⭐️Bs TRẦN PHƯƠNG TUYỀN (Moderator)

⭐️Bs TRẦN PHƯƠNG TUYỀN (Moderator)

NGHỆ THUẬT NẤU BẾP VÀ NGƯỜI VIỆT ĂN UỐNG THẾ NÀO

NGHỆ THUẬT NẤU BẾP VÀ NGƯỜI VIỆT ĂN UỐNG THẾ NÀO
GS. Trần Văn Khê 
 
 
 
Người Á Đông vốn ăn uống điều độ và hài hoà hơn người phương Tây. Nhưng khi nói đến Việt Nam thì thế giới luôn ngưỡng mộ bởi sự kết hợp rất cân bằng và tinh tế. Nhật Bản và Trung Quốc cũng có những nét hay riêng trong ẩm thực nhưng làm sao bằng Việt Nam mình được đúng không Bài viết dưới đây là của GS Trần Văn Khê sẽ phân tích rõ những cái hay, những nét khác biệt của ẩm thực Việt so với Tàu. 
Hi vọng rằng “người Việt thì hãy ưu tiên xài hàng Việt”, đừng ham Fast food làm chi nha.
 
 
Cách đây hơn 30 năm, tại Paris, người bạn của tôi mở một hiệu ăn Việt Nam, nhưng có cả bếp Trung Quốc và bếp Việt Nam để phục vụ cho khách “cơm Tàu và cơm ta”. Hôm lễ khai trương, có mời đại diện báo chí, phát thanh, truyền hình Pháp đến dự cuộc họp báo. Có nhiều PV đặt câu hỏi : “Hiệu ăn này có thức ăn Trung Quốc và Việt Nam. Cách nấu ăn và thức ăn có chi khác nhau giữa Trung Quốc và Việt Nam hay chăng?”. Anh bạn tôi mời hai đầu bếp Trung Quốc và Việt Nam ra hỏi thì hai người đều nói : “Khác lắm chớ! Cứ vào bếp coi chúng tôi nấu thì biết!”. Mà ký giả quá đông, không vào bếp được. Anh bạn tôi nói nhỏ với tôi : “Anh trả lời giùm tôi với mấy ông nhà báo câu hỏi của họ để còn khai tiệc lớn sau tiệc khai vị”.
 
Tôi họp các phóng viên lại và nói :
“Các bạn muốn biết giữa Trung Quốc và Việt Nam có gì khác nhau trong nghệ thuật nấu ăn. Tôi xin đơn cử ra 3 điểm :
 
1/ Người Trung Quốc thường dùng bột mì - Người Việt Nam thường dùng bột gạo.
 
 
Do đó, khi người Trung Quốc nấu mì thì người Việt Nam nấu phở và hủ tíu. Người Trung Quốc ăn bánh bao thì người Việt ăn bánh đùm, bánh xếp, bánh bèo, bánh cuốn. Loại chả giò của người Trung Quốc làm bằng bánh tráng bột mì cuốn thịt, giá chiên dòn; chả giò của người Việt cuốn bằng bánh tráng bột gạo.
 
2/ Nước chấm của người Trung Quốc là nước xì dầu làm bằng đậu nành. Nước chấm của người Việt là nước mắm làm bằng cá.
 
 
3/ Khi trộn các gia vị, người Trung Quốc thường ưa trộn “chua – ngọt”, người Việt trộn “mặn – ngọt”.
 
 
Còn nhiều điểm khác nữa, nhưng tôi nghĩ 3 điểm đó tạm đủ để các bạn thấy qua cái khác nhau trong nghệ thuật ẩm thực giữa người Trung Quốc và người Việt”.
Các nhà báo đều thích thú và đăng lên các báo câu trả lời của tôi.
 
Mấy ngày sau, một phóng viên trở lại hiệu ăn tìm tôi và nói : “Ông Tổng biên tập của tôi bảo tôi tìm ông hỏi thêm vài câu, vì hôm trước, ông có nói còn những điểm khác nhau mà ông mới chỉ đưa ra 3 điểm. Vậy ông có thể cho chúng tôi biết còn điểm nào khác nhau nữa chăng?”.
“Hôm nay, tôi có thể nói thêm về 3 điểm khác. Trong cách nấu ăn thì có 3 món chính, ngoài các thứ gia vị. Đó là thịt, cá và rau.
 
1/ Thịt thì người Trung Quốc và Việt Nam đều có thịt quay, thịt nướng, thịt kho, thịt hầm, thịt chà bông, thịt dồn lạp xưởng…. Nhưng người Việt Nam còn dùng thịt sống, ướp muối, tỏi, thính, gói bằng lá vông để làm nem chua mà người Trung Quốc không có.
 
2/ Cá thì người Trung Quốc và người Việt Nam đều có các loại : cá chiên, cá hấp, cá kho, cá chưng, cá nấu canh, cá nướng trui, cá phơi khô v.v… nhưng cá làm mắm như người Việt Nam thì người Trung Quốc không có.
 
 
Mắm là một thức ăn đặc biệt của vùng Đông Nam Á. Người Thái, người Khmer, người Phi Luật Tân đều có mắm. Nhưng mắm làm với đủ loại cá như cá lóc, cá sặc, cá cơm và các loại tép, tôm thì Việt Nam mới có. Các loại mắm : mắm Thái, mắm ruốc, mắm nêm, mắm hếch v.v… Người Việt có thể được coi là có nhiều sáng tạo trong cách chế biến các thứ cá thành mắm. Khi ra nước ngoài cũng có cách chế biến với các loại cá khác. Vợ một người bạn của tôi đã có cách “bỏ mắm” bằng cá mulet bên Pháp, ăn giống như mắm cá lóc Việt Nam.
 
3/ Rau thì người Trung Quốc và Việt Nam đều ăn rau luộc, rau xào, rau làm dưa. Người Việt thích ăn rau sống.
 
 
Có rất nhiều loại rau sống, rau răm, húng cây, húng lủi, rau dấp cá, tía tô, các loại ngò, hành lá, rau om v.v… Các thứ rau đó cũng là những vị thuốc.
Đó là 3 điểm khác nhau giữa cách dùng thịt, cá, rau để làm bếp giữa người Trung Quốc và người Việt Nam.
Ngoài ra, người Trung Quốc khi nấu dùng lửa lớn, người Việt Nam thường nấu lửa riu riu.
 
 
 
* Người Việt Nam có cách ăn chi đặc biệt không?
 
Người Việt có 3 cách ăn :
 
– Ăn toàn diện :Tức là ăn bằng ngũ quan. Trước hết, ăn bằng con mắt : thức ăn được trình bày cho đẹp mắt, có nhiều màu sắc, hình thức hấp dẫn. Rồi đến ăn bằng mũi : có mùi thơm bốc lên từ thức ăn, từ nước chấm là nước mắm, từ những loại rau thơm, rau mùi hoặc nước cà cuống. Sau đó, răng chạm vào thức ăn mềm như bún, dai như thịt luộc, giòn như giá, như sứa, như cải. Có khi nhai những món giòn như đậu phộng, tai nghe tiếng lốc cốc. Không nghe từ bên trong như khi nhai đậu phộng hay bánh phồng tôm, mà còn nghe được âm thanh từ việc bẻ bánh tráng nướng “rôm rốp”. Sau khi thấy, ngửi, nhai, nghe, mới bắt đầu nếm và thưởng thức bằng lưỡi mùi vị của món ăn, như thế là ăn toàn diện.
 
– Ăn khoa học :Theo sự nghiên cứu của nhiều vị trong Đông y và đặc biệt của các chuyên gia Nhật Bản, có thể nói một cách tổng quát, món ăn mặn thuộc về dương, món ăn ngọt và chua thuộc về âm. Vì vậy, khi pha nước mắm (mặn = dương) thì có giấm (chua = âm) và đường (ngọt = âm). Như vậy là âm – dương cân bằng. Khi kho thịt kho cá có nước mắm, lại có thêm chút đường. Khi ăn món chi ngọt thì pha chút muối (dưa hấu ngọt thì thoa chút muối, xoài tượng chua thì chấm nước mắm v.v… ).
Ngoài âm – dương còn hàn nhiệt. Cá trê, cua đinh hay thịt vịt luộc thuộc về hàn nên ăn với nước chấm có pha gừng (nhiệt). Ăn mà nghĩ đến việc tìm quân bình giữa âm và dương, hàn và nhiệt là ăn khoa học.
 
– Ăn dân chủ :Các thức ăn dọn cả thảy lên bàn, thích món nào ăn món nấy, ăn ít – nhiều tùy khẩu vị và sức ăn của mình, không bị ép ăn những món mình không thích. Như vậy là ăn dân chủ. Đó là 3 nét chính. Ngoài ra còn có cách ăn bì cuốn, nem cuốn, ngày xưa chấm chung một chén nước mắm.
 
Cách ăn lễ phép, ăn coi nồi, ngồi coi hướng. Không ăn nhiều khi nồi cơm chủ nhà đã lưng”.
 
 
 
 
* Còn nghệ thuật nấu bếp của Việt Nam có theo nguyên tắc nào không?
 
Không có nguyên tắc nêu rõ. Thầy dạy nấu bếp chỉ dạy cho học trò nấu cho ngon, trình bày cho khéo. Nhưng xét kỹ thì có 3 nguyên tắc chính :
 
– Thứ nhất, người ăn thích “ăn toàn diện” thì nghệ thuật nấu bếp là làm vừa lòng người ăn. Vì vậy cũng phải nấu ăn cho vừa năm giác quan. Món ăn được trình bày cho đẹp mắt, tô canh, dĩa cá, dĩa rau đều có nhiều sắc màu cho vui mắt, cơm trắng, hột gà vàng, rau xanh, ớt đỏ, tiêu đen, kho thịt, kho cá, nước thịt, nước cá có màu chuỗi hổ. Nước canh phải trong chớ không đục. Món ăn phải có mùi thơm của thức ăn được xào nấu chớ không phải mùi tự nhiên. Vì vậy, kho thịt bò, thịt heo, kho cá cần hớt bọt cẩn thận cho nước trong mà không có mùi bò, mùi heo, mùi cá. Canh chua phải có mùi rau om, thịt bò kho hay nước phở có mùi hồi, bún thang có mùi cà cuống v.v…
 
 
 
Món ăn đặc biệt thường có trộn những món mềm, món dai, món giòn.
 
Nhiều món phải ăn với bánh phồng tôm, bánh tráng nướng, rắc đậu phộng rang, để chẳng những nhai thấy giòn, mà lỗ tai còn nghe tiếng rôm rốp, thích thú cho thính giác. Và lẽ tất nhiên, vị món ăn phải được nêm nếm cho vừa ăn, không quá mặn, quá ngọt, quá chua. Dầu cho là nấu canh chua, chớ chất chua phải vừa với vị mặn, vị ngọt, quá chua là mất ngon.
 
 
– Nguyên tắc thứ nhì là nấu ăn không đơn vị, mà là đa vị. Không có món ăn nào đơn thuần một vị. Chất mặn pha với chất ngọt, chất chua, pha trộn nhuần nhuyễn. Những món cuốn bánh tráng như nem nướng, cá nướng, thịt bò, ngoài giá giòn, rau xà lách, rau thơm còn có ớt cay, chuối chát, khế chua, chấm nước mắm pha giấm, đường, tỏi, ớt hay mắm nêm cũng pha chút đường hay tương ngọt trộn với nếp xay hay hột điều xay. Như vậy, một cuốn nem nướng, cá nướng hay thịt nướng đem đến cho người ăn 5, 6 vị khác nhau, mà tất cả đều hài hòa, không vị nào lấn vị nào.
 
 
– Nguyên tắc thứ ba là nấu ăn theo luật âm – dương cân bằng, hàn – nhiệt điều hòa. Không bao giờ để cho dương thiếu âm, âm thiếu dương. Khi mặn thì thêm ngọt, thêm chua cho vừa miệng, mà cũng tạo nên một sự quân bình giữa âm – dương, mà quân bình giữa âm – dương thường gặp trong Đông y, trong châm cứu, trong khí công, trong âm nhạc…
 
* Thưa giáo sư, ông có học trường nấu bếp nào chăng? Và học ở đâu?
 
– Ở Việt Nam có nhiều nơi dạy nấu bếp nhưng không có dạy theo những nguyên tắc nói trên. Tôi cũng không phải là một người đầu bếp chuyên nghiệp.
Tôi chỉ là một nhạc sĩ truyền thống, một nhà nghiên cứu dân tộc nhạc học. Nhưng vì “méo mó nghề nghiệp”, nhìn mỗi vật, mỗi sự kiện thường hay phân tích, đối chiếu, tổng hợp rút ra những nguyên tắc, nguyên lý hay định luật sau khi nhận xét và suy tư. Nhưng tôi đã trình bày cách nhận xét ấy cho những người chuyên về nghệ thuật nấu bếp thì được các vị ấy cho là đúng.
 
 
 
Câu chuyện giữa nhà báo bên phương Tây với tôi như thế. Bạn đọc quen biết tôi có lẽ ngạc nhiên khi thấy tôi không nói về chuyện nghiên cứu hay diễn tấu nhạc, mà lại nói về chuyện ăn. Thưa các bạn, người Trung Quốc thường nói : “Dĩ thực vi thiên” (có người nói Dĩ thực vi tiên), coi chuyện ăn uống cao qúy như trời. Chúng ta có câu : “Có thực mới vực được đạo”, mà người Pháp cũng có câu : “Ventre affamé n’a pas d’oreilles”, ý nói : Bụng đói thì lỗ tai không còn biết nghe nữa.
Thế là việc ăn uống trở nên quan trọng.
 
Đứa trẻ mới lớn lên phải học “Học ăn, học nói, học gói, học mở”, rồi đến “Ăn phải coi nồi, ngồi phải coi hướng”. Người Việt Nam thường thường để chữ “ăn” trước nhiều động từ khác như ăn mặc, ăn nói, ăn nhậu, ăn chơi, ăn thua, ăn quà, ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp, ăn mày, ăn xin, ăn gian, ăn hại, ăn chịu, ăn vạ… Dạy chuyện đời cũng có nghĩ đến việc ăn uống như :
– Liệu cơm gắp mắm/ Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm
– Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
– Uống nước nhớ người đào giếng
– Ăn chưa no, lo chưa tới
– No mất ngon, giận mất khôn
– Ăn thua đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau…
 
Trong lĩnh vực âm nhạc cũng thường cho cảm giác “nghe” thành cảm giác nếm như khen tiếng đờn của một danh cầm rất “ngọt”, chê giọng ca của một ca sĩ rất “chua”, rất “chát”. Cảm giác “thấy” cũng như cảm giác về việc đối xử cũng thành cảm giác “nếm” như nước da của một cô gái rất “mặn mòi”, cách đối xử tiếp khách của một người quá “lạt lẽo”, và mấy ai tránh khỏi cái “cay đắng” mùi đời.
Nước Việt Nam từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau có nhiều thức ăn, có nhiều cách nấu, mỗi vùng Bắc – Trung – Nam đều có những món ăn đặc biệt. Ngày trước, tôi vẫn nhớ có chả cá Lã Vọng, những loại nước chấm miền Trung, nem chua Thủ Đức và ngày nay, đất nước thống nhất, việc đi lại dễ dàng, người Việt gặp nhiều dân tộc khác nhau, nhưng cách ăn uống, nấu nướng vẫn còn giữ sắc thái dân tộc và nhiều du khách đến Việt Nam trong thời gian ngắn cũng như những người nước ngoài có dịp gần người Việt, sống tại nước Việt lâu năm cũng nhìn nhận rằng người Việt Nam có cách nấu ăn độc đáo, dễ làm vừa khẩu vị những người khó tính trong việc ăn uống.
 
GS. Trần Văn Khê 

Các món ốc ngon hấp dẫn

 Các món ốc ngon hấp dẫn

 

Ốc hấp lá gừng 

Ăn ốc ngắm trăng là một trong những nét văn hóa ẩm thực của người Hà thành xưa. Tuy nhiên, cách làm món này cũng khá cầu kỳ, không nhiều người còn biết.

Nguyên liệu 

  • 1,5 kg ốc nhồi to
  • 200 gr giò sống
  • 150 gr nạc vai xay
  • 6 cái nấm hương
  • 2 tai mộc nhĩ
  • 1 bó lá gừng
  • 1 củ gừng
  • 3 củ hành khô
  • 4 lá chanh
  • Gia vị: Mắm, muối, đường, giấm, chanh, hạt tiêu, ớt, tỏi

     

    1. Sơ chế

    • Ốc nhồi vào độ tháng 8 âm lịch theo kinh nghiệm xưa là bắt đầu béo căng, thịt giòn. Khi mua về thì ngâm nước vo gạo kèm vài lát ớt tươi cho nhả hết bùn đất. Ngày xưa, người dân Hà thành còn ngâm và thay nước vo gạo mấy hôm, rồi tới hôm rằm thì ngâm nước lã cho sạch. Ngoài ra, còn đập thêm trứng gà để ốc hút thêm độ béo tròn.

     

    • Đập nhẹ trôn ốc, khều lấy phần thịt ốc, bỏ phân, bóp chanh và muối hạt khử mùi và hết nhớt. Sau đó, rửa sạch nhiều lần, để ráo nước.

     

    2. Tẩm ướp

    • Lá gừng chọn lá bánh tẻ (không non quá hay già quá), lá dài, xanh thẫm, rửa sạch, để ráo nước.

     

    • Thịt ốc thái hạt lựu. Mộc nhĩ, nấm hương ngâm nở rửa sạch, thái nhỏ. Hành khô băm nhỏ, ớt bỏ hạt băm nhỏ, gừng thái nhỏ. Cho tất cả hỗn hợp thịt vai xay cùng giò sống, ốc và mộc nhĩ, hành khô, ớt, gừng vào âu lớn. Thêm 1 thìa cà phê nước mắm, 2 thìa cà phê hạt nêm, 2 thìa cà phê hạt tiêu. Đeo găng tay quết quật liên tục để nhân hòa quyện đều thành khối kết dính, dẻo dai.

     

    • Đặt 2 lá gừng chéo vào đầu miệng ốc, lấy thìa múc lượng nhân ấn vào cho đầy con ốc. Sau đó, thoa chút nước xoa đều ấn chặt cho đẹp, không bị dính, giúp cho khi hấp phần mọc ốc này không bị bung rời ra. Làm lần lượt cho tới hết.

     

    3. Chế biến

    • Cho ốc vào xửng hấp, thêm phần cuống cây gừng non vào hấp cho thơm. Sau 12-15 phút là ốc chín, lấy ra.

     

    • Làm nước chấm gừng: Giã nát tỏi, ớt, gừng, cho 2 thìa canh nước mắm, 2 thìa canh đường, 2 thìa canh nước, 1 thìa canh giấm khuấy đều. Thêm lá chanh thái sợi. Nêm nếm lại gia vị cho vừa miệng.

     

    Chú ý:

    • Cách chọn ốc nhồi ngon là miệng đầy, trôn ngắn, vỏ mỏng vì ốc này có nhiều thịt, béo giòn.
    • Làm ốc sống lấy phần thịt để sơ chế, nhằm đảm bảo khi hấp ốc chín tới giữ độ giòn ngon. Việc tỉ mỉ chế biến thể hiện sự cầu kỳ, tinh tế trong thưởng thức ẩm thực của người Hà Nội.
    • Theo Đông y, ốc mang tính hàn (lạnh) vì thế cần thêm gừng, ớt, hạt tiêu để cân bằng hài hòa âm dương.
    • Chỉ nên hấp khoảng 12 - 15 phút tùy kích thước con ốc to hay nhỏ vì nếu hấp lâu quá thì ốc bị quắt dai và lá gừng bị vàng úa.

VĨNH BIỆT NHẠC SĨ QUỐC DŨNG (1951-2023)

VĨNH BIỆT NHẠC SĨ QUỐC DŨNG

(1951-2023)

 

ns-qd.jpg

 

Sau thời gian sức khỏe bị suy yếu vì nhiều chứng bệnh, nhạc sĩ Quốc Dũng đã qua đời sáng ngày 24/9/2023, thọ 72 tuổi. Ông vừa là ca sĩ, vừa là nhạc sĩ với những bài hát quen thuộc với giới trẻ Sài Gòn: Mai, Điệp Khúc Mùa Xuân, Quê Hương Và Mộng Ước, Cơn Gió Thoảng, Em Đã Thấy Mùa Xuân Chưa, Hoang Vắng… Nhạc sĩ Quốc Dũng tên thật là Nguyễn Quốc Dũng, sinh năm 1951 tại Thái Lan. Năm 1954, gia đình ông hồi hương trở về Sài Gòn sinh sống theo lời kêu gọi của chính quyền miền Nam gửi đến kiều bào ở nước ngoài.


Nhạc Sĩ Quốc Dũng tên thật là Nguyễn Quốc Dũng, Ông sinh năm 1951 tại Thái Lan. Năm 1954, khi Nhạc Sĩ Quốc Dũng 3 tuổi, gia đình ông hồi hương trở về Việt Nam. Năm 10 tuổi, Nhạc Sĩ Quốc Dũng vào học tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn và năm 16 tuổi ông tốt nghiệp thủ khoa môn nhạc pháp Tây phương. Sau khi đỗ Tú tài 2, Quốc Dũng vào học tại Viện Đại học Vạn Hạnh.

 

 

Là người có năng khiếu âm nhạc từ nhỏ nên khi mới 10 tuổi, Quốc Dũng được gửi vào học tại trường Quốc gia Âm nhạc ở Sài Gòn, đồng thời theo học nhạc trong Ban Tuổi Xanh của kịch sĩ Kiều Hạnh. Năm 15 tuổi ông được đã trình diễn mandolin trên truyền hình trong dàn nhạc đại hòa tấu, và đến năm 16 tuổi đã tốt nghiệp thủ khoa môn nhạc pháp Tây phương.




Nhạc sĩ Quốc Dũng ngoài cùng bên phải, chụp với Ban Tuổi Xanh


Nhạc sĩ Quốc Dũng sáng tác từ rất sớm, mới 11 tuổi đã soạn bản nhạc đầu tiên, nhưng đó là nhạc không lời. Đến khi tốt nghiệp trường nhạc thì ông mới hoàn thành một tác phẩm hoàn chỉnh và đặc tên là Em Đã Thấy Mùa Xuân Chưa, trở thành tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp của ông.

Từ thập niên 1960, phong trào nhạc trẻ bắt đầu phổ biến ở miền Nam, ban đầu là sự xuất hiện của các ban nhạc trẻ chủ yếu hát nhạc nước ngoài tại các club Mỹ. Sau đó, những giai điệu sôi động của nhạc ngoại bắt đầu gây được ảnh hưởng đối với giới trẻ Việt Nam, vì vậy từ cuối thập niên 1960 bắt đầu xuất hiện nhạc ngoại lời Việt để phục vụ cho nhu cầu nghe nhạc pop-rock bằng tiếng Việt của khán giả trẻ.

 

 

Sang thập niên 1970, các nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà, Tùng Giang… đã tiên phong soạn các ca khúc nhạc trẻ hoàn toàn bằng tiếng Việt, và Quốc Dũng cũng góp mặt với những ca khúc nổi tiếng: Mai, Cơn Gió Thoảng, Thoát Ly, Hoang Vắng, Điệp Khúc Mùa Xuân, Quê Hương Và Mộng Ước, Bên Nhau Ngày Vui…

Không chỉ thành công trong lĩnh vực sáng tác, Quốc Dũng còn là một ca sĩ, một thời cùng với Thanh Mai tạo thành một đôi song ca nổi tiếng nhất của nhạc trẻ Sài Gòn nhờ sự kết hợp của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 (thầy của ca sĩ Thanh Mai).

 

 

Thanh Mai và Quốc Dũng Ngoài ra, nhạc sĩ Quốc Dũng có ca khúc tên là Mai rất nổi tiếng: Mai! Anh đã quen em một ngày Anh đã yêu em một ngày Một tình yêu quá không may… Ngoài vai trò ca sĩ, nhạc sĩ, Quốc Dũng còn là diễn viên, từng đóng vai nam chính trong bộ phim Trường Tôi của đạo diễn Lê Dân thực hiện năm 1973.

 

 

Với khả năng sáng tác, biểu diễn và sử dụng mandolin, guitar, piano, trống, bass, keyboard, organ thuần thục, Quốc Dũng được đánh giá là một trong những gương mặt tiêu biểu của nhạc trẻ trước năm 1975. Thập niên 1980-1990, nhạc sĩ Quốc Dũng còn là một trong những nhạc sĩ hòa âm nổi tiếng nhất ở trong nước, đã thực hiện hàng trăm băng dĩa nhạc.  

 

 

Bảo Yến và Quốc Dũng thập niên 1980 Sau năm 1975, Quốc Dũng ở lại Việt Nam và bắt đầu sáng tác nhiều bài nhạc vàng nổi tiếng là Chuyện Hợp Tan, Ngại Ngùng, Chuyện Ba Người, Mắt Huế Xưa… và Lối Thu Xưa. 

 

 

Vào cuối thập niên 1980, nhạc sĩ Quốc Dũng  phổ nhạc cho thơ của thi sĩ Xuân Kỳ thành những bài hát nổi tiếng: Ngại Ngùng, Chuyện Ba Người, Kẻ Đau Tình, đồng thời kết hợp với Nguyễn Đức Cường trong các ca khúc được yêu thích là Đường Xưa, Chuyện Hợp Tan, Hạt Mưa Và Nỗi Nhớ… Cũng trong thời gian này, nhạc sĩ Quốc Dũng chơi nhạc trong ban nhạc của đài, phụ trách hòa âm phối khí cho các chương trình ca nhạc phát trên đài truyền hình. Tại đây ông đã gặp ca sĩ Bảo Yến, là ca sĩ, kiêm thư ký cho đài truyền hình. Họ bắt đầu một chuyện tình đẹp, và trở thành vợ chồng năm 1983.

 

nhac-si-quoc-dung.jpg

 

Thời điểm những năm 1970, nhạc sĩ Quốc Dũng trở thành gương mặt tiêu biểu cho nhạc trẻ với khả năng sáng tác, biểu diểu, sử dụng nhiều nhạc cụ như trống, guitar, dương cầm, trống, bass, keyboard, organ..

Ca khúc "Bài ca Tết cho em" được ca sĩ Bảo Yến thể hiện 

Nhắc đến Quốc Dũng, người ta sẽ nghĩ ngay đến Bảo Yến, nàng thơ và cũng là người bạn đời của ông. Cả hai kết hôn sau năm 1975. Nhiều người cho rằng, thành công của Bảo Yến được đến sự hậu thuẫn rất lớn của chồng với những bản phối hiệu quả, có sức sống lâu dài.

Ca khúc thể hiện cho sự thành công của cặp đôi Quốc Dũng - Bảo Yến phải kể đến Bài ca Tết cho em - tình khúc về mùa xuân nổi tiếng đến tận hiện nay. Tác phẩm ra đời năm 1982, được xem là món quà đánh dấu cột mốc yêu đương của Quốc Dũng dành cho Bảo Yến.

 

 

 

Trong gia tài hàng trăm bài hát của Quốc Dũng, Bài ca Tết cho em là một trong những tình khúc kinh điển về mùa xuân, gắn liền với người vợ hiện tại của ông - danh ca Bảo Yến. Ra đời năm 1982, bài hát được Quốc Dũng viết riêng cho Bảo Yến.

Trong nhiều lần, Bảo Yến tâm sự dù hát Bài ca Tết cho em rất nhiều lần, nhưng lần nào cô cũng đều cảm thấy vui, ấm áp trong lòng và cảm xúc vẫn còn nguyên vẹn như lúc trái tim cô rung động trước lời tỏ tình của Quốc Dũng.

Trước khi lập gia đình với Bảo Yến, nhạc sĩ Quốc Dũng từng trải qua cuộc hôn nhân 6 năm với người vợ đầu. Thập niên 1990, nhạc sĩ Quốc Dũng cũng có nhiều sáng tác nhạc trẻ ăn khách, tiêu biểu là Người Về Từ Lòng Đất, Cho Em Ngày Nắng Xanh, 9 Con Số 1 Linh Hồn, Chợt Như Năm 18…

 

Con trai Bảo Yến lên tiếng về chuyện trục trặc của bố mẹ

Gia đình nhạc sĩ Quốc Dũng và ca sĩ Bảo Yến

 

Năm 2013, nhạc  sĩ Quốc Dũng từng bị tai nạn giao thông nguy kịch khiến sau đó sức khỏe ông dần suy giảm.  Những năm tuổi xế chiều, nhạc sĩ vẫn thi thoảng xuất hiện cùng vợ trong một số buổi biểu diễn. Ký ức lúc nhớ, lúc quên nhưng ông luôn coi mình là người may mắn vì được sống và dấn thân trọn vẹn cho âm nhạc.

Sự ra đi của nhạc sĩ Quốc Dũng để lại nhiều tiếc thương cho bạn bè, đồng nghiệp.

Nhạc sĩ, nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh cho biết khi nhận tin, ông buồn và xúc động vì nhớ kỷ niệm với Quốc Dũng.

Ông chia sẻ về tác giả Bài ca Tết cho em: "Tiễn biệt anh, một tài năng lớn của âm nhạc với hàng trăm tác phẩm để lại. Đặc biệt, về âm nhạc miền Nam, nhạc trẻ sôi động, đổi mới và đa dạng không thể không nhắc đến anh, nhạc sĩ Quốc Dũng".

Nhạc sĩ Quang Thành chia sẻ về đàn anh: "Với rất nhiều bài hát, những bản hòa âm mang nét riêng biệt, anh luôn được giới trẻ từng thời kỳ, nhiều thế hệ yêu thích. Anh sẽ mãi ở lại trong lòng người yêu nhạc".

 

Nhạc sĩ Quốc Dũng qua đời - 2sao

Theo dõi RSS này