhờ sự tình cờ như một phép lạ mà đến được miền đất hứa.
Chúng tôi đi ngược lên, đến dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo, cố tìm lại chỗ của chiếc xe năm xưa. Ở đây họ đã xây một công viên nhỏ. Lúc quay về chỗ ngã ba để tìm cách sang đường Tự Do thì đúng vào giờ tan sở, xe chạy hai chiều không ngớt. Đường thì rộng, không đèn giao thông, cũng không có lằn sơn dành cho bộ hành, chần chừ mãi không dám qua. Chợt nghe thấy tiếng chuyện trò vui vẻ của mấy cô gái, chúng tôi quay lại thì các cô tươi cười “Hai bác theo chúng cháu” và không đợi trả lời, hai cô đã nắm tay chúng tôi dẫn qua đường. Sang đến nơi chưa kịp nghe lời cám ơn, các cô đã vội rảo bước ríu rít đi. Tôi bỗng nhiên thấy trong cái xa lạ, trong sự bất an, trong cái vô cảm của cuộc sống hối hả, vẫn còn cái thiện căn bản trong sáng của những người trẻ Việt Nam.
April 25, 2022
Nguyễn Công Khanh Show more 2 months ago



Mẹ Vẫn Chờ Con Bên Cửa
Trong bài báo “Muôn Dặm Tìm Chồng” nói về trường hợp bà quả phụ phi công Nguyễn Diếu đăng trên nhật báo Người Việt vào Tháng Mười Hai, 2012, chúng tôi có nhắc lại bản tin của AP về chiếc trực thăng rơi tại Hạ Lào:
“Vào ngày...Mẹ Vẫn Chờ Con Bên Cửa
Trong bài báo “Muôn Dặm Tìm Chồng” nói về trường hợp bà quả phụ phi công Nguyễn Diếu đăng trên nhật báo Người Việt vào Tháng Mười Hai, 2012, chúng tôi có nhắc lại bản tin của AP về chiếc trực thăng rơi tại Hạ Lào:
“Vào ngày thứ ba của cuộc hành quân 719 Lam Sơn (10 Tháng Hai, 1971), một trực thăng UH-1 Huey của Việt Nam Cộng Hoà bị bắn rơi tại Hạ Lào. Tất cả những người có mặt trên chuyến bay này đều bị tử nạn, gồm Ðại Tá Cao Khắc Nhật Trưởng Phòng 3, Trung Tá Phạm Vi, Trưởng Phòng 4 thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, hai phi công là Trung Úy Nguyễn Diếu, Trung Úy Tạ Hoà và hai nhân viên Phi Hành Đoàn là Trung Sĩ Cơ Khí Nguyễn Hoàng Anh, Hạ Sĩ Xạ Thủ Trần Công Minh thuộc Không Ðoàn 41, Phi Ðoàn 213, Sư Ðoàn 1 Không Quân đóng tại Ðà Nẵng. Trên chuyến bay này còn có 4 phóng viên Mỹ là Larry Burrows của tờ Life, Henri Huet của AP, Kent Potter của UPI và phóng viên người Nhật Keisaburo Shirnamoto của tờ Newsweek”.
Một tuần sau đó, một người đàn ông đã tìm đến toà soạn, khi không gặp chúng tôi, đã để lại một mảnh giấy nhắn tin, với lời cám ơn, là nhờ bài báo này, đã tìm ra tin tức của đứa em trong gia đình: Hạ Sĩ Trần Công Minh, xạ thủ trên chuyến trực thăng lâm nạn hơn 40 năm về trước tại Hạ Lào.
Trần Công Minh sinh năm 1951 tại Sài Gòn trong một gia đình rất nghèo. Thân phụ anh là một Hạ sĩ quan phục vụ tại Ðại Đội Quân Xa thuộc Bộ Tổng Tham Mưu tại Saigon, mẹ anh bán gừng trong từng buổi chợ để nuôi 8 đứa con. Năm 1968, sắp đến tuổi quân dịch, Minh theo người anh ruột, cũng là một quân nhân đang làm việc tại Quân Ðoàn I, ra Ðà Nẵng và tình nguyện vào Sư Ðoàn 1 Không Quân, phục vụ trong đơn vị phòng thủ, canh gác phi trường. Có lẽ Minh không thích đời sống an nhàn này, nhất là sau khi người anh ruột đổi về Saigon, Trần Công Minh tình nguyện ra tác chiến và trở thành một xạ thủ trực thăng của Phi Ðoàn 213 (Song Chùy) trong chuyến bay định mệnh bị hoả lực phòng không cộng sản bắn rơi vào sáng ngày 10 Tháng Hai, 1971.
Show more

Người được tin Trần Công Minh tử nạn đầu tiên là thân phụ anh, người lính già ở hậu phương khóc đứa con trẻ ngoài trận chiến. Trần...Mẹ Vẫn Chờ Con Bên Cửa
Người được tin Trần Công Minh tử nạn đầu tiên là thân phụ anh, người lính già ở hậu phương khóc đứa con trẻ ngoài trận chiến. Trần Công Minh tử trận khi mới hai mươi tuổi đời. Cũng năm này, thân phụ của Trần Công Minh giải ngũ và qua đời hai năm sau đó.
Sau khi liên lạc được với người anh ruột của Hạ Sĩ Trần Công Minh, chúng tôi có dịp gặp gỡ gia đình người tử sĩ không quân này trong một khu mobil home trên đường Westminster, thuộc thành phố cùng tên, và đã gặp được người mẹ già của anh, nay đã 94 tuổi. Với tuổi này, trông bà vẫn còn minh mẫn, tráng kiện, tai nghe rõ, mắt còn nhìn thấy người đối diện mà không cần đeo kính. Bà khoe với khách mới đến là bà còn xỏ được kim, dù là chỉ trắng hay chỉ đen. Các con nay gọi bà bằng tiếng “Cô” vì suốt 40 năm nay, bà đã xuống tóc, dùng chay, và siêng năng công phu tụng niệm mỗi ngày của một người tu sĩ.
Nhắc đến tên đứa con tử trận hơn 40 năm về trước, giọng người mẹ già nghe bùi ngùi, thương cảm. Tuy xót xa, đau khổ khóc lóc, qua một thời gian dài, tuy đã nhận giấy báo tử và gia đình đã lãnh tiền tử tuất, song người mẹ thương con, trước Tháng Tư, 1975, vẫn nửa tin nửa ngờ, nuôi hy vọng con mình còn sống, bị bắt làm tù binh tại Lào, bị đưa ra Bắc Việt. Sau năm 1975, khi được tin có nhiều tù binh được trở về nhà, người mẹ lại nghĩ rằng, có thể bị chấn thương ở đầu nên con của bà không còn nhớ gì dĩ vãng, nên không thể tìm đường về với gia đình.
Nỗi chờ đợi của người mẹ già mỗi ngày một mòn mỏi.
Chuyện chỉ xảy ra dưới chế độ Cộng Sản: Bị buộc làm đơn tình nguyện xin đi “cải tạo”.
Năm 1971, bà đã mất một đứa con trai.
Năm 1978, đứa con trai kế của bà có giấy gọi thi hành nghĩa vụ quân sự. Sợ con phải đi Kampuchea, bà mẹ thương con gọi về nhà và tìm cách đưa con đi trốn, nhưng cuối cùng đứa con vẫn phải ra chiến trường, và bà mẹ thương con, tuy đã 60 tuổi, bị công an địa phương còng tay, bắt vào trại tù “lao động cải tạo” hai năm. Trong trại “cải tạo” này, không chỉ riêng có bà mẹ này mà còn nhiều cha mẹ già khác cũng vào tù để được “giáo dục” vì con chưa kịp ra trình diện.
Về sau, gia đình vì có người quen thuộc làm trong Viện Giám Sát Nhân Dân Gò Công, gia đình làm đơn khiếu nại lên ủy ban Tỉnh, nhưng công an địa phương lại ép bà phải làm đơn tình nguyện xin đi “cải tạo” ký vào thời gian trước đó, để làm bằng cớ ngụy tạo, là không phải do công an bắt bà đi tù. Chúng doạ nếu bà không chịu ký đơn, chúng sẽ đày đứa con kế tiếp sắp đi nghĩa vụ đến một nơi nguy hiểm, xa xôi. Vì lòng thương con, bà mẹ đành phải gạt nước mắt, “điểm chỉ” trên lá đơn tình nguyện xin đi “cải tạo” để công an cho vào hồ sơ.
Trên trái đất này, và trong tất cả chế độ bạo ngược tự cổ chí kim, đây là một trường hợp khó tin, nhưng có thật đã xảy ra dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam.
Tìm giọt máu rơi
Người anh ruột của người lính Không Quân Trần Công Minh trong chuyến di tản trước ngày Sài Gòn sụp đổ còn mang theo chiếc ảnh chân dung đã úa vàng, loang lổ của người em. Theo anh cho biết, qua những nguồn tin chưa rõ ràng, ở Ðà Nẵng, Minh có một người bạn gái, và khi Minh tử trận ở Hạ Lào người bạn gái này đã mang thai.
Theo ý nguyện của gia đình, hy vọng bài báo này sẽ đến tay người quả phụ trẻ tuổi ngày xưa, và hy vọng sẽ tìm ra giọt máu rơi lưu lạc của người lính chết trẻ, trước khi người mẹ già của Trần Công Minh qua đời.
Cũng theo lời người anh lớn của Minh, chờ đến Mùa Hè nắng ấm, gia đình sẽ đưa bà mẹ đi Washington D.C. xin phép đến thăm Newseum, nơi chôn cất di cốt của những người tử nạn trong chuyến trực thăng bị rơi tại Hạ Lào ngày 10 Tháng Hai 1971, để thưa với mẹ rằng:
– Thưa “Cô”, xin “Cô” yên lòng, con trai của “Cô,” thằng Minh đã yên nghỉ nơi đây!
Huy Phương
Orange County, CA - April 2022 Show more 3 months ago


Tổng thống Mỹ tuyên bố về việc VinFast đầu tư 4 tỷ USD sản xuất xe điện ở North Carolina
Hình2 : Thống đốc bang North Carolina, ông Roy Cooper và Phó Chủ tịch Tập đoàn Vingroup kiêm Tổng giám đốc VinFast toàn cầu Lê Thị Thu Thủy ký kết hợp tác về việc...Tổng thống Mỹ tuyên bố về việc VinFast đầu tư 4 tỷ USD sản xuất xe điện ở North Carolina
Hình2 : Thống đốc bang North Carolina, ông Roy Cooper và Phó Chủ tịch Tập đoàn Vingroup kiêm Tổng giám đốc VinFast toàn cầu Lê Thị Thu Thủy ký kết hợp tác về việc đầu tư xây dựng nhà máy VinFast tại bang North Carolina. (Nguồn VinFast.)
Ngày 29-3-2022 (giờ Mỹ), tài khoản của Tổng thống Joe Biden @POTUS trên Twitter đã có tweet: “Ngày hôm nay, VinFast loan báo họ sẽ xây dựng một nhà máy sản xuất xe điện và pin tại North Carolina – trị giá 4 tỷ USD để tạo ra hơn 7.000 việc làm. Đây là thí dụ mới nhất về chiến lược kinh tế của tôi khi tại chức.”
Ngày 29-3-2022, Nhà Trắng Hoa Kỳ đã phát tuyên bố của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden về việc đầu tư xây dựng sản xuất xe điện và pin tại bang North Carolina (Statement by President Biden on Electric Vehicle and Battery Manufacturing Investments in North Carolina). Tuyên bố nói rằng: “nhà sản xuất xe điện VinFast sẽ xây dựng một cơ sở sản xuất xe điện và pin ở North Carolina – trị giá 4 tỷ USD để tạo ra hơn 7.000 việc làm và hàng trăm nghìn xe điện và pin – là thí dụ mới nhất về chiến lược kinh tế của tôi khi tại chức. Nó được xây dựng dựa trên các thông báo gần đây từ các công ty như GM, Ford và Siemens về việc đầu tư trở lại vào Mỹ và tạo việc làm. Những nỗ lực của chúng tôi trong việc xây dựng một nền kinh tế năng lượng sạch đang thúc đẩy các công ty kiếm được nhiều tiền hơn ở Mỹ, xây dựng lại chuỗi cung ứng của chúng ta tại quê nhà và cuối cùng là giảm chi phí cho người dân Mỹ.”
Show more
Ông Biden viết: “Kể từ khi nhậm chức, chúng tôi đã thực hiện...Tổng thống Mỹ tuyên bố về việc VinFast đầu tư 4 tỷ USD sản xuất xe điện ở North Carolina
Ông Biden viết: “Kể từ khi nhậm chức, chúng tôi đã thực hiện một chiến lược công nghiệp nhằm hồi sinh ngành sản xuất trong nước với việc tạo ra công ăn việc làm có thu nhập tốt cho người Mỹ, củng cố chuỗi cung ứng của Mỹ và thúc đẩy các ngành công nghiệp của tương lai như xe điện – và chúng tôi nhận thấy chiến lược đó đang được đền đáp ngày này qua ngày khác. Năm ngoái, tôi đã ký Luật Cơ sở hạ tầng lưỡng Đảng (Bipartisan Infrastructure Law) để xây dựng cơ sở hạ tầng sạc điện cho xe điện và tập hợp nghiệp đoàn United Auto Workers và các nhà sản xuất ô tô tại Nhà Trắng để ký một lệnh hành pháp nhằm đạt được 50% thị phần bán xe điện vào năm 2030.”
Tuyên bố của Nhà Trắng cũng cho biết Quốc hội có thể thông qua các luật như Đạo luật Sáng tạo Đổi mới lưỡng Đảng (Bipartisan Innovation Act) để tăng gấp đôi tiến độ mà chúng tôi đã thực hiện trong việc xây dựng lại cơ sở công nghiệp của mình để tạo ra nhiều việc làm với mức lương cao hơn, kiếm được nhiều tiền hơn ở Mỹ – bao gồm cả chất bán dẫn mà ngành công nghiệp ô tô của Mỹ cần – và giá thấp hơn cho các gia đình lao động.
Tham khảo: Statement by President Biden on Electric Vehicle and Battery Manufacturing Investments in North Carolina Show more 3 months ago





