

Kính chúc thầy cô ACE mùng 1 đầu tháng 2 luôn vui vẻ mạnh khỏe và hạnh phúc, luôn bình an trong tim.

gocnhosantruong.com/chia-se/chia-vui/4754-ky-niem-…
🌹❄️🎀🌹 HÔM NAY 🕊 DECEMBER 08 🕊 2022 ĐÚNG NGÀY🕊 🌹❄️🎀🌹
🌈▬MỪNG KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP GÓC NHỎ SÂN TRƯỜNG▬🌈
♬♪▬ 🏮♬♪ ( DECEMBER 08, 2012 - DECEMBER 08, 2022 ) ♬♪ 🏮 ▬♬♪
▬ 🍷 ▬ Chúc Mừng 🎂 Góc Nhỏ Sân Trường vừa tròn 10 tuổi ▬❤️▬ 🍷
EXP: Hoàng...gocnhosantruong.com/chia-se/chia-vui/4754-ky-niem-…
🌹❄️🎀🌹 HÔM NAY 🕊 DECEMBER 08 🕊 2022 ĐÚNG NGÀY🕊 🌹❄️🎀🌹
🌈▬MỪNG KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP GÓC NHỎ SÂN TRƯỜNG▬🌈
♬♪▬ 🏮♬♪ ( DECEMBER 08, 2012 - DECEMBER 08, 2022 ) ♬♪ 🏮 ▬♬♪
▬ 🍷 ▬ Chúc Mừng 🎂 Góc Nhỏ Sân Trường vừa tròn 10 tuổi ▬❤️▬ 🍷
EXP: Hoàng Điệp, Bích Hòa, Lan Chi, Thu Trang, Bích Hào
Show more










Chim bay về biển
__________________________
PHẠM TÍN AN NINH
Một mai chim bỏ bay về biển
Ta đứng một mình ngó nhánh sông
Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy
Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng
(Sương Mai)
Một cánh chim vừa bay ra biển, nhỏ dần rồi mất hút...Chim bay về biển
__________________________
PHẠM TÍN AN NINH
Một mai chim bỏ bay về biển
Ta đứng một mình ngó nhánh sông
Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy
Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng
(Sương Mai)
Một cánh chim vừa bay ra biển, nhỏ dần rồi mất hút giữa mênh mông. Tôi mơ hồ như hình ảnh của chính mình đang tìm về quê cũ. Hình dung đến thành phố Nha trang xưa, nơi mà nếu không có biển sẽ không còn lãng mạn để người ta nhắc nhớ, đắm say, cũng có thể làm nhẹ đi ít nhiều tiếc nuối của những người Nha trang xa xứ. Bờ biển cát từng chôn giấu những hang động tuổi thơ và ôm ấp dấu tích của bao cuộc tình thơ mộng, nước biển đã cuốn trôi đi, nhưng không thể xóa mất trong ký ức của nhiều cặp tình nhân mà bây giờ tóc ai cũng bạc. Âm thanh những ngọn sóng rì rào đã dệt nên những bài thơ, những bản tình ca từng làm khuấy động bao trái tim người, mà dư âm dường như vẫn còn vang vọng mãi.
Nha trang đẹp đẽ, hiền hòa và thơ mộng đó bây giờ đã không còn nữa. Đã trở thành một Nhatrang xa lạ, như thuộc về ai đó chứ không phải của mình. Đó là cảm nhận xót xa của đám bạn bè tôi, không chỉ người đã rời xa mà cả những người vẫn còn ở lại với Nhatrang, sống với Nhatrang gần trọn một đời.
Nhà văn Nguyễn xuân Hoàng, một đồng môn huynh trưởng cùng trường Võ Tánh, sau 15 năm trở lại Nhatrang, đã viết:
“Mười lăm năm sau ngày ra khỏi nước, tôi quay trở về như một người xa lạ. Thành phố tôi đã ở thời tuổi nhỏ như nhỏ lại, những con đường quen đã xa lạ, tiếng sóng biển vọng lại âm thanh đều đặn kỳ quái của một vùng biển chết nào. Bãi cát không còn cái màu của thời tôi mới lớn và rừng dương đã bi xóa khỏi bản đồ trái tim.
… tôi trở về nhìn lại biển xưa thấy không còn lại chút dấu vết nào của những ngày trốn học, những buổi trưa hạnh phúc nằm trên bãi cát, gối đầu lên hai cánh tay, đấp mặt bằng cành lá dừa, ngủ một giấc chờ đến giờ tan học lủi thủi trở về” (trích trong “Nhà Từ Đường” tháng 5.2013- trên VOA)
Show more

Một chị bạn, hiện định cư ở thành phố Seattle bên Mỹ. Năm 1954 là một cô bé 7 tuổi, di cư theo gia đình từ Hà nội vào Sài gòn. Ông bố... Chim bay về biển
Một chị bạn, hiện định cư ở thành phố Seattle bên Mỹ. Năm 1954 là một cô bé 7 tuổi, di cư theo gia đình từ Hà nội vào Sài gòn. Ông bố là quân nhân, được bổ nhậm ra một đơn vị ở Nhatrang. Cô rất vui mừng được theo cha ra sống ở thành phố biển. Thi đậu vào lớp đệ thất trường Võ Tánh. Nhưng chỉ mấy năm sau lại bịn rịn bỏ lại bạn bè, theo bước chân cha ra tận Quảng Nam, rồi Huế. Sau này trở thành cô giáo trung học, lên cao nguyên sống với phố núi và đám học trò Kinh - Thượng, giữa chiến tranh vây bủa, may mắn sống còn trong lần di tản kinh hoàng trên con đường Tỉnh Lộ 7B.Vậy mà một thời tuổi thơ ngắn ngủi ở Nha trang lại là mảng quá khứ đẹp đẽ nhất. Trong ký ức và cả trong trái tim, chị đã dành ngăn lớn nhất cho Nha Trang . Sang Mỹ định cư khá lâu, chị háo hức trở về thăm Nha trang, để rồi “chỉ thấy lòng buồn rười rượi, bởi đang đi trên đất Nha trang mà cảm giác như mình là kẻ lạ, không tìm thấy bóng dáng Nha trang của mình ngày trước”.
Hai người bạn học cùng lớp với tôi. Sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên và gần trọn một đời sống với Nhatrang. Trước 75 đều là thầy, cô giáo trung học, giờ chỉ âm thầm nhìn đời từng ngày trôi đi vô vị, viết những bài thơ buồn trước bao điều đổi thay ngao ngán. Họ ở lại với Nha trang cho đến hôm nay, sau bao nhiêu lần tưởng chừng Nha trang đã hất hủi, đuổi xô, không còn chỗ cho họ dung thân. Hai người bạn của tôi rất chí tình với bạn, sống chết với quê, vậy mà đã bao lần than thở: “không ra đi như mi, tớ ở lại với Nhatrang mà vẫn không tìm ra Nhatrang của bọn mình ngày trước! Không có gì đau hơn là sống trên chính đất nước mình mà cứ mãi hoài vọng một quê hương!” Và họ chỉ còn gặp lại Nhatrang trong ký ức, trong những bài thơ họ viết về một thời quá khứ, nghe chừng đã rất xa xưa như trong tiền kiếp:
chiều quá chén nửa đêm tỉnh giấc
mảnh trăng khuya vòi või chờ ai
trong cỏ ướt dế buồn thao thức
giữa quê nhà sao mãi hoài hương.
…
Từ buổi ấy đồng thu cỏ biếc
nghe âm u gió tạt mùa xa
người đứng giữa trời không - luyến tiếc
nghĩ ngợi gì tóc rủ sương pha.
….
Bao năm tìm lại con đường
nẻo xanh ngần ngại nghe chừng rất xa
chiều thu xứ ấy mù sa
tình thu thuở ấy cũng là chiêm bao.
(đ.ư.v)Đám học trò bọn tôi thưở ấy, giờ tóc ai cũng bạc. Sau cuộc thăng trầm quá lớn, nhiều khi tưởng mình giờ là một người nào khác. Dù còn sống ở quê nhà hay lưu lạc tha phương, ai cũng đã phải trải qua một cuộc đổi đời bi thảm. Vết thương lớn, nhỏ trong lòng dường như vẫn chưa lành.
Lần trở lại Nha trang duy nhất để tìm bốc mộ thân phụ bên ngoài một trại tù “cải tạo”, cách đây đúng mười năm, tôi đi một mình trên những con đường xưa, nghe tiếng sóng vỗ xa xa mà trong lòng chỉ còn dội lại những dư âm ngày cũ.
Tôi may mắn gặp lại vài ba người bạn học. Nhưng dường như tất cả đều nở nụ cười không trọn. Vui đó rồi buồn đó, bởi mỗi người một số kiếp long đong.
Một thằng bạn rất thân,cùng học ba năm cuối ở trường Võ Tánh. To con, đẹp trai và học giỏi. Sau này cũng là bạn lính. Ở tù hơn bảy năm nên bạn bè ai cũng nghĩ là nó đã đi diện HO và đang nổi trôi nơi nào trên nước Mỹ, không ngờ tôi còn gặp lại nó ở Nhatrang. Mặc dù bây giờ nó không được phép ở lại trong ngôi nhà và thành phố Nha trang xưa của nó.
Sau sáu tháng vào tù, căn nhà nhỏ của nó ở Nha trang bị tịch thu, cô vợ “Bắc Kỳ nho nhỏ” mang ba đứa con (mà đứa lớn nhất mới vừa năm tuổi) giao cho bà nội ở trên Thành, Diên Khánh, rồi sang sông…về đâu đó, không bao giờ trở lại. Bà nội thì già, mấy đứa nhỏ bấu víu vào ông chú, vừa tốt nghiệp kỹ sư Nông Lâm Súc, nhưng bởi có ông anh là “ngụy đang cải tạo”, nên đi làm phụ hồ cho một ông thợ nề là bác họ. Trong lúc phụ hồ sửa sang một bệnh viện, anh làm quen được một chị đầu bếp. Không biết tài ăn nói thế nào mà anh làm cô động lòng trắc ẩn, thương cảm hoàn cảnh mấy đứa cháu dại không mẹ không cha. Cô sẵn sàng làm mẹ nuôi. Với tất cả tiền bạc và tấm lòng, đã cưu mang ba đứa bé không thua gì một người mẹ. Ba đứa nhỏ lớn lên cứ tưởng cô là mẹ. Cái tình mẫu tử này sao mà hiếm hoi và bi tráng quá. Thì ra trong cái thời nhá nhem tình nghĩa ấy vẫn có những tấm lòng còn hơn cả những chữ Từ Bi viết trong mấy ngôi chùa.
Bảy năm sau, thằng bạn tôi được thả về, cúi mình trước người con gái ân nhân để xin nói một lời tạ ơn. Cô nắm tay ngăn lại. Đúng giây phút ấy, bốn mắt nhìn nhau và cùng rơi lệ. Họ ôm nhau, yêu nhau rồi lấy nhau. Hôm gặp chị, tôi tò mò hỏi lý do nào chị lại yêu và lấy thằng bạn khốn cùng của tôi trong lúc chị còn con gái. Chị bảo vì không thể rời xa ba đứa nhỏ mà chị xem như con ruột của mình. Chính cái tình thương và sự gắn bó ấy mà chị trở thành vợ của ba nó. Còn tôi thì lại mơ màng suy ngẫm đến hai chữ duyên nợ của đất trời. Sau này chị làm đầu bếp cho một nhà hàng ở bờ biển Nha trang. Thằng bạn tôi và mấy đứa con vẫn sống trên Thành, vì với cái lý lịch đen, không thể xin được cái hộ khẩu trở về thành phố cũ. Còn chị vợ thì tiếc cái hộ khẩu ở thành phố, mà không muốn chuyển lên vùng quê Diên Khánh.
Cũng chính vì Nha trang đã tạo nên cái hộ khẩu mỗi người mỗi nơi ấy, mà khi thằng bạn của tôi được gọi phỏng vấn xin đi theo diện HO, bị phái đoàn Mỹ từ chối, trả lại hồ sơ và sỉ vả một trận, vì nghĩ chị vợ tốt bụng này chỉ là vợ giả, trả tiền cho nó để được bỏ nước ra đi. Chuyện tình ngay mà lý gian ấy cũng đã làm vợ chồng tốn kém và khốn khổ một thời. Sau mấy lần khiếu nại, cái ân sủng cuối cùng là: chỉ có người cha và ba đứa con được ra đi vào đợt cuối HO. Còn chị vợ sẽ vĩnh viễn không bao giờ được bước chân đến Mỹ.
Bạn tôi quyết định ở lại với người vợ ân tình, mà anh coi như ông trời đã sai xuống dương trần này để gánh vác cho mấy cha con.
Bây giờ ba đứa con đã là người lớn. Thằng bạn tôi ở nhà chăm sóc ngôi từ đường, nuôi mấy con heo và nấu cơm cho con cho vợ. Chị ấy vẫn làm ở khách sạn dưới Nha Trang, tối lại chạy về Diên Khánh!
Hôm đứa con gái lớn lấy chồng, chị khuyên mãi thằng bạn tôi mới báo tin cho bà mẹ ruột bạc tình, bây giờ đang lấy một ông chồng người Thụy Sĩ. Bà ấy cũng vác bộ mặt đầy son phấn trở về. Nhưng đứa con gái chỉ cho bà đến nhà hàng dự tiệc mà từ chối sự hiện diện của bà trong hôn lễ. Con bé bảo rằng, bà chỉ là một cái máy đẻ ra tôi, nhưng mẹ tôi chính là vợ của ba tôi bây giờ.
Tôi rót một ly rượu mừng cho cả cái vô phúc lẫn cái diễm phúc của thằng bạn cũ, nhưng rót đến hai ly để mời vợ nó. Một ly mừng và một ly để nói hộ giùm tôi lòng biết ơn và ngưỡng mộ.
Tôi quay sang bảo thằng bạn:
- Dường như chính phủ Mỹ vừa cho mở lại diện HO, mày thử nộp đơn lại xem sao.
Nó xua tay:
- Tao chẳng cần đi đâu nữa, vì ở đâu có bà vợ tao đây là ở đó có thiên đường.
Tôi đùa:
- Mày nói còn hay hơn mấy ông linh mục trong nhà thờ.
Tôi choàng tay ôm vợ chồng nó mà nước mắt trào ra. Tôi nghĩ, nó vẫn còn tác phong của một thằng lính. Khi chia tay, nó ôm vai tôi buồn bã:
-Mày thấy không, cái thành phố Nha trang mà tao sống cả một thời đẹp đẽ, giờ cũng phụ bạc tao, gây cho gia đình tao bao khốn khó! Từ ngày thuộc về bọn CS, Nhatrang với tao là một vùng đất xấu, lạ lẫm. Mày còn nhớ tác phẩm tiếng Pháp “Le domaine maudit” của ông thầy Cung Giũ Nguyên?
Tôi thực sự chưa hiểu, chỉ thấy mơ hồ có một điều gì đó không ổn trong cách suy tư của nó. Nhưng tôi cảm được nỗi đau của nó.
Một cô bạn học từ những năm đệ ngũ, đệ tứ bên trường Văn Hóa. Một lần sang Mỹ thăm cô con gái là sư cô ở một ngôi chùa vùng Los Angeles, bất ngờ đọc được bài viết của tôi trong Đặc San Liên trường Võ Tánh & Nữ Trung Học Nha Trang, trong đó tôi có nhắc đến tên nàng, rồi lần mò tìm ra tông tích của tôi. Ngày xưa là một cô bé khá xinh và học giỏi. Sau này có thời làm phóng viên chiến trường. Ông chồng gốc Võ Bị Đà Lạt, chết một tháng trước ngày có chuyến bay theo diện HO, nên nàng và hai cô con gái không được đến Mỹ. Dắt con lưu lạc khắp nơi, với một số vốn liếng của mẹ cha để lại. Nàng bảo nhiều lúc nhớ Nhatrang lắm, thử quay về, nhưng rồi thấy lạc lõng, mọi thứ chỉ mới đây thôi mà sao giờ trở thành xa lạ quá. Cuối cùng, mẹ con quyết định mua một căn nhà bên cạnh Quan Âm Tự ở Sài Gòn xa lạ. Cô con gái út vừa học đại học vừa tu học trong chùa. Còn nàng thì tu tại gia và cũng là một nhà thơ. Hôm ngồi trên máy bay trở lại Bắc Âu, tôi đọc hết hai tập thơ của nàng ký tặng lúc chia tay. Có nhiều bài tiếc nhớ Nhatrang xưa. Nha trang của nàng và của đám bọn tôi. Nàng làm thơ Đường thật hay và cảm động. Tôi nghĩ, nếu Đức Phật mà đọc được thơ của nàng chắc cũng phải rơi nước mắt xuống tòa sen.
Một thằng bạn khác cùng học trường Võ Tánh. Sau này gặp nhau trong cùng một đơn vị lính. Đánh giặc rất lì, nhưng luôn bị “đì” bởi bản tính ngang tàng không nể mặt cả cấp chỉ huy. Trong khi đang ở tù ngoài Bắc, chị vợ ở nhà chán chường cuộc sống, lội xuống biển Nha trang tự vẫn, để lại một thằng con trai năm tuồi. Nơi người ta tìm ra thi thể của chị, chính là bờ cát dấu tích yêu đương hẹn hò, thưở hai người mới quen nhau.
Ra tù, không thể sống trên thành phố quê hương một thời đẹp đẽ giờ chỉ còn là mảnh đất thê lương tang tóc, mỗi ngày phải ám ảnh bởi cái chết đau đớn của người vợ trẻ đẹp dấu yêu, nó dắt mẹ già và đứa con thơ vượt biển. Sang Mỹ, nhờ mẹ chăm sóc cho đứa con, nó vừa đi làm vừa đi học. Được bạn bè khen, nó bảo: “chẳng phải tao siêng năng chăm chỉ gì đâu, nhưng vì không muốn còn có chút thì giờ rảnh rang nào để nghĩ ngợi mông lung, hồi tưởng về một quá khứ đau lòng”. Nó chưa bao giở về lại Nhatrang. Bạn bè ai cũng phục khi nó lấy được bằng Cao học Tâm Lý (Master of Psychology) và có công việc làm lương cao, ổn định. Trong đám bạn bè bất hạnh, nó là đứa thành công nhất. Bỗng một ngày được tin nó chết. Chết đau đớn. Thuê phòng trong một khách sạn ở gần nhà, rồi đến đó dùng súng bắn vào đầu mình tự sát, để lại mấy lá thư. Tôi nhận được lá thư nó viết cho tôi, được cảnh sát giao lại, nét chữ đẹp đẽ ngay ngắn, chứng tỏ nó rất bình tĩnh trước khi tự kết liễu đời mình.
“Xin lỗi mày, tao đi trước mà không kịp chia tay với mày. Bọn mình rồi sẽ như những con chim đã đến lúc phải bay về với biển. Mày đừng nghĩ là tao buồn. Tao vui lắm đó. Thôi thì tao đi trước để dọn chỗ cho bọn mày, đám bạn bè thân thiết nhất của tao. Chỉ có một điều tao tiếc và ân hận là đã không được chết ở chiến trường như bọn thằng Lâm, thằng Bê, thằng Pho, anh Tài, Đức”.
Đọc xong thấy lòng đau đớn như có nhiều vết chém, vậy mà không biết vì sao tôi không khóc được.
Những người tiễn đưa nó hôm ấy, hầu hết là bạn bè cùng đơn vị xưa, và một số bạn học cùng trường Võ Tánh Nha trang.
Năm ngoái, một chị bạn cùng trường Võ Tánh, cùng học Ban C sau tôi một năm, định cư ở Canada, cũng đã ra đi, sau hơn hai năm chống chọi với căn bệnh ung thư. Tôi và có lẽ hầu hết bạn bè Võ Tánh rất mến phục cô bạn có tấm lòng và rất khí khái này từ những năm 1962-1963. Mọi người đã ưu ái tặng chị biệt danh “Nữ hoàng xuống đường”. Luôn sống hết lòng với bạn bè và quê hương đất nước. Quyết liệt, kiên cường trước những bất công, bạo lực. Những ngày lâm bệnh, sớm ngộ Đạo Đất Trời, chị buông bỏ tha thứ hết những hờn giận ân oán riêng tư. Một thời gian trước khi mất, chị vẫn liên lạc trao đổi với tôi về những kỷ niệm Nha Trang, về tình hình chính trị ở quê nhà với nhiều hy vọng, và tiếc là không thể sống lâu hơn để chứng kiến ngày chế độ Công sản man rợ độc tài cáo chung trên quê hương. Chị ra đi, để lại bao thương tiếc cho gia đình, người thân và tất cả bạn bè. Chị mong muốn và dặn dò, sau khi chị mất xin gia đình hỏa thiêu và mang tro cốt của chị rải ở ngoài khơi Thái Bình Dương để hương linh của chị theo biển trôi về quê nhà, bên kia bờ đại dương, ở đó có bãi biển Nha trang thơ mộng, nơi chị sống cả một thời tuổi thơ và lớn lên với những vui buồn, vinh nhục.Tôi hình dung đây không phải là cánh hải âu mà là một cánh đại bàng hùng vĩ, đẹp đẽ vừa bay về với biển.
Cuối tháng 2/2013, trước khi trở về lại Bắc Âu, tôi bất ngờ nhận được hung tin: hiền thê của một anh bạn qua đời vì một chứng ung thư khó chữa. Chị là cựu nữ sinh Nữ Trung Học Nha Trang, và sau này là một người đàn bà tuyệt vời. Gia đình anh chị là một đại gia đình quân đội. Các con của chị đều là sĩ quan trong quân đội Hoa Kỳ, một cô con gái tốt nghiệp từ quân trường nổi tiếng West Point. Sau này đều trở thành những bác sĩ, luật sư. Phu quân của chị là một người bạn, người đàn anh của tôi ở trường Võ Tánh cũng như trong quân đội ngày trước. Con nhà giàu, đẹp trai và tính tình hào hoa vui tính. Là môt sĩ quan trẻ đầy phong độ khi tốt nghiệp từ trường Võ Bị Đà Lạt, đối tượng của nhiều cô con gái Nha trang thuở ấy. Ngày anh quyết định làm đám cưới với chị, chắc chắn có nhiều cô tốn khá nhiều nước mắt. Cuộc tình đẹp. Một gia đình thành công, hạnh phúc. Chị luôn bặt thiệp vui vẻ, hết lòng với bạn bè, đồng môn, đồng đội cũ của chồng. Nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Ai cũng quí mến chị. Vậy mà đùng một cái, chị ra đi, đột ngột chẳng ai ngờ.
Hôm dự dám tang chị, rất nhiều bạn bè cùng khóa Võ Bị với anh và đồng môn thân quen thời Võ Tánh & Nữ Trung Học Nha trang, từ mọi nơi về tiễn biệt. Trong nhà nguyện không còn chỗ đứng. Anh chồng ốm nhom, tiều tụy. Khi nói lời chia buồn, tôi ôm đôi vai gầy gò mà thấy thương anh, tội nghiệp. Khuôn mặt hốc hác, đôi mắt quầng thâm. Tôi nghĩ là anh đã khóc thầm nhiều lắm, ở cái tuổi đã trải qua bao thăng trầm mất mát, tưởng như không còn nước mắt.
Khi nhìn quan tài chị được đưa vào lò thiêu. Cửa lò đóng lại. Tôi tưởng tượng, lại thêm một cánh chim đẹp đẽ nữa vừa bay về với biển.
Tôi nghĩ rồi sẽ có môt ngày, thế hệ bọn tôi, những cô cậu học trò rời trường Võ Tánh vào những năm đầu thập niên 60, bây giờ đều đã trên tuổi 70, sẽ lần lượt ra đi. Tất cả cuối cùng rồi cũng là những cánh chim bay về với biển.
Bỗng lòng tôi chợt thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ ấy sẽ bay trở về đâu, khi Nha Trang ngày xưa của họ đã thực sự không còn. Thành phố đã cho họ một thời tuổi thơ đẹp đẽ hoa mộng, nhưng cũng đã để lại trong lòng họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau cuộc đổi đời. Những hang động tuổi thơ và dấu tích của những cuộc tình ngày xưa, tất cả giờ chỉ còn là cổ tích. Tôi nhớ lời thằng bạn còn ở lại Nha Trang, nhớ tới thầy tôi, nhà văn Cung Giũ Nguyên và tác phẩm Le Domaine Maudit viết từ năm 1961, như là một tiên tri của Thầy.
Phạm Tín An Ninh
________________
Hình minh họa: "Tâm Sự", tranh sơn dầu của A.C.La Show more 7 months ago


Ta đứng một mình ngó nhánh sông
Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy
Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng
(Sương Mai) 7 months ago




gocnhosantruong.com/chia-se/chia-vui/4593-mung-sin…
🏮▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬🏮🎀🏮▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬🏮
╔╗╔╦══╦═╦═╦╗╔╗ ☆★★★🌹🌺🍂🍀🌾 ▒J▒U▒L▒ Y▒2022▒🌺🍀🌾🌹🌺🍂🍀🌾
║╚╝║══║═║═║╚╝║☆★★★★★★L🌹b❤️d🌹T🐳🌎•°*”˜˜”*°•.¸☆☆☆¸.•°*”˜˜”*°•.¸¸¸.
║╔╗║╔╗║╔╣╔╩╗╔╝ ★ 🍷🎂 🍷BIRTHDAY▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬🎁🎂★☆★☆¥☆¥
╚╝╚╩╝╚╩╝╚╝═╚╝ ▬▬ ¥☆★☆★☆¥¥☆★☆★☆¥¥☆★☆★☆¥¥☆★☆★☆¥☆¥☆★☆¥☆★☆¥☆
💙•°҈°•°҈°••══•💚•°҈°•°҈°•💛...gocnhosantruong.com/chia-se/chia-vui/4593-mung-sin…
🏮▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬🏮🎀🏮▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬🏮
╔╗╔╦══╦═╦═╦╗╔╗ ☆★★★🌹🌺🍂🍀🌾 ▒J▒U▒L▒ Y▒2022▒🌺🍀🌾🌹🌺🍂🍀🌾
║╚╝║══║═║═║╚╝║☆★★★★★★L🌹b❤️d🌹T🐳🌎•°*”˜˜”*°•.¸☆☆☆¸.•°*”˜˜”*°•.¸¸¸.
║╔╗║╔╗║╔╣╔╩╗╔╝ ★ 🍷🎂 🍷BIRTHDAY▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬🎁🎂★☆★☆¥☆¥
╚╝╚╩╝╚╩╝╚╝═╚╝ ▬▬ ¥☆★☆★☆¥¥☆★☆★☆¥¥☆★☆★☆¥¥☆★☆★☆¥☆¥☆★☆¥☆★☆¥☆
💙•°҈°•°҈°••══•💚•°҈°•°҈°•💛 •°҈°•°҈°••══•❤️💜•══•💖•°҈°•°҈°•🧡•══••°҈°•°҈°•💙 ✳️
Kính chúc Quý Thầy Cô, Quý Anh Chị Bạn có ngày sinh nhật trong tháng 7 thật vui và những tháng ngày tiếp nối luôn an lành, may mắn, hạnh phúc, thịnh vượng và tràn đầy sức khỏe. Thân mến gửi đến quý anh chị:
Các chị: ❀ Hoàng Thư ❀ Đỗ Quyên ❀ Kim Khuê ❀ Phương Tú ❀ Bảo Lan ❀ Tuệ Minh ❀ Lan Thanh❀ Lâm thị Tuyết Mai ❀ Nguyễn Hoàng Châu My.
Các anh : ✬ Lê Trọng Tuấn ✬ Trầm Đắc Lực✬ Vũ Ngọc Thăng ✬ Nguyễn Đức Trí ✬ Hải Giang ✬ Đặng Nam Quân ✬ Triệu Thanh Hữu
EXP: Hoàng Điệp - Bích Hòa - Thu Trang- Tê Hát - Lan Chi - Bích Hảo
Show more
╔╗╔╦══╦═╦═╦╗╔╗ ☆★★★🌹🌺🍂🍀🌾 ▒J▒U▒L▒ Y▒2022▒🌺🍀🌾🌹🌺🍂🍀🌾🏮▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬🏮🎀🏮▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬🏮
╔╗╔╦══╦═╦═╦╗╔╗ ☆★★★🌹🌺🍂🍀🌾 ▒J▒U▒L▒ Y▒2022▒🌺🍀🌾🌹🌺🍂🍀🌾
║╚╝║══║═║═║╚╝║☆★★★★★★L🌹b❤️d🌹T🐳🌎•°*”˜˜”*°•.¸☆☆☆¸.•°*”˜˜”*°•.¸¸¸.
║╔╗║╔╗║╔╣╔╩╗╔╝ ★ 🍷🎂 🍷BIRTHDAY▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬🎁🎂★☆★☆¥☆¥
╚╝╚╩╝╚╩╝╚╝═╚╝ ▬▬ ¥☆★☆★☆¥¥☆★☆★☆¥¥☆★☆★☆¥¥☆★☆★☆¥☆¥☆★☆¥☆★☆¥☆
💙•°҈°•°҈°••══•💚•°҈°•°҈°•💛 •°҈°•°҈°••══•❤️💜•══•💖•°҈°•°҈°•🧡•══••°҈°•°҈°•💙 ✳️
Kính chúc Quý Thầy Cô, Quý Anh Chị Bạn có ngày sinh nhật trong tháng 7 thật vui và những tháng ngày tiếp nối luôn an lành, may mắn, hạnh phúc, thịnh vượng và tràn đầy sức khỏe. Thân mến gửi đến quý anh chị:
Các chị: ❀ Hoàng Thư ❀ Đỗ Quyên ❀ Kim Khuê ❀ Phương Tú ❀ Bảo Lan ❀ Tuệ Minh ❀ Lan Thanh❀ Lâm thị Tuyết Mai ❀ Nguyễn Hoàng Châu My.
Các anh : ✬ Lê Trọng Tuấn ✬ Trầm Đắc Lực✬ Vũ Ngọc Thăng ✬ Nguyễn Đức Trí ✬ Hải Giang ✬ Đặng Nam Quân ✬ Triệu Thanh Hữu Show more 9 months ago


Nhạc Vàng, Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi
Âm nhạc, rõ ràng không là một môn nghệ thuật chỉ nhằm giải trí. Âm nhạc phản ảnh tâm tình, mơ ước và ý chí con người, thuộc đủ thành phần xã hội có quan niệm sống khác nhau và lắm niềm vui nỗi buồn riêng, nhưng có thể...Nhạc Vàng, Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi
Âm nhạc, rõ ràng không là một môn nghệ thuật chỉ nhằm giải trí. Âm nhạc phản ảnh tâm tình, mơ ước và ý chí con người, thuộc đủ thành phần xã hội có quan niệm sống khác nhau và lắm niềm vui nỗi buồn riêng, nhưng có thể chia sớt cho nhau hạnh phúc và ngay cả khốn cùng. Và, những cuộc ly hương của đàn chim Việt đã được nhiều nghệ sĩ diễn đạt sống động bằng nhạc vàng, lãng mạn nhưng cũng đầy ắp dân tộc tính, đau thương mà vẫn không thiếu hào hùng. Những nội dung muôn hình muôn vẻ đã được sáng tác, được nghe và tạo cảm xúc cho hàng vạn người thuộc nhiều thế hệ, tạo thành thiên nhạc sử ca đặc thù Việt Nam về những cuộc hành trình có một không hai trong lịch sử di cư và tỵ nạn của loài người.
Khúc ca dạo đầu đầy cảm xúc của kẻ ở người đi chắc hẳn phải là sáng tác đặc sắc của Lam Phương Chuyến Đò Vỹ Tuyến: Đêm nay trăng sáng quá anh ơi, sao ta lìa cách bên giòng sông bạc hai màu, như là dấu ấn của cuộc di cư 1954. Nhiều người từng nghĩ tác giả là một người trong cuộc, có gốc gác miền Bắc hoặc Trung, hoặc có thể là một nhà tuyên truyền lão luyện. Nhưng không, Lam Phương lúc ấy chưa đến tuổi hai mươi và quê nhà ở tận Bạc Liêu, Lục Tỉnh. Nhạc phẩm này qua các đài phát thanh đã góp phần đáng kể tạo mối đồng cảm giữa đồng bào. Tiếc thay, ở miền Bắc vào thời ấy và suốt hai chục năm sau, máy thu thanh là đồ quốc cấm và người dân chỉ có thể nghe các chương trình của đài Hà Nội phát ra từ các loa treo ở mỗi đầu xóm. Nỗi lòng của đôi trai gái yêu nhau tưởng chừng vĩnh biệt, cũng là thảm cảnh ly tan của hàng vạn gia đình và dân tộc.
Show more
ở mỗi đầu xóm. Nỗi lòng của đôi trai gái yêu nhau tưởng chừng vĩnh biệt, cũng là thảm cảnh ly tan của hàng vạn...Nhạc Vàng, Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi
ở mỗi đầu xóm. Nỗi lòng của đôi trai gái yêu nhau tưởng chừng vĩnh biệt, cũng là thảm cảnh ly tan của hàng vạn gia đình và dân tộc.
Người ơi nước Nam của người Việt Nam, vì đâu cắt chia để lòng nát tan, đây Bến Hải là nơi ngăn cách đôi đường! Nhạc vàng là một trong những món hành trang tinh thần được người ra đi không quên mang theo. Những tác phẩm được gọi là tiền chiến rồi đã được hát, được nghe và phổ biến khắp phương Nam. Trên đất Bắc, sau cuộc “đổi đời”, người ở lại cứ tưởng rồi sẽ có cơ hội cho văn hóa văn nghệ trăm hoa đua nở. Nhạc sĩ Hoàng Dương có lẽ cũng nghĩ như vậy. Ông từng vào Nam vài năm trước đó, vì nhớ: Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi, ánh đèn giăng mắc muôn nơi, áo màu tung gió chơi vơi…
Đó là lời của bài Hướng Về Hà Nội mà Hoàng Dương đã sáng tác và để lại ở miền Nam. Và chỉ có thế, từ khi hồi hương, ông không còn sáng tác nào đáng để lại cho đời nữa. Những bản nhạc tiền chiến khác như Con Thuyền Không Bến, Giọt Mưa Thu của Đặng Thế Phong; Cô Láng Giềng của Hoàng Quý, Xuân Và Tuổi Trẻ của La Hối, và nhiều bài ca của Văn Cao cũng như của Đoàn Chuẩn… cũng đã kịp theo người xuôi Nam.
Bên kia vỹ tuyến, còn đâu Suối Mơ dẫn lối về Thiên Thai, khi mà Tôi đi không thấy phố thấy nhà chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ, màu được xác nhận là biểu tượng của cờ in máu chiến thắng in hồn nước, đường vinh quang xây xác quân thù… Khác hẳn câu ca nhân bản của Phạm Duy: Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai? Nơi phương Nam đất lành chim đậu, cũng có những mối Tình Quê Hương: Anh về qua xóm nhỏ, em chờ dưới bóng dừa, nắng chiều lên mái tóc, tình quê hương đơn sơ, sẵn lòng hòa hợp với nhau trong cuộc sống: Em gái Bắc Ninh, anh trai Biên Hòa, anh quê Thanh Nghệ, em nhà Cà Mau, se duyên Nam Bắc dạt dào tình thương. Và kia rồi, Hòn Ngọc Viễn Đông, phố xá thênh thang đón chân ta đến nơi này, Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi!
Sài Gòn, chính Sài Gòn và hàng chục thành phố khác đã được người di cư 54 cùng người Trung và người Nam chung sức xây dựng tạo nên một thời phát triển và thịnh vượng không thua kém Singapore, Đài Loan và cả Nam Hàn. Không thể không kể đến những thành quả vàng son của văn học nghệ thuật, đặc biệt là trong lãnh vực âm nhạc. Nữ văn công của “bên thắng cuộc”, Dương Thu Hương, khi vào Nam năm 1975, đã vô cùng sửng sốt khi được chiêm ngưỡng những thành quả ấy! Bé cái lầm đã sáng mắt biết rằng té ra trước đó đã sống trong Thiên Đường Mù, không hề giống Thiên Thai của Văn Cao và Thế Lữ.
Thực vậy, rất nhiều thi văn sĩ trí thức cùng thời với hai vị ấy đã sớm nhận ra Mặt Thật nhưng đã quá muộn! Ở miền Nam, khác hẳn với miền Bắc, học trò vẫn được học và yêu chuộng những danh tác văn thơ nhạc tiền chiến, cho dù sau 1954 các tác giả đã trở thành đảng viên. Sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, tất cả chỉ là vang bóng một thời, các tác giả đành ngậm bồ hòn làm ngọt, ăn cơm chúa múa tối ngày để sống còn, ngay cả Huy Cận lúc ấy là thứ trưởng Văn hóa cũng đành Ngậm Ngùi, còn như Nguyễn Tuân lúc về già đã thú nhận: Tôi còn sống vì tôi biết sợ!
Nhưng trong thâm tâm, nhiều đồng chí trong văn giới với ông hẳn đã sớm nghiền ngẫm bài thơ “tiên tri” Nhớ Rừng của Thế Lữ: Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt, ta nằm dài trông ngày tháng dần qua… Khinh lũ người ngạo mạn ngẩn ngơ, giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm! Thực ra, giới văn nghệ sĩ miền Bắc đã có dịp thưởng thức văn hóa văn nghệ của miền Nam khá sớm, vì âm nhạc qua đài phát thanh Sài Gòn đã vượt không gian qua bức màn sắt để đến tận tai mọi người, kể cả người mù!
Theo lời nhạc sĩ Tô Hải viết trong hồi ký tự thú Thằng Hèn: Vào khoảng những năm đầu thời 1960, ở Hà Nội có Vụ Án Nhạc Vàng liên quan đến nhiều quan chức trong ngành văn hóa, nhiều lần tụ tập nghe nhạc Sài Gòn và sở hữu máy thu thanh là đồ quốc cấm! Máy thu thanh, miền Bắc gọi là đài, bị cấm vì Hà Nội sợ dân chúng lén nghe “tuyên truyền của địch” và nghe nhạc Sài Gòn. Tuy vậy, vào thời ấy hiện tượng mê nhạc vàng đã xảy ra sau khi hàng vạn chiếc radio Ấp Chiến Lược đã được máy bay Mỹ thả xuống miền Bắc, đa số bị chính quyền tịch thu nhưng cũng có nhiều radio được người dân cất giấu.
Rốt cuộc, những văn nghệ sĩ trong Vụ Án Nhạc Vàng chỉ bị kiểm điểm và phê bình nội bộ, tất nhiên cấp trên của họ không muốn bứt dây động rừng và không muốn quảng cáo không công cho nhạc vàng. Tuy nhiên, cây muốn lặng mà gió chẳng muốn dừng. Thử tưởng tượng những xúc cảm sững sờ của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Hữu Loan, Thế Lữ, Huy Cận, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Hoàng Dương, Nguyễn Bính… khi nghe nhạc và thơ của họ được phổ nhạc vẫn luôn được người miền Nam yêu chuộng.
Hơn thế nữa, họ còn được thưởng thức hầu hết sáng tác của những nhạc sĩ cùng thời hiện còn ở Bắc hay đang sống trong Nam như Lê Thương, Nguyễn Văn Tý, Thông Đạt, Lê Trạch Lựu, Hoàng Giác, Phạm Duy, Nguyễn Văn Thương, Doãn Mẫn, Hoàng Trọng, Dương Thiệu Tước, Xuân Tiên, Tô Vũ, Văn Phụng, Phạm Trọng Cầu, Phạm Đình Chương, Hoàng Thi Thơ… nối tiếp với Nguyễn Văn Đông, Anh Việt Thu, Nguyễn Hiền, Lê Trọng Nguyễn, Cung Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Nhật Ngân, Song Ngọc, Hoàng Nguyên, Thanh Sơn, Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn, Phạm Thế Mỹ, Trầm Tử Thiêng, Anh Việt, Lê Hựu Hà, Y Vân, Lê Dinh, Minh Kỳ, Y Vũ, Trường Sa, Lê Huy Linh Vũ, Dũng Chinh, Lê Uyên Phương…
Cùng nhiều nhạc sĩ tên tuổi không kể xiết thi thố tài hoa muôn hình muôn vẻ. Tất cả cùng xây dựng và điểm tô nên một tòa lâu đài nhạc vàng Việt Nam bền vững và huy hoàng tráng lệ! Chắc chắn tự sức mạnh của riêng nhạc vàng không thể đọ với vũ khí sát thương và tính ngông cuồng của con người, để quyết định hồi kết của một cuộc chiến tranh. Nhưng ai đem thành bại luận anh hùng?
Điều này chính nhạc vàng đã có câu trả lời. Nhạc vàng từng có thời góp sức động lực cho hàng vạn người tung cánh chim tìm về tổ ấm. Những người chủ chiến không thể chấp nhận thực tế ấy nên tuyệt đối cấm dân chúng không được nghe nhạc vàng, nhất là giới bộ đội trẻ bị xua vào Nam. Chúng tôi, trong một chuyến công tác văn nghệ cho Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đóng quân tại làng Cổ Bi Hiền Sĩ cạnh sông Bồ thuộc Huế, vào dịp Tết Quý Sửu đầu năm 1973 khi Hiệp định ngừng bắn vừa ký kết, còn nhớ rằng khi chương trình ca nhạc vừa bắt đầu, lập tức đã có tiếng gõ thùng, gõ mõ và súng nổ báo động ầm ĩ của bộ đội bên kia bờ của khúc sông hẹp.
Một vị sĩ quan Dù nói với chúng tôi: “Các anh chị yên trí, thủ trưởng của họ sợ lính nghe nhạc của mình lắm, nhưng không dám làm càn đâu”. Lúc ấy anh em binh sĩ Dù vẫn ngồi, phân tán rải rác mà không hàng ngũ như thường lệ nhưng súng M.16 sẵn sàng bên cạnh, chăm chú nghe bài hát Xuân Này Con Không Về mà họ vừa yêu cầu: Bao lớp trai hùng chào xuân chiến trường, không lẽ riêng mình êm ấm…
“Nhạc của mình” chính là nhạc vàng, nhưng thú thật trước năm 1975 tôi chưa từng được nghe nhắc đến mỹ từ ấy, dù đã nhiều năm làm việc cùng sở với các vị Lam Phương, Duy Khánh, Đan Thọ, Nhật Trường, Bảo Thu, Giao Tiên, Elvis Phương… Mãi đến khi vào trại giam vì thuộc “bên thua trận”, nhiều người bạn tù thắc mắc hỏi cai tù tại sao lại đọc là nhạc vàng nhay nháy trên đài phát thanh hoặc trong sách báo.
Được trả lời rằng, “nhạc vàng” viết trong ngoặc kép là để nhấn mạnh nhạc của miền Nam, của cờ vàng “phản động”, nhằm phân biệt với nhạc đỏ không nhay nháy phục vụ lý tưởng cờ đỏ! Nhưng khoảng mười năm sau ngoài nhà tù lớn, hai dấu ngoặc kép dần dần không còn đeo bám nhạc vàng nữa. Quả là một lai lịch kỳ thú! Bất chấp bị nung trong lửa đỏ, bị vùi dập dưới bùn đen; cho đến nay hàng ngàn bản nhạc vàng vẫn được trình diễn, được hát và được nghe khắp nước, ngay cả những tác phẩm ca ngợi người lính từng hàng hàng lớp lớp dưới bóng cờ vàng.
Sau Chuyến Đò Vỹ Tuyến hai mươi năm, người Việt phải trải qua một bất hạnh khác. Nhạc sĩ Nam Lộc thời trẻ đã “mất” Hà Nội, đến tuổi trung niên lại phải đau lòng Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt. Đó cũng là nỗi xót xa của hàng vạn người khác. Nhưng may mắn thay, người vượt biển vẫn mang theo quê hương nên đã tạo dựng được một Little Saigon trên đất Mỹ và nhiều khu phố có hàng ngàn đồng hương tập hợp bên nhau luôn có cờ vàng bay phất phới. Những dịp lễ Tết truyền thống, những buổi tưởng niệm anh hùng liệt nữ luôn được long trọng tổ chức hàng năm, nơi chiếc nón lá và tà áo dài được thấy hàng ngày, nơi đồng bào vẫn nói với nhau bằng tiếng mẹ đẻ: Tiếng nước tôi, bốn ngàn năm thành tiếng lòng tôi, tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi… Và lời mẹ ru chính là khúc tình ca dân dã tuyệt vời đầu tiên của nhạc vàng suốt đời không ai quên được.
_______
Thực vậy, dân Việt kể cả thế hệ trẻ vẫn nhớ, vẫn hát, vẫn nghe nhiều bản nhạc vàng xưa nhất có tuổi bằng một đời người hoặc thậm chí hơn. Gia tài nhạc vàng, từ đợt di cư đầu tiên chỉ có vài chục bản, đến nay đã có đến hàng ngàn bản. So với vàng, một quý kim bậc nhất nhưng có giá trị càng nhỏ khi phân ra nhiều phần; ngược lại, nhạc vàng càng thêm cao quý khi được ngàn vạn người chia sẻ, tỏa rạng như ánh hào quang. Dưới ánh hào quang đó, người ta có thể nhận ra bóng dáng của hàng trăm nghệ sĩ tài hoa đã đem lời ca tiếng hát cống hiến cho đồng bào. Rõ ràng, trên những bước đường nước non ngàn dặm ra đi, nhạc vàng luôn được trân trọng mang theo và vẫn ân cần để lại, cũng như đã ưu ái gởi về mà Việt Dũng khiêm nhượng gọi là Chút Quà Cho Quê Hương.
PHẠM VĂN
Rosemead, California
Theo SGN News ngày 24 tháng 2, 2022 Show more 1 year ago



PHẠM VĂN Show more 1 year ago





