'Viên ngọc' của nền tân nhạc Việt Nam': Ca sĩ Mai Hương (1941-2020)

'Viên ngọc' của nền tân nhạc Việt Nam':

Ca sĩ Mai Hương  (1941-2020)

Ca sĩ Mai Hương tên thật là Phạm Thị Mai Hương, sinh năm 1941 tại Đà Nẵng, mất ngày 29 tháng 11, 2020 tại California, hưởng thọ 79 tuổi. 

Nữ danh ca Mai Hương (1941 - 2020)

 Ca sĩ Mai Hương, 'viên ngọc' của nền tân nhạc Việt Nam, qua đời vào ngày 29-11 ở tuổi 79. Bà là con gái của nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và cháu ruột danh ca Thái Thanh.

Ca sĩ Mai Hương qua đời lúc 14h52 ngày 29-11, hưởng thọ 79 tuổi. Thông tin được nhiều nghệ sĩ trong giới giải trí Việt tại Mỹ báo tin và gửi lời chia buồn đến ông Trương Dục, chồng ca sĩ Mai Hương và các người thân, bạn bè của bà.

Mai Hương tên đầy đủ là Phạm Thị Mai Hương, sinh năm 1941 tại Đà Nẵng. Bà là con gái của ông Phạm Đình Sỹ và nữ kịch sĩ Kiều Hạnh. Ông Phạm Đình Sỹ là anh trai của các ca sĩ trong ban hợp ca Thăng Long gồm Thái Hằng (vợ nhạc sĩ Phạm Duy), Thái Thanh, Hoài Trung và nhạc sĩ Phạm Đình Chương.

Sinh thời, ông Sỹ làm công chức, thường xuyên phải hoán chuyển nhiều nơi. Do đó, dù gốc Hà Nội, bà sinh ra và sống vài năm đầu đời tại Đà Nẵng. Do đại gia đình có nhiều giọng ca nổi tiếng, Mai Hương lớn lên trong môi trường nghệ thuật và chịu ảnh hưởng từ các tiền bối, trong đó có người cô ruột là "Đệ nhất danh ca" Thái Thanh.

 Mai Hương ngày xưa

Một phần của đại gia đình Mai Hương, trong đó hàng trên cùng là ba mẹ con

(từ phải sang) gồm Mai Hương, bà mẹ Kiều Hạnh và em gái Bạch Tuyết - Ảnh: ĐINH TIẾN MẬU

Vào năm 1952, gia đình Mai Hương chuyển vào Sài Gòn và sống tại đây đến năm 1975. Bà được nhận xét "sinh ra ở miền Trung, lớn lên ở miền Bắc và thành danh ở miền Nam", hội đủ ba miền của đất nước.

Mai Hương và chồng, ông Trương Dục, có cuộc hôn nhân hạnh phúc hơn 60 năm và có 4 người con. Mai Hương từng chia sẻ chồng là mối tình đầu của bà. Họ gặp nhau ở phi trường Tân Sơn Nhất. Trước khi quen ông vào năm 1961, bà chỉ đi hát cho sinh viên nghe nhưng chỉ trong giới hạn giao lưu văn nghệ.

Đám cưới của cặp vợ chồng Mai Hương - Trương Dục - ẢNH TƯ LIỆU

Trong sự nghiệp, Mai Hương hát nhạc của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng như Đoàn Chuẩn - Từ Linh, Dương Thiệu Tước, Phạm Duy, Văn Cao...

Bà ra mắt các băng đĩa: Mai Hương và những tuyệt phẩm Đoàn Chuẩn - Từ Linh, Tình khúc Dương Thiệu Tước, Tình khúc Văn Cao - Nhạc tiền chiến 4...( Theo Tuổi trẻ)

 

Ca khúc "Quê nghèo" - Phạm Duy sáng tác, Mai Hương thu âm trước năm 1975

 

Mai Hương, Một Ánh Sao Rơi!

 

 

Cách đây hai thập niên, vào thời điểm nầy, Lâm Tường Dũ bàn với tôi thực hiện Giai Phẩm Xuân cho tờ Thế Giới Nghệ Thuật. Với nhạc sĩ thì dựa vào các nhạc phẩm sáng tác về Xuân nhưng với ca sĩ thì mông lung nên dựa vào bức tranh tứ quý: mai, lan, cúc, trúc để viết. Tôi chọn 4 ca sĩ khởi đầu với chữ Mai: Mai Hương, Mai Hân, Mai Ngọc Khánh & Mai Lệ Huyền. Lâm Tường Dũ chọn 4 chữ Lan cuối cùng: Thanh Lan, Ngọc Lan, Ý Lan & Hương Lan.

Ngọc Lan sinh ở Nha Trang, qua đời năm 2001, nay đến Mai Hương sinh ở Đà Nẵng từ trần vào chiều Chủ Nhật 29/11/2020 tại Nam California. Tôi thích và thiện cảm với hai ca sĩ nầy từ tiếng hát đến nhân cách sống và gắn liền với nơi chốn cố hương và quê vợ.

Mai Hương là một trong những ca sĩ duy nhất không bị scandal nào trong tình yêu và nghiệp dĩ. Ca sĩ có công việc vững chắc ở Bank of America. Là con chiên rất ngoan đạo Tin Lành, Chủ Nhật nào cũng đi lễ ở nhà thờ Vietnamese United Methodist ở Anaheim, tuy xa nhà nhưng có đông cộng đồng người Việt. Thứ Sáu, 11 tháng 12, nhà thờ làm Lễ Dâng Xác Trương Mai Hương (lấy họ chồng) - tôi là Phật Tử thuần thành nhưng trong văn học nghệ thuật với những khuôn mặt chân chính đều bày tỏ lòng cảm mến.

Trong mùa dịch Covid-19 đang cô lập mọi người, rất tiếc có hai ca sĩ được mọi người ái mộ đã vĩnh biệt cõi trần, ca sĩ Thái Thanh qua đới 17 tháng 3, 2020 và lần nầy đến ca sĩ Mai Hương, những người ái mộ không đến để tiễn đưa lần cuối!

Về tiểu sử Mai Hương đã được đề cập khá nhiều nên ghi tổng quát:

Mai Hương nguyên danh Phạm Thị Mai Hương, gốc Hà Nội, sinh năm 1941 tại Đà Nẵng. Xuất thân trong một gia đình nghệ sĩ, cha mẹ MH là Phạm Đình Sỹ và nữ kịch sĩ Kiều Hạnh, diễn viên đoàn kịch Sao Vàng của Thế Lữ, được Bộ Thông Tin VNCH đã trao tặng danh hiệu nữ kịch sĩ xuất sắc nhất năm 1956. Ông Phạm Đình Sỹ là anh trai của các ca sĩ Thái Hằng (vợ nhạc sĩ Phạm Duy), ca sĩ Thái Thanh, ca sĩ Hoài Trung Phạm Đình Viêm và nhạc sĩ Hoài Bắc Phạm Đình Chương.

Năm 1951, gia đình ông Phạm Đình Sỹ mới trở về Hà Nội, cuối năm 1952 di cư vào Sài Gòn sống cho đến năm 1975. Năm 1953, mới 12 tuổi đã tham dự thi cuộc tuyển lựa ca sĩ của đài phát thanh Pháp Á tại rạp Norodom, với ca khúc Xuân & Tuổi Trẻ (nhạc La Hối, lời Thế Lữ) được trúng tuyển. Mai Hương cộng tác với chương trình nhi đồng của nữ ca sĩ Minh Trang trên đài Phát Thanh Sài Gòn, thời gian cộng tác với các chương trình thiếu nhi, khi trao lại cho kịch sĩ Kiều Hạnh đổi tên là ban Tuổi Xanh.

Ban Tiếng Tơ Đồng: Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao

 Khi Đài Phát Thanh Pháp Á, sau đổi tên thành Đài Phát Thanh Quốc Gia rồi Đài Phát Thanh Sài Gòn), Ban Tuổi Xanh tiếp tục cộng tác với đài phát thanh hàng tuần. Ban Tuổi Xanh đã quy tụ những tiếng hát Bích Chiêu, Mai Hương, Bạch Tuyết, Quỳnh Giao, Tuấn Ngọc, Hoàng Oanh, Phương Hoài Tâm, Xuân Thu… và  Bạch Tuyết (sinh năm 1943, em gái Mai Hương vừa qua đời cách nay 3 tháng, trùng tên đào cải lương Bạch Tuyết). Mai Hương theo học trường Quốc Gia Âm Nhạc (cùng thời điểm theo tại trường trung học Nguyễn Bá Tòng) được khoảng ba năm về violin, ký âm pháp, đàn tranh và hợp xướng. Sau đó vì bận thi tú tài 1 nên phải bỏ dở.

Khi Mai Hương tham gia trong ban nhạc của Võ Đức Tuyết và Hoàng Lang cùng với những ca sĩ nổi danh của nền tân nhạc lúc đó là Anh Ngọc, Duy Trác, Nhật Bằng, Kim Tước, Mộc Lan, Châu Hà…Và, Mai Hương lần lượt xuất hiện trong nhiều ban ca nhạc khác, như Tiếng Nhạc Tâm Tình của Anh Ngọc, ban Phương Hoa của Vũ Thành, ban Hương Quê của Hoàng Trọng… Và nổi tiếng nhất với Ban Tiếng Tơ Đồng của Hoàng Trọng năm 1967 (Ông hoàng của dòng nhạc Tango, tôi đã viết bài Hoàng Trọng, Ngàn Thu Áo Tím trong quyển Văn Nhân & Tình Sử).

Ban nhạc quy tụ những ca sĩ lừng danh, thường trình bày những ca khúc tiền chiến và những ca khúc nổi tiếng của các nhạc sĩ nổi tiếng ổ Sài Gòn. Mai Hương trong tam ca của Ban Tiếng Tơ Đồng (Kim Tước, Quỳnh Giao), theo dòng thời gian từ trong nước, ở Hoa Kỳ. Tiếng hát Mai Hương thường xuyên ngoài Đài Phát Thanh Sài Gòn còn có  Đài Tiếng Nói Quân Đội, Đài Tiếng Nói Tự Do và Đài Truyền Hình Việt Nam trên băng tần số 9 ở Sài Gòn.

Lập gia đình với người bạn đời Trương Dục, tuy không ở trong giới nghệ sĩ năm 1961 nhưng là người cảm thông và khích lệ. Ngày 22 tháng 4 năm 1975, Mai Hương cùng chồng Trương Dục, phục vụ tại Nha Hàng Không Dân Sự, và bốn người con rời Việt Nam tạm trú tại trại Pendleton ở Nam California. Lần đầu tiên Mai Hương được mời đi trình diễn ở thành phố New Orleans.

Năm 1980, Mai Hương phát hành băng nhạc đầu tiên tại hải ngoại mang tên Giấc Mơ Hồi Hương (Ca khúc nổi tiếng cũa Vũ Thành). Và từ đó thu âm, có nhiều CD như Nhặt Cánh Sao Rơi, Serenade, Vàng Phai Mấy Lá... Tổng cộng khoảng 10 CD với tiếng hát của Mai Hương, trong số đó có CD Tìm Nhau Bốn Mùa hát chung với Kim Tước và Quỳnh Giao. Năm 1989 Mai Hương sống ở Rowland Heights, Nam California và làm việc cho ngân hàng Bank Of America. Sau 22 năm với công việc, năm 2000 Mai Hương về hưu và thỉnh thoảng xuất hiện trong các chương trình tưởng nhớ nhạc sĩ qua đời… Tiếng hát của Mai Hương là tiếng hát của hoài vọng, nhớ thương của cung thương ngày cũ.

Mỗi ca sĩ thường có những ca khúc để đời. Với giọng soprano, nhẹ nhàng, dịu dàng, thiết tha, bay bổng, cao vuốt và điêu luyện… thích hợp với những ca khúc bán cổ điển. Mai Hương đã thực hiện trong CD như: Giấc Mơ Hồi Hương, Bóng Ngày Qua, Đi Chơi Chùa Hương, Mai Hương & Những Tuyệt Phẩm Đoàn Chuẩn - Từ Linh, Tình Khúc Dương Thiệu Tước, Khúc Nhạc Ly Hương, Nhạc Tiền Chiến, Nhặt Cánh Sao Rơi, Vàng Phai Mấy Lá, Như Ngọn Buồn Rơi, Sérénade, LỠ Chuyến Đò, Tình Khúc Văn Cao với Quỳnh Giao… Với hàng trăm ca khúc đó cũng hình dung được những bài hát do Mai Hương trình bày.

Trong cuộc phỏng vấn của Nghiêm Xuân Cường thực hiện, ca sĩ Mai Hương đã chia sẻ:

“Trong các kỷ niệm của tôi về thuở niên thiếu, phải nói thời gian êm đẹp nhất là những năm tôi học từ lớp Đệ Ngũ đến Đệ Tam. Tôi nhớ lại những tháng năm ấy như một giòng sông êm đềm trôi mãi trong ký ức bởi lẽ ở tuổi mười bốn, mười lăm, tôi đã bắt đầu biết nghĩ và chớm yêu thơ nhạc nhưng vẫn chưa có gì phải lo nghĩ về thi cử hay về cuộc chiến. Những năm cuối thập niên 60, Sài Gòn vẫn còn huởng không khí tương đối yên bình…

… Từ năm 1972 đến 1975 một số người bỏ đài, không còn hứng khởi hát hò như xưa. Trong số đó có chị Kim Tước ra Nha Trang, chị Hà Thanh ra Huế. Các anh Thanh Vũ, Trần Ngọc (nhạc sĩ Tuấn Khanh) chú Anh Ngọc không hát nữa. Cô Thái Thanh cũng vậy. Trong đài bấy giờ chỉ còn tôi, Hoàng Oanh, cô Mộc Lan, chị Thể Tần và Phượng Bằng, Phương Nga. Quỳnh Giao thì không đi hát đều đặn như trước mà bận dậy đàn nhiều hơn. Ngày 22 tháng 4 năm 1975 chúng tôi rời bỏ quê hương đi lánh nạn xứ người…”

Với tâm niệm của người ca sĩ: “Tôi muốn làm công việc giới thiệu này để nhắc nhở cho những người yêu nhạc rằng kho tàng âm nhạc Việt Nam rất phong phú bằng cách ghi âm lại những bài hát ấy để lưu lại một cái gì cho người, cho mình. Tôi cũng muốn ghi lại giọng ca của mình trong lúc còn có thể hát được vì có ai trẻ mãi với thời gian. Những bản nhạc mà tôi đã chọn để hát cho khoảng hơn 10 CDs cho các trung tâm Diễm Xưa, Tú Quỳnh, Mai Ngọc Khánh... cũng không ngoài mục đích kể trên”.

Với nhạc sĩ Vũ Thành ngoài ca khúc Giấc Mơ Hoài Hương, tôi thích tình khúc Nhặt Cánh Sao Rơi với tiếng hát Mai Hương cũng là chủ đề của CD. Giờ đây, anh Trương Dục ngậm ngùi thương tiếc hình ảnh người vợ hiền Mai Hương ra người thiên cổ với nỗi lòng trong ca khúc:

“Người năm trước còn nhớ chăng đêm nào

Đầu xanh tóc tình lứa đôi dạt dào

Bạn ngồi bên tôi tay nắm tay tim nghẹn ngào

Lặng nhìn trời xanh thẳm đẹp muôn ánh sao

… Nhưng đêm nay sao trời vẫn sáng

Ngân hà đôi hướng có riêng mình tôi

Lắng buồn đoái nhìn ngàn sao thờ ơ

Áng mây buông lững lờ

Bới trong tro tàn tìm ánh sao xưa”.

Trước đây, thỉnh thoảng tôi gặp anh Trương Dục ở quán cà phê trong khu Catinat Plaza ở Little, sau nầy chưa có dịp gặp nhau. Tưởng nhớ người quá cố, ca sĩ Mai Hương, gởi đến anh lời chia buồn và tựa đề bài viết: Mai Hương, Một Ánh Sao Rơi trong gia đình anh và mọi người ở trong nước và hải ngoại đã một thời yêu thích tiếng hát theo năm tháng.

Little Saigon, Nov 30, 2020

Vương Trùng Dương (việt báo)

 Mai Hương năm 2016

⊱•═•⊰

Danh ca Mai Hương và những ca khúc nhạc cổ điển

lời Việt Phạm Duy: Trở Về Mái Nhà Xưa, Dạ Khúc…

 ◊◊◊

Từ khoảng thập niên 1950, một số nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam đã bắt đầu soạn lời Việt cho các ca khúc nổi tiếng của Mỹ và châu Âu, nhưng có lẽ không ai soạn lời Việt cho nhạc ngoại nhiều bằng nhạc sĩ Phạm Duy. Chỉ tính riêng các ca khúc nhạc cổ điển bất hủ được ông viết lời Việt thì đã có thể xếp thành một dòng nhạc riêng, với rất nhiều ca khúc quen thuộc với nhiều thế hệ người Việt: Dòng Sông Xanh, Chủ Nhật Buồn, Trở Về Mái Nhà Xưa, Chiều Tà, Dạ Khúc, Khúc Hát Thanh Xuân…

Nhạc sĩ Phạm Duy bắt đầu soạn lời Việt cho nhạc nước ngoài từ khi ông còn rất trẻ, ở tuổi chưa đến 20. Vào thời điểm mà các nhạc sĩ lúc bấy giờ thường chọn nhạc bình dân Pháp để soạn lời, thì Phạm Duy là người tiên phong viết lời Việt cho nhạc cổ điển Âu – Mỹ, bắt đầu với những tác phẩm của nhà soạn nhạc lừng danh người Áo là Johann Strauss. Theo Phạm Duy giải thích thì những bài điệu valse của Johann Strauss tuy là nhạc cổ điển nhưng có bài được phổ biến dưới hình thức ca khúc phổ thông.

 Ngoài bài valse bất hủ là Le beau Danube bleu (Dòng Sông Xanh), Johann Strauss có một bài valse khác cũng được nhiều người biết đến là When We Were Young, đã được Phạm Duy viết lời Việt có tựa Khúc Hát Thanh Xuân với những ca từ tươi vui:

“Ngày ấy khi xuân ra đời, một trời bình minh có lũ chim vui
Có lứa đôi yêu nhau rồi hẹn rằng còn mãi không nguôi…”

Trong hồi ký của mình, nhạc sĩ Phạm Duy giải thích về cơ hội được tiếp cận với nhạc cổ điển để rồi sau đó tiếp tục tìm hiểu và viết lời Việt như sau:

“Vào tuổi tôi, ai mới bước vào âm nhạc thì cũng đều mê nhạc cổ điển Tây Phương. Tôi có cái may là có một người anh đi du học bẩy năm ở bên Pháp. Khi hồi hương, người anh mang về nhiều đĩa hát loại 78 tours, tất cả là nhạc cổ điển. Tôi đã nghe và đã thuộc lòng nhiều bài được coi như bất tử, chẳng hạn bài SÉRÉNATA của Toselli. Bản nhạc Ý đại lợi này thì quá đẹp, lại có thêm lời ca tiếng Pháp rất hay”.

Người anh mà nhạc sĩ Phạm Duy nói đến là Phạm Duy Khiêm, một người du học ở Pháp 7 năm, là người Việt Nam đầu tiên lấy bằng tú tài văn chương Pháp. Nhờ người anh tài giỏi đỗ đạt này mà khi chỉ mới 14,15 tuổi, nhạc sĩ Phạm Duy đã được tiếp xúc và yêu nhạc cổ điển.

Lúc ấy thành phố Sorrento còn sơ sài với những mái nhà tường đất, những con đường lót đá và đầy bụi ven vực biển, người thưa thớt và dịch vụ nghèo nàn. Nhưng Sorrento lúc ấy cũng rất đẹp trong nét hoang sơ và ngút ngàn của sóng biển ngàn khơi, những ngọn đồi cao chênh vênh cách mặt biển 50m như cánh cung nhìn ra vịnh Napoli tràn ngập trong ánh nắng miền Địa Trung Hải.

Ở phần lời Việt, nhạc sĩ Phạm Duy giữ được phần nào tinh thần của bài gốc, nói lên ước mơ được trở về với những điều bình dị nhất của đời người. Ngoài ra ông còn nói rằng bài soạn lời Việt đã được “thêm chút không khí Bồ Tùng Linh, vì tôi là người Á Ðông”.

Trở Về Mái Nhà Xưa cũng là ca khúc mà cố danh ca Mai Hương chọn làm bài hát mở đầu cho CD nhạc cổ điển mà bà đã thực hiện cách đây khoảng 20 năm. CD đã chọn ra hầu như tất cả những bài nhạc cổ điển lời Việt quen thuộc nhất với người Việt, như Chủ Nhật Buồn, Dạ Khúc, Dòng Sông Xanh…

CD có 11 bài hát nhạc cổ điển bất hủ lừng danh thế giới, tất cả đều được nhạc sĩ Phạm Duy viết lời Việt, và cho đến nay, CD này vẫn được xem là album nhạc cổ điển lời Việt hay nhất. Mời các bạn nghe lại sau đây: 

Dạ Khúc – Mai Hương

✧✧✧

Một kỷ niệm kinh hoàng với ca sĩ Mai Hương

 

Ca sĩ Mai Hương tên thật là Phạm Thị Mai Hương, sinh năm 1941 tại Đà Nẵng,

mất ngày 29 tháng 11, 2020 tại California, hưởng thọ 79 tuổi.

Tôi yêu tiếng hát Mai Hương từ thời mới lớn. Tiếng hát cao vút và trong như pha lê. Lúc đó tuy chưa quen Mai Hương vậy mà tôi đã cảm thấy rất gần gũi với Mai Hương. Tôi không hề có cảm giác xa cách giữa một thính giả và một ca sĩ nhà nghề. Tiếng hát Mai Hương, dáng dấp Mai Hương, với tôi thân quen như một người bạn. Một người bạn quen biết rất lâu với nhiều tình cảm đậm đà quý mến. Có lẽ tại vì chúng tôi cùng tuổi với nhau. Có lẽ tại vì Mai Hương lúc nào cũng đơn giản. Ngay cả khi đứng trên sân khấu, trông Mai Hương cũng đơn sơ giản dị như nột cô nữ sinh trên sân khấu nhà trường. Mai Hương không điệu đà, không làm dáng, không tỏ ra mình là ca sĩ nổi tiếng. Tôi thích cái vẻ e lệ dịu dàng của Mai Hương, và nụ cười với chiếc răng khểnh duyên ơi là duyên.

Bây giờ tôi xin vào đề câu chuyện kinh hoàng của hai chúng tôi. Tôi lập gia đình rất sớm nên phải theo ông chồng nhà binh di chuyển đi các nơi. Tôi phải rời xa Sài Gòn một thời gian khá dài. Tôi rất buồn vì nhớ bạn bè, nhớ cái không khí văn nghệ của Sài Gòn. Nhớ những khuôn mặt, những giọng hát của các ca sĩ mà tôi yêu mến.

Năm 1971, nhà tôi được thuyên chuyển về lại Sài Gòn. Tôi mừng rỡ quá vì sẽ được gặp lại bao nhiêu là người thân. Tôi về trước lo sửa sang nhà cửa, luôn tiện đưa con gái út (cháu Uyển Diễm vừa tròn 5 tuổi) về Sài Gòn để người bạn thân của chúng tôi, anh nha sĩ Cân chữa răng cho cháu.

Về tới Sài Gòn được hai hôm thì nhóm bạn thân rủ tôi đi phòng trà Tự Do nghe nhạc. Các bạn quảng cáo là có Khánh Ly, Tuấn Ngọc, Khánh Hà, Anh Tú và ban nhạc Blue Jet. Đặc biệt có cả Mai Hương nữa (Mai Hương rất khi ít khi hát ở phòng trà). Nghe nói vậy là tôi đồng ý đi liền dù phải mang theo cả cháu Uyển Diễm vì cháu không chịu rời mẹ.

Nhóm bạn tôi có cả thảy 16 người. Chúng tôi chọn một dãy ghế dài ngay trước sân khấu. Chương trình ca nhạc hôm đó mở đầu với những bài hát thật hay, tôi ngồi ngây người ra nghe. Sau Tuấn Ngọc là Mai Hương. Tôi đang say sưa uống từng lời ca của Mai Hương qua nhạc phẩm “Love Story” lời Việt của nhạc sĩ Phạm Duy thì cháu gái kêu lạnh. Tôi bế cháu lên lòng và ôm chặt cho cháu đỡ lạnh vì cháu mặc váy ngắn mà phòng trà họ để máy lạnh hơi nhiều. Bỗng nhiên một tiếng nổ long trời lở đất. Tôi tưởng như mình đang nằm mơ.

Bụi tro màu xám lẫn trong khói bay mù mịt trước mặt. Mai Hương nằm té xỉu ngay trên sân khấu. Tiếng người la hét, rồi người ta chen chúc nhau để thoát ra ngoài. Mùi thuốc nổ khét lẹt xung quanh. Tôi ngồi bất động bàng hoàng như không tin ở mắt mình với những cảnh vật kinh hoàng trước mặt. Ba người bạn trong nhóm của tôi nằm chết dưới sàn ngay cạnh chỗ tôi.

Anh nha sĩ Cân chưa kịp chữa răng cho cháu Uyển Diễm thì đã ra người thiên cổ. Xác anh chị Sang nằm sóng sượt bất động. Đầu anh Sang gối lên chiếc giày màu bạc óng ánh của tôi. Chị Cân bị thương mất một con mắt và vỡ một bên quai hàm máu ra đầy khắp mặt. Anh Hiệp cũng trong nhóm tôi bị sức ép của mìn nổ làm một bên lỗ tai bị rỉ máu. Chi Mô bị thương nhẹ ở chân. Xác chết nằm la liệt dưới sàn. Sợ hãi làm tôi cảm thấy toàn thân lạnh run như người lên cơn sốt rét.

Cháu Uyển Diễm khóc òa lên vì sợ. Tôi ôm con trong tay, lấy hết sức bình sinh rút chân ra khỏi chiếc giày mà ông bạn thân của tôi đang nằm gối đầu yên nghỉ giấc ngàn thu.

Tôi tưởng như mình đi không vững. Tôi cố lết ra khỏi phòng trà. Gần cửa ra vào chiếc màn nhung màu đỏ thắm vẫn còn đang cháy. Bên trong và bên ngoài phòng trà tiếng la hét, tiếng còi xe chữa lửa, xe cứu thương, tiếng người khóc, tiếng người gọi nhau và những ngọn lửa còn âm ỉ cháy bên cạnh những đám khói mờ mịt tạo thành một cảnh tượng hãi hùng náo loạn.

Người bạn đi cùng chở tôi về nhà. Bước qua chiếc gương của cái tủ đứng trong phòng ngủ tôi hết hồn sững lại. Trong gương là hình ảnh người đàn bà mặt mũi, tóc tai, quần áo, đều màu xám. Bụi tro của mìn claymore, phủ kín người tôi từ đầu tới chân khiến mái tóc đen và chiếc áo đầm hàng ren đen bóng của tôi cũng biến thành mầu xám tro. Một chiếc bông tai của tôi văng đi hồi nào, chỉ còn lại chiếc kia toòng teng lủng lẳng bên tai trái trông thật khôi hài.

Tôi bỏ cả giầy, quên cả bóp để lại phòng trà. Như một phép lạ, hai mẹ con tôi không hề hấn một chút nào. Sau khi tắm rửa thay quần áo, hai mẹ con tôi chui vào chăn nằm ôm nhau, lúc đó tôi mới bắt đầu khóc. Khóc vì sợ, khóc vì nghĩ đến những người bạn mà mới buổi chiều tối chúng tôi còn ngồi ăn uống vui vẻ với nhau. Sau đó kéo nhau đi phòng trà nghe nhạc. Chỉ mấy tiếng đồng hồ sau tất cả đã biến đổi hoàn toàn. Tôi sẽ chẳng bao giờ còn được nhìn thấy những người bạn thân yêu đó nữa.'

Rồi còn những người bạn bị thương. Chị Cân mà tôi vẫn thân mật gọi tên chị là Mỹ, mới mấy tiếng đồng hồ trước đây chị là người đàn bà hạnh phúc nhất đời. Chị có đầy đủ điều kiện mà mọi người đều mơ ước: sắc đẹp, danh vọng, tiền và tình yêu nồng thắm của anh Cân. Bây giờ chị là người bất hạnh nhất. Chồng chết và khuôn mặt xinh đẹp của chị đã bị tàn phá bởi những mảnh mìn độc ác. Chưa kể những đau đớn về thể xác mà chị phải chịu trong thời kỳ dưỡng thương.

Rồi còn Mai Hương, người ca sĩ mà tôi rất yêu mến, đang nằm sóng soài trên sân khấu, không biết tình mạng sẽ ra sao. Rồi Khánh Ly và gia đình anh em Tuấn Ngọc. Rồi còn bao nhiêu khán thính giả của phòng trà Tự Do có mặt đêm nay nữa. Bao nhiêu gia đình mất đi những người thân yêu. Bao nhiêu người sẽ biến thành người tàn tật?

Hôm sau tôi đi đến nhà xác thăm những người bạn vừa mới ra đi tức tưởi đêm hôm trước. Cảnh tượng ở đây còn làm tôi kinh khiếp hơn. Xác người nằm la liệt. Không hiểu vì không đủ chỗ trong phòng lạnh để chứa xác chết hay sao mà người ta để người chết nằm cả xuống sàn, ra cả ngoài hàng hiên. Mỗi xác người được đặt cạnh một cây nước đá thật lớn (quý vị còn nhớ loại nước đá thật to ở Sài Gòn ngày xưa chứ?). Nghe nói số người chết lên đến hơn 60 người và số bị thương gần 200 người.

Rời nhà xác tôi vừa đi vừa khóc như một người điên. Tôi chạy qua nhà thương thăm Mỹ. Chị nằm đó với lớp băng trắng quấn che gần hết khuôn mặt. Nước mắt tôi lại chảy. Tôi nhìn bạn lòng xót xa vô cùng. Không biết Mỹ đã biết tin người chồng thân yêu, ông anh ruột và bà chị dâu đã vĩnh biệt Mỹ rồi không? Nước mắt tôi cứ tuôn trào như một dòng suối nhỏ không sao ngăn lại được.

Về đến nhà thì hai mắt tôi sưng húp như hai quả bàng nhỏ. Tôi vớ tờ báo đọc vội vàng, sau khi biết tin Mai Hương và các ca sĩ không ai bị thương nặng hay chết cả, tôi mới vui được một chút. Tôi định giấu nhẹm không cho chồng tôi biết vụ tôi đi nghe nhạc ở phòng trà buổi tối, mà dám cả gan mang cả con gái mới 5 tuổi đi theo. Nhưng báo chí đã loan tin tùm lum hết, chẳng biết ở đâu mà họ mò ra cả tên tuổi của tôi. Cho nên chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, tôi đã bị ông chồng từ Vũng Tàu gọi về “ca cải lương” cho tôi nghe mệt nghỉ.

Tôi bị chồng la là phải, nghĩ lại tôi mới thấy tôi liều. Ham nghe Mai Hương, Tuấn Ngọc, Khánh Ly quá (lúc đó Khánh Hà, Anh Tú còn quá trẻ nên chưa nổi tiếng mấy) đến nỗi mang cả con bé đi theo. Nghĩ lại tôi thấy mình quá may mắn. Nếu hôm đó cháu Uyển Diễm không mặc váy ngắn, không bị lạnh, và tôi không vừa bế cháu vào lòng, ôm chặt cho nó đỡ lạnh. Nếu cháu vẫn ngồi trên ghế một mình, thì sức nổ mạnh của trái mìn claymore chắc chắn đã làm cháu chết hoặc bị thương rồi. Và như vậy tôi sẽ phải ân hận suốt đời.

Mai Hương và tôi có duyên nợ với nhau, nên từ ngày lưu lạc qua đất Mỹ, hai chúng tôi lại có cơ hội gặp gỡ và trở nên thân thiết. Sau này nhắc lại vụ nổ ở phòng trà Tự Do, hỏi thăm Mai Hương tôi mới biết, tối hôm đó Mai Hương đã bị cái bóng đèn trên trần sân khấu rơi trúng đầu, làm cháy một ít lông mi ở bên mắt trái và bị thương nhẹ ở khóe mắt. Có thể vì sợ quá nên Mai Hương ngất đi một lúc. Tỉnh dậy Mai Hương nghe tiếng Khánh Ly gọi ầm ĩ, “Chị Mai Hương đâu, chi Mai hương có sao không?”

Phòng trà vẫn tối mờ mờ vì hệ thống điện bị hư nhiều chỗ, nên Khánh Ly không nhìn thấy Mai Hương nằm xỉu trên sân khấu. Mai Hương tỉnh dậy thì anh Dục chồng Mai Hương cũng vừa đi tới. Áo chemise của anh ướt đẫm máu làm Mai Hương lo sợ tưởng anh bị thương. Anh cho biết đó là máu của người ngồi bên cạnh bị thương bắn vào áo anh. Anh Dục dìu Mai Hương ra về.

Trên đường ra cửa, Mai Hương thấy xác của nữ tài tử Thúy Ngọc- vợ của nhạc sĩ Lê Văn Thiện - nằm sóng xoài. Ba người cháu của Mai Hương từ Nha Trang vào chơi, đi nghe nhạc cũng bị thương nhẹ. Ra tới ngoài đường, anh Dục và Mai Hương hốt hoảng khi nhìn thấy cái mui vải của chiếc xe hơi La Đà Lạt của hai vợ chồng đang bốc cháy, vì anh Dục đậu ngay góc đường gần sát phòng trà.

Có một điều cho đến bây giờ Mai Hương vẫn không hiểu được là tại sao hôm đó trong ví của Mai Hương lại có mảnh vỡ của đáy ly rượu nằm gọn bên trong, dù cái ví vẫn đóng kín. Ở đời có rất nhiều điều không thể hiểu và không cắt nghĩa được. Chẳng hạn như cả nhóm bạn chúng tôi ngồi sát cạnh nhau, cùng một giẫy ghế. Vậy mà kẻ sống, người chết, kẻ bị thương, người bình yên vô sự. Có phải Thượng Đế đã dành sẵn cho mỗi người một số mệnh rồi không?

Những người chết chưa chắc đã xui xẻo, bởi vì họ chết thật nhanh, không cảm thấy đau đớn. Chết trong lúc đang thưởng thức những giòng nhạc thật hay cũng sướng lắm chứ. Sau này tôi nghe nói Việt Cộng đặt mìn ở phòng trà Tự Do chủ tâm để giết ông tướng McNamara của Mỹ, vì tưởng tối hôm đó ông ta sẽ đến thăm phòng trà Tự Do. Không ngờ phút chót ông ta đổi ý, lại đi một nơi khác.

 *

Sau vụ nổ ở phòng trà Tự Do, tôi đã tự nhủ lòng: Ngày nào cũng có thể là ngày cuối cùng trong cuộc đời, bởi vậy hãy sửa soạn sẵn sàng. Cố gắng làm những điều lành, điều tốt, để bất cứ lúc nào Thượng Đế gọi là thơ thới ra đi. Không có gì phải ân hận hay lo sợ.

Tôi và Mai Hương thường nói đùa với nhau “mạng chúng mình lớn lắm, mìn claymore mà còn phải né cơ mà.”

(Tác giả Hồng Thủy là cựu học sinh trường Trưng Vương.)

 

Nam Mai st tổng hợp

 

Chỉnh sửa lần cuối vào %AM, %03 %702 %2020 %10:%12
back to top