Sáng tác

Sáng tác (46)

Một Sớm Chớm Thu - Nguyễn Giụ Hùng

Một Sớm Chớm Thu 

Nguyễn Giụ Hùng

Một Sớm Chớm Thu

NGH

 

              

Ảnh ngưới viết (NGH) chụp tại vườn Nhật-Portland-Origon-Hoa Kỳ

      Hôm nay có phải trời như đang chớm ngả sang thu? Thời tiết hơi lành lạnh so với mấy ngày nóng bức trước đây.

     Sáng sớm thức dậy, tôi đứng nhìn qua cửa sổ thấy bầu trời vẫn xanh và trong vắt. Trong sân sau nhà, ở cuối bãi cỏ, những cánh hoa hồng vẫn rực rỡ khoe sắc thắm. Cây cổ thụ bên nhà hàng xóm chĩa cành sang, lá vẫn xanh tươi, không chiếc lá vàng nhưng sao tôi thấy trong lòng có chút gì vướng víu, man mác buồn vu vơ như đang chìm mình trong cái dịu dàng của muà thu thường đem đến cho tôi. Thu đã đến với đất trời hay mới chỉ đến trong lòng tôi với cái buồn nhè nhẹ.

        Sầu thu lên vút, song song

        Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu.

     (Thơ Huy Cận)

     Không biết lúc này tôi có đang giống như những cô thiếu nữ của nhà thơ Xuân Diệu hay không?

      Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

      Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.

    Tôi chợt nhớ đến những mùa thu miền Bắc. Mùa thu miền Bắc không có nhiều cây với lá mầu rực rỡ như ở đây (Mỹ), ngoại trừ thường thấy nhất ở cây bàng với lá vàng lá đỏ, còn phần lớn là những mầu héo úa để chờ đợi rơi rụng và trở thành trơ trụi vào mùa đông. Tuy không có nhiều lá thu rực rỡ, nhưng nó có gió heo may lành lạnh, không đủ lạnh để mặc áo bông, nhưng đủ lạnh để ta mặc chiếc áo len mong mỏng. Các cô thiếu nữ điểm tô cho thu bằng những chiếc khăn "san" màu theo gió nhẹ bay phủ bờ vai.

     Mùa thu là mùa của sen trắng sen hồng đua nhau mọc trong hồ sen. Cô thiếu nữ với chiếc yếm hồng chèo chiếc thuyền nhỏ, lách lượn trong hồ để hái nụ hay hoa sen đem ra chợ bán. Hình ảnh này cũng là hình ảnh đẹp và phổ thông như một biểu tượng của mùa thu miền Bắc.

     Mùa thu là mùa của cốm, mà cốm nổi tiếng nhất là cốm của làng Vòng thuộc ngoại ô Hà Nội, nôm na gọi là cốm Vòng, có mầu xanh biếc của ngọc lại dẻo và thơm, thơm mùi lúa non lẫn mùi lá sen dùng để gói cốm. Người ta ăn quả hồng chín đỏ mềm mại hay “chuối tiêu” với cốm. Hồng không phải ở tỉnh nào miền Bắc cũng có. Riêng hồng Bạch Hạc thuộc Việt Trì nổi tiếng ngon hơn cả, thường được mua để biếu nhau.

     Gắng công kén hộ cốm Vòng

     Kén hồng Bạch Hạc cho lòng anh vui

     Mùa thu là mùa của rươi, chúng được gánh đi bán trên đường phố. Rươi là món ăn được ưa thích thường được rán với trứng, trộn lẫn tý vỏ quýt thái nhỏ làm gia vị. Rươi có vị bùi và beo béo. Món ăn này còn được gọi là chả rươi. Mỗi năm có vài ngày có rươi. Chỉ được ăn một lần là đã hết mùa rươi. Rươi nở rộ vào vài ngày “mưa rươi” ở những vùng ven biển.

     Nhưng mùa thu không phải chỉ để ăn những món ngon lạ trong mùa mà còn là mùa dành cho loài người cái êm dịu của thiên nhiên làm lòng người rất dễ dàng rung động với nó. Thu thường hay mang cho ta những nỗi buồn vu vơ, trầm trầm như những tiếng thủ thỉ của lá cây xào xạc trong cơn gió nhẹ. Chẳng thế mà bao nhiêu thi sĩ và nhạc sĩ đã trải lòng mình rung động với thu và cống hiến cho đời biết bao nhiêu tuyệt phẩm về thu, vượt cả thời gian lẫn không gian.

     Trong văn chương Việt Nam, nói về thu, ta không thể không kể đến ba bài thơ của cụ Nguyễn Khuyến đó là Thu điếu, Thu ẩmThu vịnh. Ba bài thơ này đã được đưa vào chương trình giáo khoa của học sinh bậc Trung Học trước đây (trước 1975).

      Trong 3 bài thu trên, bài Thu Điếu (Mùa thu ngồi câu cá) là bài được nhắc nhở đến nhiều hơn cả.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng nước theo làn hơi gợn tý,

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tưạ gối ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

     Với tôi, bài thơ này nói lên gần hết được cái cảnh, cái tình của mùa thu miền Bắc:

     Trong cái không gian bao la ở phía trên với

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

      Cảnh vật bên dưới thì yên lặng buồn tênh với

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

      Chiếc thuyền con chứa đựng hình ảnh của một ngư ông

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

      Và bên cạnh đó là cái cô quạnh của một

                 Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

      Mọi thứ tĩnh lặng chỉ trừ một chút lay động nho nhỏ rơi vào cái tĩnh mịch đủ để cho cảnh thu ấy không chết như với tý gió heo may tạo nên Sóng nước theo làn hơi gợn tý, hay của Cá đâu đớp động dưới chân bèo, hay với Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

    Cái hay là ta cảm nhận ngay được hình ảnh lá vàng bay trong gió nhẹ, vì lá quá nhẹ, ắt hẳn phải là lá trúc mà cụ đã giới thiệu trong bài thơ nên mới có thể bay vèo. Và chính cái bay vèo của đám lá nhẹ được cụ Nguyễn Khuyến sử dụng làm đối trọng của sự tĩnh mịch, để cảnh vật không trở nên buồn chán. Và cũng chính những đám lá này nó tạo nên được cái âm thanh xào xạc, âm thanh quen thuộc của mùa thu. Âm thanh này lại làm tăng thêm cái yên tĩnh lên một cách linh động. Bức tranh của cụ chỉ toàn mầu xanh được điểm tô bằng những chiếc lá vàng bay, hình ảnh thật thu biết chừng nào.

    Từ hình ảnh, mầu sắc đến âm thanh được cụ diễn tả thật tài tình bằng những ngôn từ giản dị, mộc mạc và khung cảnh cụ dựng nên, ta có thể gặp bất cứ ở đâu tại miền Bắc nước ta. Nếu cụ chỉ cần thêm một tý mầu xám của mây với chút mầu trắng đục của mưa phùn thì cảnh vật này sẽ trở nên u ám có khi đến thê lương của mùa đông.

   Để trở về với thời gian gần gũi với chúng ta hơn, ta hãy thử đọc vài bài thơ của vài nhà thơ "tiền chiến".

   Nếu nhớ đến thu mà không nhắc đến bài thơ "Tiếng thu" của thi sĩ Lưu Trong Lư (LTL) thì thật là một thiếu sót.

Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực

Hinh ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ?

Em không nghe rừng thu,

Lá thu kêu xào xạc,

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?

    So với hình ảnh "chân quê" trong thơ của cụ Nguyễn Khuyến thì hình ảnh thu của LTL có tính cách "thơ" và “ước lệ” hơn, với con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô. Hình ảnh của thơ đôi khi không nhất thiết phải là hình ảnh thực tế quanh ta. Bài thơ "Tiếng Thu" của LTL vẫn là một trong những bài thơ mà tôi thich nhất trong những bài thơ nói về thu sau này.

     Nếu ta nghe thấy trong thơ LTL có tiếng lá cây xào xạc thì ta cũng thấy một buổi chiều thu hiu quạnh của Huy Cận:

                  Sầu thu lên vút song song

                  Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu.

    Trong khi thơ của Chế Lan Viên tha thiết với thu biết chừng nào

                  Chao ôi! mong nhớ, ôi mong nhớ!

                  Một cánh chim thu lạc cuối ngàn.

thì thu trong thơ Vũ Hoàng Chương (VHC) lại tiêu cực và yếm thế làm sao.

                  Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết

                  Một ván cờ khuya ngả bóng chiều

                  Ai khóc đời ai trên bấc lụi

                 Đây mùa thu tới lửa dần thiêu.

    Khác với VHC, thu của Xuân Diệu có vẻ êm ả, nhẹ nhàng, lộng lẫy.

                 Đây mùa thu tới, mùa thu tới

                 Với áo mơ phai dệt lá vàng.

hoặc

Gió thu hoa cúc vàng lưng dậu

Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên

 

     Nói đến Xuân Diệu ta phải nhắc thêm đến những vần thơ yêu. Những vần thơ được các cô các cậu chép đi chép lại nhiều lần ở tuổi học trò, hay mượn lời thơ để tỏ tình với cô “em” cùng lớp.

. . .

Anh một mình nghe tất cả buổi chiều

Vào chầm chậm ở trong hồn hiu quạnh.

Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh,

Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi!

. . .

(trích bài thơ “Tương tư, chiều ...” trong tập thơ Thi Nhân Việt Nam)

    Thơ yêu của Xuân Diệu là như thế đấy. 

     Trên trời xanh, vài cụm mây trắng hờ hững bay, hờ hững bay vì cứ bay và bay mãi không ngừng. Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay (Tản Đà dịch từ bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu).

    Trong cái yên tĩnh của sáng nay, tôi dường như đang nghe thấy tiếng nhạc lởn vởn đâu đây, trong đó có tiếng hát réo rắt lẫn chút ai oán của cô ca sĩ Ngọc Hạ trong bài “Buồn Tàn Thu” của cố nhạc sĩ Văn Cao mà tôi yêu thích và đang đưa tôi đi xa vào cõi không. Giọng ca và sự diễn tả của người ca sĩ này sao điêu luyện quá. Theo tôi nghĩ, nếu cụ Văn Cao còn sống hẳn sẽ hài lòng và cám ơn cô vì cô đã có thể truyền đạt được hết cái hay của bản nhạc lẫn tâm sự của mình đến người nghe. Với bài hát này, sau Ngọc Hạ còn ai nữa nhỉ?

 

NGUYỄN GIỤ HÙNG

 Mời nghe

Buồn Tàn Thu

Nhạc: Văn cao - Ca sĩ: Ngọc Hạ

 

  Bài thơ Tiếng thu

   Thơ: Lưu Trọng Lư- Diễn ngâm: Ngọc Sang

 

Đây mùa thu tới

Thơ: Xuân Diệu - Diễn ngâm: Ngọc Sang

 

Một Sớm Chớm Thu

NGH

Xem thêm...

Tản Văn “Dòng Đời Trôi” - Yên Sơn

Tản Văn “Dòng Đời Trôi”

Yên Sơn

ngày 24.08.23

Một ngày như mọi ngày. Tôi vẫn ngồi đối diện nhà tôi ở căn bếp. Nàng dùng căn bếp làm văn phòng làm việc tại nhà kể từ thời Covid 19. Hương cà phê buổi sáng thoang thoảng trong căn phòng nhiều cửa sổ và một không gian ngổn ngang nhưng không bừa bộn của khu nhà bếp.

Tôi ngồi với computer, nhâm nhi cà phê nhìn ra khu vườn buổi sáng.

Khu vườn mùa nắng cháy trông buồn buồn như lòng người sáng nay. Cây cỏ vàng úa dù tôi vẫn phải tưới tay cách ngày. Tôi đã mướn một chủ thầu làm cỏ người Mễ đặt hệ thống tưới nước tốn gần ba ngàn đồng mấy năm qua. Nó lắp đặt xong sử dụng đước hơn tháng thì hỏng. Gọi tới gọi lui nó tìm cách chạy làng; bực mình quá nhưng không làm gì nó được và nó cũng trốn biệt luôn; chưa nói là trả tiền nước mệt nghỉ. Rốt cuộc tiền mất tập mang, phải tưới bằng tay trong suốt mùa nắng.

Mới nửa buổi sáng mà cành lá rũ rượi trông tội nghiệp. Lũ chim cũng biến mất, bướm ong cũng ngủ vùi khi những đoá hoa cố gắng chống chọi với cái nóng đang lim dim ngủ, không mời gọi một ai. Không có cả tiếng chuông gió vẫn thường nghe. Gió dường như cũng trốn đâu mất tránh cái nóng kinh người.

Mùa Hạ Kingwood chưa bao giờ khắc nghiệt như thế. Mùa Hạ năm nào, tôi còn nhớ cũng nắng gay gắt lắm, bỗng có cơn mưa rào bất chợt về ngang, tôi và cỏ cây cũng bất chợt mừng đón. Tôi đã bật cười lạ lẫm, viết ngay một đoản văn “Mưa Tháng Bảy ở Kingwood” gửi đến bạn bè gần xa như chia sẻ niềm vui hiếm hoi đã về ngang Kingwood. Thế nhưng, năm nay, hơn tháng rồi không có lấy một giọt sương.`

Nghĩ ngợi lan man đưa tôi về bên ấy. Nhớ về người ấy. Thời ấy.

Người ấy vừa ra đi không một lời từ giã. Người mà nửa thế kỷ trước đã cho tôi những hoài mong, trăn trở. Thời mà tôi vừa rời ghế nhà trường để sống đời quân ngũ. Vào quân ngũ tôi không rõ ràng một khái niệm gì ngoài bổn phận của một người trai lớn lên trong chiến tranh. Sách vở đã không thể giữ tôi lâu trong các giảng đường khi mà những xôn xao chiến trường tràn về thành phố. Sách vở không giữ được trên tay, tâm tình không cô đọng được trong những bài giảng. Cả một thời đi học tôi chỉ vắt vai một hai mối tình học trò lơ tơ mơ để mà “có” với bạn bè. Nhưng thật tình, mấy cái vắt vai đó đã không đâu vào đâu. Tất cả nỗ lực đều dồn hết vào sách vở để cố không phụ tấm lòng hy sinh của cha mẹ anh em; để cố tránh xa tiếng gọi của chiến trường, để rồi cuối cùng cũng phải ra đi. Và tôi đã gặp nàng trong bước đầu quân ngũ.

Nàng cũng là một cô sinh viên, không đẹp lắm những thơ hay chữ tốt, tính tình đôn hậu. Nàng đến với tôi trong thời gian tôi trốn nhà vào lính làm con bà phước ở quân trường Quang Trung.Nàng theo chị là bạn gái của bạn quân ngũ của tôi trong một buổi thăm nuôi cuối tuần. Sự thay đổi từ đời học trò qua đời lính có làm xáo trộn mọi điều toan tính. Tôi đang chới với để thích nghi cuộc sống mới thì nàng thả cho tôi chiếc phao để bám vào. Tôi có thư, có thơ để đọc sau những buổi quân hành, sau những giờ tập luyện lao khổ; tôi có nàng tình nguyện “thăm nuôi” trong suốt 3 tháng quân trường; có được nàng an ủi, vuốt ve cho sự lạc lõng quê người trong suốt thời gian hơn một năm du học ở Mỹ.

Những ngày xa quê hương đó, thư của nàng bao giờ cũng được đón đợi nồng nhiệt cho đến ngày về nước thật sự xông vào lửa đạn.

Dù vậy, trong sâu thẳm của tâm hồn tôi, mối quan hệ nầy rõ ràng không phải là tình yêu mà tôi hằng mong đợi. Tôi coi nàng như một người thân, như người bạn để cùng nhau chia sẻ vui buồn. Có đôi lần trong thư từ qua lại, tôi có cảm tưởng nàng nghĩ về tôi không như tôi nghĩ về nàng. Điều đó sinh ra giận hờn. Có một độ rất thưa thớt thư qua thư về,một phần vì cuộc chiến nhưng mấu chốt vẫn không tìm thấy mẫu số chung cho nhau.

Tôi đi vào cuộc chiến như một hiển nhiên không suy tính. Ngày lại ngày qua vẫn cứ sống như mơ. Đường mây lối gió khắp bốn phương trời, tôi như những áng mây trôi lờ lững không định hướng nào rạch ròi cho một tương lai. Mà tương lai nào đâu. Bạn bè hết đứa nầy tới đứa khác ra đi như những vần thơ buồn. Rất nhiều lần trong cuộc chiến tôi đã toát mồ hôi lạnh, chuẩn bị tư thế đi không ai tìm xác rơi. Nghĩ tới một ngày nào đó nhảy phóc lên bàn thờ ngồi xem gà khoả thân… bỗng phì cười, rồi thôi lại tiếp tục làm lính thành phố.

Lính thành phố nhưng có những bữa ăn thịnh soạn với xôi nắm, bánh mì trên trời. Cũng lịch duyệt khi ra đường; cũng cà phê thuốc lá, cũng ngồi Brodard với bạn bè những ngày đầu tháng để ngắm ông đi qua bà đi lại. Lương độc thân của một pilot cũng chỉ vừa đủ đóng tiền ăn hàng tháng cho một buổi ăn tối đàng hoàng gần chỗ ở trọ. Mỗi đầu tháng còn được chén mầy chén tao, cuối tháng đôi khi cũng mì gói, cũng ration C… Thế nên và dường như tôi chưa bao giờ thấy có tương lai nào để toan tính.

Xong học nàng rời thành phố về tận Miền Trung vì Saigon không có gì để giữ chân nàng. Tôi cũng mải miết đi bay không có cả cơ hội nói lời tiễn biệt. Rồi từ đó, thỉnh thoảng mới thư thăm hỏi “Anh khoẻ không, em khoẻ không”… chấm hết!

Bẵng đi khá lâu. Lâu lắm, tôi có dịp trở lại quê nhà sau những tháng ngày lưu vong. Tôi về Miền Trung thăm chú út, em của ba tôi, là người duy nhất còn sống của 9 anh em. Không biết đứa em nào con của chú đã thông báo cho nàng biết để nghe chúng nó thuật lại, “Chị L. chạy xuống định thăm anh, nhưng gần tới nhà lại vội vã quày xe trở về, lụp chụp sao không biết mà té tới rách cả áo, trầy cả chân đến chảy máu.” Tôi nghe vậy nên cùng một đứa em đến nhà thăm nàng nhưng nàng nhất định không tiếp… đành thôi. Biệt tin từ đấy.

Chiều qua cô em út gọi báo tin, “Anh Bốn ơi! Chị L. đi rồi!” Chú em trai lại gọi, “Anh biết gì không, em vừa nghe tin chị L. qua đời rồi!” Đứa em gái ở Biên Hoà cũng gọi qua, “Anh à, chị L. vừa mới mất!” Tôi thật bất ngờ nàng còn có những liên lạc thân tình với lũ em tôi. Dù có chút bàng hoàng khi nhận hung tin, nhưng tôi cố làm ra vẻ bình thản chấp nhận, “Thế cũng đã xong một kiếp người! Ai rồi cũng phải ra đi!”

Không phải tôi dửng dưng trước tin xấu nhưng thật sự tôi chấp nhận, như lời nhạc tôi viết cho nhạc phẩm Dòng Đời Trôi, “…cha mẹ, anh em, người thân, bè bạn… chỉ là mốc dừng chân nơi cõi tạm luân hồi.” Cũng có thể nàng đã là một bóng mờ trong tâm tưởng của tôi từ lâu; cũng có thể những ràng buộc chừng mực năm xưa đã phai nhạt trong tôi sau bao nhiêu thay đổi trong cuộc đời. Dù vậy, đón nhận tin buồn, lòng tôi cũng dấy lên chút lưu luyến, bâng khuâng.

Tôi rời computer bước ra sân tưới nước cho cây cỏ. Tai như nghe hoa cỏ reo vui. Mấy khóm hoa đang héo rũ dưới ánh nắng nóng bỏng rung rinh tắm gội dưới làn nước mát. Vừa tưới nước vừa khe khẽ hát bản nhạc Dòng Đời Trôi.

Ngồi trong bóng đêm
Nghe tiếng gió đuổi nhau qua thềm vắng
Cả không gian âm trầm vắng lặng
Chỉ có tiếng côn trùng rả rích gọi canh thâu

Tự hỏi mình, gió sẽ về đâu
Khi đã đến cùng trời cuối đất
Người sẽ về đâu
Sau bao phen được-thua-còn-mất
Đứng trước tử sinh, len lén thở dài?”

Có bao giờ tự hỏi ta là ai
Giữa thế giới con người muôn vạn
Cha mẹ, anh em, người thân, bè bạn
Chỉ là mốc dừng chân giữa cõi tạm luân hồi

Có khi nào mây trắng sẽ ngừng trôi
Và lũ dế đêm trường ngưng nhạc khúc
Dòng đời kia sẽ không còn trong đục
Cuộc sống con người thôi tất bật trầm luân

Nhìn xuyên bóng đêm
Đi loanh quanh trên đường giác ngộ
Không bao lâu sẽ về cát bụi
Thì có chi vướng bận ưu phiền

Nghe đêm xạc xào, hàng cây nghiêng nghiêng
Bóng đêm thì thầm, trời sương mênh mang
Mai đây trở về bờ giác đang chờ
Dòng đời trôi…

 

Audio Player


http://thovanyenson.com

Phải! Ai rồi cũng sẽ ra đi, về với cát bụi, bởi nếu có bao giờ mây trắng ngừng trôi giữa lưng trời thì dòng đời mới sẽ không còn trong đục và cuộc sống con người mới hết tất bật, mới thôi bon chen dù ai cũng biết rằng kiếp người rất mỏng manh, ngắn ngủi.

Tháng 8/2023

 

 

 
Xem thêm...

Giấc Mơ Phi Công Và Những Chặng Đường Nghiệt Ngã - Yên Sơn

Giấc Mơ Phi Công

Và Những Chặng Đường Nghiệt Ngã 

Yên Sơn

Thời ngồi trên ghế nhà trường tôi vẫn luôn “nhìn trời cao mà reo, mà mơ ước như diều để níu áo Hằng Nga, nằm bên dải Ngân Hà”. Những mẩu chuyện KQ làm tôi say sưa quên cả sách vở. Thấy các ngài phi công bên súng, bên dao xề xệ trong bộ áo liền quần phởn phơ dưới phố cho tôi mộng mị đêm dài. Nhất là bị ông nhà văn phi công Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh qua cuốn “Đời Phi Công” đưa mơ mộng của tôi vượt lên chín từng trời! Có lần bày tỏ với Mẹ tôi về ước muốn này bị Mẹ át giọng “học hành không xong Ba sẽ bắt về đi cày ruộng chứ ở đó mà mơ với mộng”! Mẹ biết tôi rất sợ sống ở ruộng vườn; rất sợ đời sống kham khổ với đất đai, nhất là đất đỏ cao nguyên dẻo quánh, nắng bụi, mưa… trời ơi là một nỗi cực hình! Tôi đã từng nói với Mẹ “bằng mọi cách con sẽ vượt ra khỏi nơi này”!

Ba Mẹ và các anh em thấy tôi ham học (chẳng qua là trốn việc đồng áng) nên dồn tất cả sự hỗ trợ cho tôi đi học trên thành phố sau khi xong phần Trung học đệ nhất cấp ở quận lỵ. Tôi sung sướng được xa nhà, xa ruộng rẫy, bắt đầu “trắng da dài tóc” từ đó. Đợi khi vừa thấy tên trên bảng kết quả Tú Tài, tôi đã mơ màng làm phi công chiến đấu. Tôi lén cha mẹ nộp đơn xin làm phi công. Trước khi đi, tôi rất tự tin vì nghĩ rằng mình thừa sức nặng, dư chiều cao, mắt sáng như sao, tai thính như dơi, dũng lược con nhà võ… “nhưng ai có ngờ đâu, đời tôi là bể sầu, nay mộng xưa đã hết, ngày vui đã tàn, lòng tôi nát tan”. Trời không chiều lòng người. Nhóm thanh niên nộp đơn khám sức khỏe phi hành của chúng tôi gồm 20 người nhưng không có được một mống bước qua nổi ngưỡng cửa Phi Long, và tôi là người cuối cùng nghe ông nha sĩ ca bản “thôi anh đi về đi, Không Quân đành bái bai cùng anh, duyên không tròn lưu luyến càng thêm đau buồn!” Có lẽ thây nỗi buồn nặng trì nặng trịch trên mặt tôi, ông ta lại hát tiếp, (Thôi tiếc thương mà chi, trông mong gì anh đi về đi, anh đi về đi cho vui lòng mẹ cha”… chỉ vì vài chiếc răng trám! Mộng làm phi công tan tành theo mây gió, thất vọng não nề, tôi tiếp tục vùi đầu vào sách vở theo đuổi ngành y khoa như ước nguyện của Ba Mẹ tôi và gia đình.
Chiến tranh càng lúc càng khốc liệt. Sân trường, sách vở trở thành món nợ nhàm chán, nặng nề. Đã vậy, mỗi lần ra phố nếu không Cảnh sát cũng bị Quân cảnh xét giấy tờ quân dịch lia chia… nhưng không có gì nung nấu bằng ước muốn trở thành phi công. Thấy KQ vẫn dồn dập tuyển mộ, tôi lại thắc thỏm muốn liều mình nộp đơn lần nữa. Dù Ba Mẹ tôi vẫn “răn đe” cố gắng học hành, không được xao lãng. Ba Mẹ tôi thường nói, sở dĩ gia đình dồn hết mọi nỗ lực cho tôi ăn học vì không muốn tôi gia nhập bất cứ loại lính nào, vì đã có hai anh lớn trong lính rồi! Nhưng trận Mậu Thân như một giọt nước làm tràn ly đầy, tôi quyết định thử thời vận lần nữa.
Có lẽ vì nhu cầu bành trướng của KQ quá cao nên “hú thần hồn” tôi qua được chướng ngại vật cuối cùng “ba chiếc răng trám như cũ”! Chỉ có đậu được vào KQ mà chân tôi đã như đi trên mây, lòng bồi hồi sung sướng, chỉ còn một nỗi lo duy nhất là không biết ăn nói với Ba Mẹ tôi cách nào.
Suy tính thiệt hơn, tôi quyết định giấu biến chuyện nhập ngũ, khăn gói đi thẳng vào Quang Trung học làm đời lính. Chính vì thế, suốt ba tháng quân trường tôi ngoan ngoãn làm con bà phước không một lời oán than. Hàng tháng tôi vẫn nhận tiền ở nhà gửi lên và vẫn tìm cách liên lạc đều đặn như không có gì.

Ba tháng quân trường đã biến một gã thư sinh trắng trẻo thành một anh chàng mặt mày tay chân đen nám, mặt mũi đầy mụn với vai u thịt bắp gồ ghề làm Ba Mẹ và các em giật mình thảng thốt khi tôi đút đầu về quê… thú tội trong lần đi phép mãn khóa đầu tiên. Tôi nghĩ “gạo đã nấu thành cơm” nên hy vọng không bị rầy la quá độ, nhưng… Mẹ tôi vì thương con nên chỉ biết thở dài; các em sờ mó tỏ vẻ hãnh diện với làng xóm; còn Ba tôi nhất định không nhìn mặt trong suốt thời gian ngắn ngủi đó. Tôi ngậm ngùi trở lại đơn vị sau khi năn nỉ Mẹ tôi và những người thân khuyên giải Ba tôi.
Vì nhu cầu huấn luyện khẩn cấp của KQ nên số đông khóa của tôi, thay vì được gửi đi Nha Trang để hoàn tất giai đoạn hai huấn luyện quân sự, lại được gửi vào Trường Sinh Ngữ Không Quân để học tiếng Anh sau khi quanh quẩn “đạp cỏ ở khu nhà ma” một thời gian ngắn. Khu nhà ma là một khu nhà khá lớn trong căn cứ TSN bỏ hoang, cỏ cao quá đầu gối. Cấp trên dùng nơi này để quản trị lũ chúng tôi, những thằng người có một phần lính nhiều phần học sinh. Mỗi sáng chúng tôi vào trình diện điểm danh chiều lại cho về. Không mấy chốc, bãi cỏ hoang chung quanh khu nhà đã tưa gốc chết tiệt!
Rồi cũng đến lúc trình diện học sinh ngữ. Tôi nhớ lão Đại Úy “Quý heo” đã cho chúng tôi chào trại sinh ngữ bằng cách chạy mấy vòng sân, ở một buổi trưa nắng gắt, với xách Marin (loại bao tải xanh cứt ngựa của lính phát) trên vai làm bao nhiêu chàng công tử bột té lên té xuống trông thảm hại vô cùng! Rồi chuyện đâu cũng vào đó, chúng tôi được chỉ định chỗ ở và hôm sau nhập khóa học. Tôi không giỏi Anh ngữ như một vài bạn cùng khóa nhưng cũng không gặp nhiều khó khăn vì tiếng Mỹ đã là sinh ngữ phụ thời còn đi học. Thế nhưng, ngày thi mãn khóa tôi bị thiếu đúng một điểm chỉ vì nghe lời đường mật của các “sư phụ ma giáo” học tủ một bài thi được các sư phụ chuyền tay nhau trước ngày thi. Tôi phải mất một chầu café thuốc lá cung phụng cho các sư phụ. Các sư phụ bảo đảm bài thi hôm đó nhất định phải là “con chó nhảy hàng rào”! Ôi “trời bất dung gian”, con chó của tôi nhảy không qua nổi hàng rào 70 điểm! Âm thoại rất khó nghe, mà vừa nghe vừa cố so sánh với bùa nên không bắt kịp bài thi. Tôi vội vàng vất bùa và chú tâm hơn… nhưng vẫn không cứu vãn được tình thế. Tôi ngậm ngùi nhìn bạn bè tốt nghiệp làm thủ tục đi Mỹ.


May mắn thay! Học lại đâu được vài tuần thì nhận được tin sét đánh ngang tai “làm thủ tục xuất trại để đi du học khóa fixed wing (fixed wing là tên gọi chung cho các loại phi cơ khu trục, A37, F5, vận tải tác chiến, vận tải để phân biệt với Helicopter). Như vậy ước mơ để trở thành phi công phản lực tác chiến của tôi có nhiều cơ hội thành tựu. Nếu nỗi vui mừng ngày xem kết quả đậu Tú Tài ra sao thì ngày nhận tin đi Mỹ học fixed wing làm tôi vui mừng hơn gấp bội.
Trường sinh ngữ Lackland AFB ở San Antonio, Texas là trạm dừng đầu tiên cho tất cả khóa sinh phi hành ngoại quốc. Và dĩ nhiên Viêt Nam là một thành phần. Thường khi đã qua được tới Mỹ có nghĩa là vốn liếng Anh ngữ tạm đủ để có thể theo học các khóa huấn luyện. Tuy nhiên, ai cũng phải thi đậu sau ba tháng học tập ở trường sinh ngữ Lackland và làm quen với đời sống Mỹ trước khi nhập trường bay. Chính vì thế, Lackland cũng là chướng ngại vật cho các sư phụ mánh mung ở trường sinh ngữ quân đội bên nhà. Có một số người, sau ba tháng ăn chơi này đã phải khăn gói quả mướp lên đường về nước đi thẳng qua bộ binh.

Xong phần huấn luyện sinh ngữ, khóa chúng tôi được nhập trường bay, loại Cessna T41, ở căn cứ Randolph AFB. Trường bay này tọa lạc ở thành phố ven đô, Universal City, cách 24 dặm về phía đông bắc của San Antonio. Thời gian huấn luyện ở đây dự trù 3 tháng gồm có huấn luyện thể lực, địa huấn (ground school), học bay, học nhảy dù, phòng cao độ. Riêng phần bay bổng, người giỏi nhất mất khoảng 9 giờ bay với Thầy, người yếu nhất cũng phải cần 18 tới 20 giờ huấn luyện trước khi được thả bay một mình trong vòng đai phi đạo. Ở giai đoạn này cũng lắm người bị về nước vì không thể bay một mình trong một thời gian nhất định nào đó. Bị đánh rớt trong giai đoạn này không đến nổi phải bị ra khỏi KQ mà cho cơ hội để phục vụ trong ngành Không Phi Hành hoặc các trách vụ phi hành khác như Điều Hành Viên (Navigator, NOS, IR).


Chờ cho đến người cuối cùng hoàn tất giai đoạn bay T41, khóa chúng tôi lên đường qua Keesler AFB ở tiểu bang Mississippi (cách San Antonio 9 giờ lái xe) để học bay loại Khu trục T28. Khi lên đường đi Mỹ, khóa chúng tôi có hơn 40 khóa sinh, bây giờ còn lại 35 người sau hai trạm đầu tiên gồm luôn một vài người từ khóa trước dồn lại.
Chương trình huấn luyện ở đây dự trù là 6 tháng gồm phần địa huấn, academic rất nặng nề (lý thuyết về không gian, kỹ thuật hàng không, và phi cơ, khí hậu…), học bay ngày, bay đêm, bay đường dài (cross country), không hành định vị (navigation), bay phi cụ, bay hợp đoàn… Trong giai đoạn này, khóa sinh được huấn luyện tổng số khoảng 150 đến 200 giờ bay; nhanh nhất để được bay một mình trong vòng phi đạo (touch and go) là 14 giờ huấn luyện với thầy cho tới 24 giờ tối đa. Nếu sau 24 giờ mà vẫn không thể bay được một mình vì bất cứ lý do gì cũng sẽ bị trả về nước. Giai đoạn này cũng là một gạn lọc đáng kể cho rất nhiều anh em. 
Sau khi bay solo ở vòng phi đạo (traffic pattern), khóa sinh được tiếp tục bay các phần hành khác gồm phần aerobatic ngoạn mục, solo vùng, rồi solo navigation, cuối cùng là phần bay hợp đoàn… Bay hợp đoàn rất dễ khi bay trước; bay theo là một ám ảnh tưởng không thể vượt qua chặng này… nhưng rồi cũng quen. Thời gian chỉ có 6 tháng mà như đi rất chậm vì ngày dài triền miên với sách vở, lý thuyết rồi ngồi đồng nghe thầy giảng moral về tài bay bổng của mỗi chàng. Có lắm niềm vui, cũng lắm nỗi buồn phiền; lắm điều trái ngang nghe như chuyện đùa… rồi cũng tới ngày mãn khóa. Khóa chúng tôi còn lại 33 người được gắn cánh bay. Ngày được gắn phải nói là một ngày huy hoàng nhất trong cuộc đời bay bổng. Thế là mộng làm cánh chim trời đã thành tựu, chỉ còn nỗi hồi hộp chờ ngày chọn máy bay và đi học tiếp loại phi cơ chuyên biệt.

Không một khóa sinh nào có thể biết trước được mình sẽ được bay loại fixed wing nào cho đến ngày mãn khóa kể cả các Thầy. Cũng có thể cấp trên và các Thầy đã biết trước nhưng khóa sinh hoàn toàn không biết. Nếu được hỏi, thầy và các cấp chỉ huy Việt lẫn Mỹ đều nói tùy vào “tài khóa”, tùy vao khả năng bay bổng của mỗi người”; có nghĩa là tùy vào số tiền viện trợ được chi viện từ quân đội Mỹ và tùy vào nhu cầu huấn luyện của từng thời điểm.
Sau ngày mãn khóa, chúng tôi mới biết tài khóa chúng tôi chỉ toàn các loại vận tải cơ gồm 16 chiếc C123K, 4 chiếc C7 Caribou, một số C47, và một số C119. Một số anh em vui mừng nhưng riêng tôi vô cùng thất vọng, tìm đủ mọi cách xin chờ tài khóa tới hoặc cho về huấn luyện khu trục ở VN. Rất đáng buồn đòi hỏi của tôi không được đáp ứng. Cấp chỉ huy bảo tôi “mầy (you) được ưu tiên chọn trước, cứ chọn bất cứ loại máy bay nào mầy thích trong tài khóa này, thế nào cũng sẽ có cơ hội chuyển ngành về sau”. Mặc dù tôi có ưu tiên số 5 (20 người đổ đầu khóa được ưu tiên thứ tự ưu tiên chọn trước) nhưng tôi buồn bã nói với thầy chọn giùm bất cứ loại nào ông nghĩ là tốt. Thầy tôi cho tôi biết ông ta cũng thất vọng không kém tôi vì ông ta đã là pilot khu trục trước khi nhận về trường huấn luyện. Thầy khuyên tôi nên chọn C123K vì loại vận tải cơ tân tiến nhất trong các loại của tài khóa này. Tôi đặt hoàn toàn tin tưởng nơi ông nên tôi đã gật đầu.

Trạm dừng chân kế tiếp của 16 chàng phi công vận tải C123K là căn cứ Lockbourne AFB, Ohio để huấn luyện chuyên ngành. Máy bay C123K là loại phi cơ to nhất của KQVNCH thời đó. Ngày đầu tiên ngồi trên ghế huấn luyện trong phòng lái tôi thấy mình thật yếu đuối so với sức lực của loại phi cơ này, nó như con voi bất trị so với các loại T41 và T28A/B đã qua… nhất là lúc cất cánh. Dần dà cả tháng sau mới làm quen với nó được. Phi hành đoàn vận tải bay huấn luyện cũng đòi hỏi ít nhất có 4 người: phi công chính (thầy dạy), phi công phụ (khóa sinh), kỹ sư cơ khí, và nhân viên áp tải. Chương trình huấn luyện đề ra là 3 tháng nhưng khoảng hai tháng thì cả phòng huấn luyện C123K bị dời xuống England AFB (còn có tên Maxwell AFB) phía đông của tiểu bang Louisiana. Một tháng sau thì mãn khóa còn nguyên vẹn 16 trự khăn gói quả mướp lên đường hồi hương.

Về nước được cho nghỉ phép vài tuần lễ xong là trình diện phi đoàn liên hệ để tiếp tục huấn luyện check out hành quân. C123K có 2 phi đoàn 421 và 423 và lũ 16 con nai vàng chúng tôi được chia đều cho hai phi đoàn. Sau thành lập thêm phi đoàn 425. Trước tiên tôi về phi đoàn 421 của Thiếu Tá Nguyễn Quế Sơn để huấn luyện check out hành quân, xong cho về phi đoàn tân lập 425 với Thiếu Tá Nguyễn Thế Thân. Vừa bay vừa học bổ túc giai đoạn hai quân sự tại căn cứ TSN trong 3 tháng trường để hợp lệ mang cấp bậc Thiếu úy.
Khoảng hơn một năm sau, để đáp ứng nhu cầu chiến tranh, KQ VNCH được tiếp nhận vận tải cơ khổng lồ C130A, chia ra hai phi đoàn 435 và 437. Tôi được chọn đi phi đoàn 435 của Trung Tá Lâm Văn Phiếu.

Phi cơ C130A là loại phi cơ tối tân hơn C123K rất nhiều, khả năng vận tải rất cao, kỹ thuật tân tiến nên lôi cuốn rất nhiều người muốn được về bay loại phi cơ này. Có nhiều phi công lão luyện ở các loại phi cơ khác được tuyển chọn về từ C47, C119 để học trưởng phi cơ và lũ nhí chúng tôi chờ khóa học làm phi công phụ. Vì số người chờ học quá đông nên lũ cắc ké của chúng tôi dù chưa được ngồi vào ghế lái nhưng vẫn bị chia phiên mang hia, đội mũ đi theo tàu xách thùng bản đồ vài ba lần một tuần. Tình trạng này kéo dài khá lâu làm tôi nản lòng quá sức! Trong khi đó ở vận tải người ta hay đì nhau chí mạng, hoàn toàn không phù hợp với tâm tánh và ý thích của riêng tôi nên tôi gặp không ít những rắc rối vụn vặt đối với cấp trên “bay thì dở nhưng rất thích ra oai”! Tôi cũng muốn lợi dụng hoàn cảnh để được cho qua tác chiến nhưng vẫn không hữu hiệu!
Đã mấy lần tôi xin Không Đoàn trưởng, KĐ phó chuyển qua bay tác chiến nhưng vẫn không được. Khi mức độ nản lòng đã lên cao độ, tôi nhất định xin đổi qua bay loại vận tải tác chiến AC119K, vừa được KQ Hoa Kỳ chuyển giao, dù các cấp chỉ huy đều không muốn. Tôi nói nếu không cho tôi đi tôi sẽ nộp đơn xin ra bộ binh. Sự cương quyết của tôi đã làm phật lòng nhiều người nhưng cuối cùng cũng được thuyên chuyển về phi đoàn Tinh Long 821 (duy nhất) của Trung Tá Hoàng Nuôi. Ở đây vui hơn nhiều, được đi đánh trận hàng đêm. Không ở một chỗ như những loại vận tải khác. Lâu lâu biệt phái Phù Cát, Đà Nẵng. Và tôi xin đi biệt phái dài dài, xin biệt phái thế cho bạn.
Chiến trường Miền Trung lúc bấy giờ rất sôi động nên cũng lắm chàng có gia đình hay “lạnh cẳng”. Ở Saigon hay đi biệt phái tôi cũng xin bay đều đều đến nổi cấp trên hỏi tôi có còn đầy đủ gia đình cha mẹ không, có bạn gái không (?!) Tôi chỉ mỉm cười, đơn giản nói “tôi thích đi bay, thích đi khỏi Saigon náo nhiệt”. Đi biệt phái Đà Nẵng tôi thích hơn nhiều vì ở đây chiến trường nóng bỏng lại có thằng bạn thân gan lì dạy tôi bay trực thăng, chiêu đãi tôi những bữa ăn ngon ngoài phố, cho tôi tháp tùng đi xung trận những ngày tôi được nghỉ bay. Nó thường cười nói như chơi, “nếu có mệnh hệ gì thì hai thằng mình bị dán giấy phạt trên quan tài thay vì ‘truy thăng’… Và tôi cứ thanh thản sống như thế, cứ vô tư như thế ngày qua ngày lại qua ngày cho tới lần sau cùng, trưa ngày 27 tháng 3 năm 1975, tôi theo biệt đội vội vã rời khỏi Đà Nẵng về lại Saigon trong cơn hỗn loạn bỏ rơi Miền Trung.
Về lại Saigon, chiến sự leo thang đáng kể nhưng tôi vẫn sống bình thản, vẫn sinh hoạt như thường ngày, vẫn xin bay đêm dài dài để thấy “giữa lòng trời khuya muôn ánh sao huyền”… cho đến trưa ngày 29 tháng 4, năm 1975, khi tôi nhận ra là tôi phải cấp tốc rời khỏi Saigon sau khi chứng kiến chiếc Tinh Long 7 của Trang Văn Thành bị bắn rơi gần vòng đai phi trường lúc 7g sáng… Bạn bè mạnh ai nấy tự lo thân, kẻ chạy ngược người chạy xuôi tìm phương tiện ra đi và tôi cũng đội mưa pháo tìm kiếm phi cơ hữu dụng trong vô vọng. May mắn thay, đang lơ ngơ, lớ ngớ gần trạm Hàng Không Quân Sự thì thấy Thiếu Tá Phan Vũ Điện và một số anh em trên xe pick up chạy ngang vẫy tay bảo chạy theo tới chiếc C130 cuối cùng ở gần trạm Hàng Không Dân Sự. Sở dĩ chiếc phi cơ này còn nằm ụ ở đây vì một số phi cụ đã bị hư hỏng chưa có dịp thay đổi; thế nhưng đâu còn chọn lựa nào tốt hơn. Tôi ngồi vào ghế copilot phụ anh Điện phần hành của một phi công phụ để cố đưa chiếc máy bay không hoàn hão rời khỏi phi trường lúc 12g30 trưa, trong hỗn tạp, trong hoang tàn mang theo hơn 100 người khách bất đắc dĩ, bay thẳng qua Utapao, Thái Lan để bắt đầu cho những tháng năm dài ly hương.

Từ một gã học trò mặt trắng tay trơn đến một phi công lỡ vận, lỡ thời chỉ có 7 năm dài qua bao nhiêu chặng đường. Mỗi chặng đường chứa đựng biết bao nhiêu hồi ức, bao nhiều kỷ niệm, có buồn có vui, lắm điều nhiều nỗi kể sao cho hết. Chỉ xin tóm lược qua những chặng đường cho một giấc mơ phi công của riêng tôi để chia sẻ với mọi người. Dù không cao sang như “Đường Minh Đế” nhưng tôi cũng đã được “nhàn du khắp tinh cầu”, cũng đã sống một thời hào hùng bên súng bên dao. Nhìn lại đời sống cũ đã một thời “sống giữa lưng trời, đôi khi nghĩ chuyện đời mỉm cười thôi”.

Mời xem video clip về trạm dừng chân đầu tiên:


Mùa Hạ 2013

■ Yên Sơn

Xem thêm...

Tào Lao - Nguyễn Giụ Hùng

Tào Lao 

Nguyễn Giụ Hùng

THƯ GỬI BẠN 

Việc lớn thì chẳng ra sao,

Việc tào lao hay chú ý.

(Ca dao)

  Dưới cái nắng như thiêu như đốt, tôi cố gắng cắt cho xong bãi cỏ trước nhà. Mồ hôi nhễ nhại, tôi đẩy cái máy cắt cỏ một cách nặng nề, nhẫn nại. Cái máy cứ như muốn ì ra dưới sức đẩy của tôi mỗi lúc một yếu dần đi. Mệt bá thở! Chưa cắt cỏ xong, tôi đã phải nghĩ ngay tới việc phải tìm chỗ để đổ đống cỏ vừa cắt, rồi rải thêm phân bón, tưới thêm nước cho cỏ mọc lên được xanh tươi, và để rồi tuần sau lại vác máy cắt cỏ ra cắt. Nếu lười hay quên, ông hàng xóm sẽ đem máy cắt cỏ của ông ta để ngay trước cửa nhà tôi nhắc khéo.

  Đã bao năm nay tôi cứ lặp đi lặp lại cái công việc nặng nhọc và nhàm chán này một cách cần mẫn, nghĩa là tốn phí tiền của lẫn công sức nuôi cỏ cho lớn lên xanh tươi rồi cắt nó đi, rồi lại nuôi, rồi lại cắt một cách đều đặn. Nếu công việc này xảy ra vào những ngày mát mẻ thì chẳng nói làm gì, nhưng hôm nay dưới cái nóng bỏng của "cái nóng nung người, nóng nóng ghê" (Nguyễn Khuyến) thế này thì tôi chợt nhận ra, trong công việc của mình có cái gì mang vẻ "tào lao". Nó tào lao ngang với cái luật thành phố San Jose, nơi chúng tôi đang cư ngụ, cấm hủy bỏ hay làm chết bãi cỏ xanh trước nhà vì muốn bảo tồn vẻ đẹp của thành phố. Vào những năm hạn hán, thành phố muốn giữ cỏ xanh tươi, đồng thời lại đòi hỏi cư dân phải hạn chế tối đa hay cấm dùng nước tưới cỏ. Nếu tôi không tuân thủ? Phạt. Tào lao thế đấy!

  Chuyện tào lao như thế thì cứ "khối" ra đấy, không phải là chuyện của trẻ con đâu mà là chuyện của cả người lớn.

- Tào lao như câu cửa miệng của dân Việt ta ngày nay:

Sáng đúng chiều sai,

Sáng mai lại đúng.

Lúng ta lúng túng, sáng đúng chiều lại sai,

Cứ việc lai rai, chiều sai sáng mai lại đúng.

- Tào lao như cụ Tản Đà viết thơ hỏi vợ trên trời:

Tình riêng trăm ngẩn mười ngơ,

Ngồi buồn lấy giấy viết thơ hỏi trời.

Xem thơ trời cũng bật cười,

Cười cho hạ giới có người “tào lao”(1)

- Tào lao như anh nói khoác:

Ta con ông Cống, cháu ông Nghè,

Nói có trên trời dưới đất nghe,

Sức khoẻ Hạng Vương cho một búng

Cờ cao Đế Thích chấp đôi xe.

Nhẩy ùm xuống biển lôi tàu lại

Nhảy tót lên non dắt cọp về.

Độ nọ vào chơi trong nội phủ,

Ba nghìn công chúa phải lòng mê.

- Tào lao như những câu chuyện đầu môi của mấy ông thợ cạo ở nước ta. Với những ông này, tào lao là một điều kiện tất yếu không thể tách rời ra khỏi nghề nghiệp của ông. Bỏ tào lao đi, ông chỉ còn biết cạo trọc đầu thiên hạ. Ta hãy tính thử xem có bao nhiêu nghề nghiệp cần đến tào lao như thế, nhiều lắm, mà đặc biệt, nghề làm chính trị. Các chính khách, lãnh tụ, đứng về phương diện nào đó để thành công, tào lao đã trở thành điều kiện “ắt có” không thể thiếu được.

- Tào lao như bảng thống kê thăm dò ý kiến của viện Harris Poll bỏ tiền của và công sức ra để hỏi về giới tính (sex) của Thiên chúa; hay lý do những người đàn ông Mỹ ra khỏi giường vào ban đêm, kết quả cho thấy: 35% vào toilet, 15% đi làm việc ca đêm, 50% mặc quần áo đi về nhà mình.

  Cứ dựa vào những điều tôi vừa kể thì tào lao, đứng về phương diện trà dư tửu hậu, là những câu chuyện nói cho sướng miệng, cho giết thì giờ, cho câu chuyện thêm vui, thêm tức, hoặc nói cho qua rồi bỏ; đứng về phương diện việc làm hay hành động thì tào lao là những việc làm có tính cách vô bổ, ruồi bu, vớ va vớ vẩn hay ngớ nga ngớ ngẩn chẳng đâu vào đâu hoặc chẳng đâu ra đâu cả. Có khi nó còn trở thành trống đánh xuôi, kèn thổi ngược mà cái hậu quả của nó khiến người ta cứ tức mình anh ách. Không nhịn được nhau sẽ có thể xảy ra chuyện lớn: đánh nhau vỡ đầu hoặc có chiến tranh.

  Những sự việc tào lao hay có vẻ tào lao xảy ra không ít, nó bao trùm trong mọi lãnh vực kể cả vật chất lẫn tinh thần, tâm linh lẫn văn hóa, chính trị... của loài người. Cũng có khi tào lao được diễn ra ở bình diện quốc gia lẫn quốc tế như khi ông Tổng thống cường quốc nọ đem quân đi đánh nước kia vì nghi nước đó có bom hóa học. Đánh xong thì mới "OOPS !!!", cả thế giới xúm lại tìm, chẳng thấy bom đâu. Ông hùng hồn tuyên bố cuộc chiến xảy ra là vì vấn đề dân chủ, dân quyền, nhất định không phải là vì dầu hỏa hay bom. Tào lao chăng? Thật khó hiểu. Tìm hiểu sự thật, âu đôi khi cũng là chuyện tào lao.

  Tào lao còn được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thời điểm, nơi chốn hay đối tượng nữa. Mức độ tào lao cũng tùy vào hoàn cảnh chủ quan hay khách quan của sự việc. Tào lao có tính chất tương đối, cả về ý niệm, như chuyện tào lao lúc này trở thành chuyện không tào lao lúc khác, và ngược lại chuyện không tào lao lúc nọ lại trở thành chuyện tào lao lúc kia. Những chuyện như thế phải kể đến câu chuyện của nhà “bác vật” Gallilée, trong khi cả nhân loại tin là quả đất hình vuông, riêng ông cho là quả đất hình cầu nên ông chết thảm vì nhân loại tưởng ông tào lao. Nói lên sự thật không đúng lúc, đúng người, đúng hoàn cảnh hay thời đại, âu đó cũng là chuyện tào lao chết người vậy.

  Cũng thế, ta cũng cứ tưởng Đức Phật tào lao khi ngài nói: “Ta thuyết pháp trong khoảng bốn mươi chín năm mà ta chưa từng nói một lời nào”. Hay trong kinh, ngài dạy: “Cái gọi là Phật pháp, tức chẳng là Phật pháp, nên gọi là Phật pháp... Phật nói chúng sinh, tức chẳng phải là chúng sinh, cho nên mới gọi là chúng sinh.” Tưởng ngài tào lao mà lại chẳng phải tào lao, tưởng tào lao chỉ vì ta không hiểu ngài thôi. Như “Kinh thượng thừa” phải là kinh “vô tự”, bám vào “tự” ta sẽ lạc lối về, ngài dặn: “Kìa đệ tử hãy xem theo ngón tay ta mà thấy mặt trăng, nhưng nên nhớ, ngón tay ta không phải là mặt trăng.

  Và vì tính chất uyển chuyển, đa dạng của tào lao nên ít ai nghĩ đến chuyện cần phải "cải sửa" tào lao như người ta cố cải sửa việc làm xấu để trở thành người tốt cả. Cải sửa bản tính tào lao đôi khi lại cũng trở thành công việc của tào lao.

  Có những chuyện tào lao ảnh hưởng đến một người, một nhóm người, hay cả nhân loại. Như cái tào lao không tưởng của Karl Max, đã bị một đám người vận dụng lý thuyết ấy để nhận chìm một phần nhân loại xuống bảy từng địa ngục. Cũng may nhân loại văn minh đã sớm bức tử nó.

  Tào lao là chuyện dài "bất tận", vui buồn... lẫn lộn.

  Tôi nói tào lao một chút cho vui và để các bạn đừng nhăn mặt, nhăn mũi về những điều tôi nói tôi làm. Trong Thánh Kinh có một câu chuyện kể về một người đàn bà phạm tội bị đám đông đem đến trước mặt Đức chúa Jesus xin ngài xử tội ném đá người đàn bá ấy. Đức chúa Jesus hỏi lại: “Trong tất cả mọi người ở đây, ai là người chưa từng làm tội lỗi thì có quyền ném viên đá đầu tiên.” Khi nghe lời phán ấy, đám đông bỏ đi. Các bạn nghĩ sao về câu chuyện này mỗi khi kết tội tôi là kẻ tào lao.

  Tôi hỏi lại các bạn, “Có bạn nào chưa một lần tào lao thì có quyền ném vào tôi viên đá đầu tiên!” Chưa nói hết câu, cô hàng xóm nhà tôi nhặt hòn đá ném vào đầu tôi cái bốp, rồi đứng cười ngặt nghẽo.

  Tôi hỏi tại sao cô ném. Cô trả lời tỉnh bơ:

  - Ném cho bõ ghét!

  Đúng là câu trả lời lãng nhách, tào lao.

  Gân cổ lên để cãi đúng sai về một câu chuyện đã được xác định là “chuyện Tào Lao” như đề tựa bức thư này, ấy mới chính thật là ĐẠI TÀO LAO.

Nghĩ cho cùng, có bao nhiêu chuyện trên đời này là không tào lao nhỉ? (Cười)

 

  NGUYỄN GIỤ HÙNG

  (1) Bản chính là “oái oăm”, tôi sửa lại là “tào lao” cho hợp với bài viết.

 

 

Xem thêm...
Theo dõi RSS này